Dàn bài phân tích bản Tuyên ngôn Độc lập của Hồ Chí Minh

dan-bai-phan-tich-ban-tuyen-ngon-doc-lap-cua-ho-chi-minh

Dàn bài phân tích bản Tuyên ngôn Độc lập của Hồ Chí Minh.

  • Mở bài:

Tuyên ngôn Độc lập do chủ tịch Hồ Chí Min đích thân soạn thảo. Đây là một văn kiện lịch sử có giá trị to lớn, một áng văn chính luận bất hủ: Tuyên bố xoá bỏ chế độ phong kiến tồn tại hàng nghìn năm, chấm dứt hơn 80 năm cai trị của thực dân Pháp ở nước ta và mở ra kỉ nguyên tự do, độc lập của dân tộc.

  • Thân bài:

Hoàn cảnh, đối tượng, mục đích sáng tác của Tuyên ngôn Độc lập.

a. Hoàn cảnh ra đời:

– Ngày 19/8/1945, Cách mạng tháng Tám thành công ở Hà Nội.

– Ngày 26/8/1945 Bác Hồ từ chiến khu Việt Bắc về tới Hà Nội. Tại căn nhà số 48 phố Hàng Ngang Hà Nội, Người soạn thảo bản Tuyên ngôn Độc lập. Ngày 2/9/1945 Người đọc bản Tuyên ngôn Độc lập ở Quảng trường Ba Đình- Hà Nội trước 50 vạn dân thủ đô và các vùng lân cận khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa.

– Cùng lúc này nhiều lực lượng thù địch đã và đang âm mưu xâm lược nước ta, đặc biệt là thực dân Pháp đang tìm mọi cách để quay trở lại Đông Dương…

b. Đối tượng hướng đến:

+ Toàn thể nhân dân Việt Nam (Hỡi đồng bào cả nước!).

+ Thế giới. Đặc biệt là Anh, Pháp, Mĩ.

+ Các thế lực phản dộng trong và ngoài nước.

c. Mục đích:

– Tuyên bố nền độc lập của nước ta.

– Tranh luận nhằm bác bỏ luận điệu xảo trá của Thực dân Pháp.

Phân tích văn bản.

– Sau hàng nghìn năm dưới chế độ phong kiến, sau hơn tám mươi năm dưới chế độ thực dân, mùa thu năm 1945, nhân dân Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng đã tiến hành thắng lợi cuộc Cách mạng tháng Tám, giành được quyền độc lập dân tộc, mở ra một kỉ nguyên mới cho đất nước – kỉ nguyên Độc lập – Tự do – Hạnh phúc.

– Nền độc lập dân tộc vừa giành được đang đứng trước nguy cơ “ngàn cân treo sợi tóc” bởi âm mưu quay trở lại xâm lược Việt Nam của thực dân Pháp. Chúng sử dụng chiêu bài: Việt Nam là thuộc địa cũ của Pháp và Pháp có công khai hoá Việt Nam. Pháp lại có công đứng về phe Đồng minh chống phát xít, có công bảo hộ Việt Nam nên Pháp có quyền thay mặt quân Đồng minh vào tiếp quản Việt Nam từ phát xít Nhật. Hai chiêu bài này rất dễ đánh lừa công luận quốc tế và hợp thức hóa việc thực dân Pháp quay trở lại Việt Nam. Trước tình hình đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết Tuyên ngôn Độc lập. Bản tuyên ngôn lịch sử này được đọc trước quốc dân đồng bào tại Quảng trường Ba Đình vào ngày 2 tháng 9 năm 1945.

Cơ sở pháp lí và chính nghĩa của bản tuyên ngôn.

Nêu lên và khẳng định quyền con người và quyền dân tộc:

– Trích dẫn 2 bản Tuyên ngôn Ngôn: Tuyên ngôn Độc lập của Mĩ (1776) và Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của Pháp (1791) → Nêu lên nguyên lí cơ bản về quyền bình đẳng, độc lập của con người

* Ý nghĩa của bản trích dẫn:

+ Có tính chiến thuật sắc bén, khéo léo, khóa miệng đối phương.

+ Khẳng định tư thế đầy tự hào của dân tộc( đặt 3 cuộc cách mạng, 3 nền độc lập, 3 bản Tuyên ngôn ngang tầm nhau.)

– Lập luận sán tạo “Suy rộng ra…”  → từ quyền con người nâng lên thành quyền dân tộc.

– Với lời lẽ sắc bén, đanh thép, Người đã xác lập cơ sở pháp lý của bản Tuyên ngôn, nêu cao chính nghĩa của ta.

→ Đặt ra vấn đề cốt yếu là độc lập dân tộc.

* Bàn luận:

– Tác giả dẫn lời bản Tuyên ngôn Độc lập của nước Mĩ năm 1776 và bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Cách mạng Pháp năm 1791. Hai bản tuyên ngôn này đều khẳng định lẽ phải về quyền con người: “Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hoá cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc” (Tuyên ngôn Độc lập của nước Mĩ), “Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi, và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi” (Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Cách mạng Pháp).

– Từ lẽ phải về quyền con người, tác giả suy rộng ra lẽ phải về quyền dân tộc: “Suy rộng ra câu ấy có nghĩa là: tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”. Đây là một lập luận hết sức hợp lí và giàu sức thuyết phục, bởi vì mỗi một con người còn có quyền tự do, bình đẳng thì lẽ nào cả một dân tộc lại không có quyền bình đẳng, tự do. Theo một chính khách nước ngoài thì “Cống hiến nổi tiếng của cụ Hồ Chí Minh là Người đã phát triển quyền lợi của con người thành quyền lợi dân tộc. Như vậy nghĩa là tất cả mọi dân tộc đều có quyền quyết định lấy vận mệnh của mình”.

– Dẫn lời bản Tuyên ngôn Độc lập của nước Mĩ và bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của nước Pháp để nói với chính họ, cách lập luận của tác giả đã đạt được những hiệu quả to lớn:

+ Dùng lời đối phương để bác bỏ đối phương theo kiểu nghệ thuật “gậy ông đập lưng ông”.

+ Niềm tự hào dân tộc: đặt ngang hàng cuộc Cách mạng tháng Tám của ta với hai cuộc cách mạng có ý nghĩa thời đại là Cách mạng của nước Mĩ và Cách mạng của nước Pháp (niềm tự hào này là có cơ sở: Cách mạng Mĩ lật đổ chế độ thực dân, Cách mạng Pháp lật đổ chế độ phong kiến, còn cuộc Cách mạng tháng Tám của ta cùng một lúc “đánh đổ các xiềng xích thực dân” “đánh đổ chế độ quân chủ”).

+ Tranh thủ sự đồng tình ủng hộ của dư luận tiến bộ ngay tại nước Mĩ, nước Pháp. + Ngầm cảnh cáo: nếu thực dân Pháp và đế quốc Mĩ cố tình xâm lược Việt Nam thì họ sẽ phản bội lại truyền thống cao đẹp của dân tộc mình, họ sẽ làm hoen ố lá cờ tự do, bình đẳng mà cha ông họ từng giương cao.

3. Cơ sở thực tiễn của bản tuyên ngôn.

a. Tội ác của Pháp:

* Tội ác 80 năm: lợi dụng lá cờ tự do, bình đẳng..nhưng thực chất cướp nước,áp bức đồng bào ta,trái với nhân đạo và chính nghĩa.

– Chứng cứ cụ thể :

+ Về chính trị: không có tự do, chia để trị ,đầu độc , khủng bố.

+ Về kinh tế: bóc lột dã man

– Đoạn văn có giá trị của bản cáo trạng súc tích,đanh thép, đầy phẩn nộ đối với tội ác tày trời của thực dân

* Tội ác trong 5 năm (1940-1945):

– Bán nước ta 2 lần cho Nhật (bảo hộ?)

– Phản bội đồng minh ,không đáp ứng liên minh cùng Việt Minh để chống Nhật, thậm chí thẳng tay khủng bố ,giết nốt tù chính trị ở Yên Bái,Cao Bằng.

b. Lời kết án đày phẫn nộ, sôi sục, căm thù:

– Vừa: (quỳ gối ,đầu hàng, bỏ chạy..) → đanh thép tố cáo tội ác tày trời (từ đó,…từ đó..) → Đó là lời khai tử dứt khoát cái sứ mệnh bịp bợm của thực dân Pháp đối với nước ta ngót hơn 80 năm; vạch trần thái độ nhục nhã của Pháp gần một thế kỉ. Dân tộc Việt Nam (lập trường chính nghĩa)

– Gan góc chống ách nô lệ của Pháp trên 80 năm …

– Gan góc đứng về phe đồng minh chống Phát xít.

– Khoan hồng với kẻ thù bị thất thế.

– Giành độc lập từ tay Nhật chứ không phải từ Pháp .

* Phương pháp biện luận chặt chẽ, lô gích, từ ngữ sắc sảo. Cấu trúc đặc biệt,nhịp điệu dồn dập,điệp ngữ”sự thật “như chân lí không chối cải được.Lời văn biền ngẫu, phủ định chế độ thuộc địa thực dân Pháp và khẳng định quyền độc lập tự do của dân tộc

– Phủ định dứt khoát, triệt để… (thoát ly hẳn,xóa bỏ hết…..) mọi đặc quyền ,đặc lợi của thực dân Pháp với đất nước Việt Nam .

– Khẳng định mạnh mẽ quyền độc lập, tự do của dân tộc.

* Bàn luận:

– Phần thứ hai bản Tuyên ngôn: Khẳng định độc lập dân tộc trên cơ sở thực tiễn được soi sáng bởi chân lí, lẽ phải nêu ở phần mở đầu.  Trên cơ sở thực tiễn, tác giả lên án, tố cáo tội ác của thực dân Pháp để phủ nhận quyền
của Pháp đối với Việt Nam.

+ Pháp nêu chiêu bài có công khai hoá Việt Nam thì bản tuyên ngôn tố cáo tội ác xâm lược của thực dân Pháp để phủ nhận công lao khai hoá. Tác giả đã tố cáo tội ác kẻ thực dân xâm lược một cách toàn diện từ chính trị đến kinh tế…

+ Pháp nêu chiêu bài đứng về phe Đồng minh chống phát xít thì bản tuyên ngôn tố cáo thực dân Pháp đầu hàng phát xít Nhật để phủ nhận công lao bảo hộ: “chẳng những chúng không “bảo hộ” được ta, trái lại, trong 5 năm, chúng đã bán nước ta hai lần cho Nhật”.

– Trên cơ sở thực tiễn, tác giả nêu cao sự nghiệp chính nghĩa của nhân dân Việt Nam để khẳng định quyền độc lập dân tộc.

+ Nhân dân Việt Nam có quyền hưởng tự do, độc lập xuất phát từ chân lí, lẽ phải về quyền dân tộc; chính nhân dân Việt Nam (chứ không phải Pháp) đã đứng về phe Đồng minh chống phát xít Nhật, giành lại đất nước từ tay Nhật.

+ Nhân dân Việt Nam giành được độc lập dân tộc và đã có “Lâm thời Chính phủ của nước Việt Nam mới, đại biểu cho toàn dân Việt Nam”.

Lời tuyên bố độc lập và ý chí bảo vệ chủ quyền dân tộc.

– Phần cuối bản Tuyên ngôn: Khẳng định độc lập dân tộc trên cơ sở chân lí, lẽ phải công pháp quốc tế và thực tiễn – truyền thống yêu nước của nhân dân Việt Nam.

– Các nước Đồng minh đã công nhận những nguyên tắc dân tộc bình đẳng ở các Hội nghị Tê-hê-răng và Cựu Kim Sơn, quyết không thể không công nhận quyền độc lập của dân Việt Nam.

– Nếu thực dân Pháp bất chấp công pháp quốc tế, cố tình xâm lược Việt Nam thì họ hãy nhìn thẳng vào thực tiễn: “Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”.

– Dùng từ ngữ có ý nghĩa phủ định để tuyên bố thoát li hẳn với thực dân Pháp, xóa bỏ mọi hiệp ước đã kí kết, mọi đặc quyền của Pháp tại Việt Nam.

– Dựa vào điều khoản quy định về nguyên tắc dân tộc bình đẳng tại hội nghị Tê – hê – răng và Cựu Kim Sơn để kêu gọi cộng đồng quốc tế công nhận quyền độc lập tự do của dân tộc Việt Nam.

– Tuyên bố với thế giới về nền độc lập của dân tộc Việt Nam: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do … ”. Thể hiện quyết tâm đoàn kết giữ vững chủ quyền, nên độc lập, tự do của dân tộc.

– Lời văn đanh thép, rõ ràng như một lời thề cũng như một lời khích lệ tinh thần yêu nước nhân dân cả nước.

– Tuyên bố dứt khoát triệt để.

Tuyên ngôn Độc lập là áng văn sáng ngời tư tưởng nhân văn.

– Khẳng định truyền thống nhân đạo của người Việt Nam. Mặc dù thực dân Pháp “thẳng tay khủng bố Việt Minh”, “khi thua chạy, chúng còn nhẫn tâm giết nốt số đông tù chính trị ở Yên Bái và Cao Bằng. Tuy vậy đối với người Pháp, đồng bào ta vẫn giữ một thái độ khoan hồng và nhân đạo. Sau cuộc biến động ngày 9 tháng 3, Việt Minh đã giúp cho nhiều người Pháp chạy qua biên thuỳ, lại cứu cho nhiều người Pháp ra khỏi nhà giam Nhật, bảo vệ tính mạng và tài sản của họ”.

– Độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết để thực hiện quyền con người. Ở một nước thuộc địa như Việt Nam trước năm 1945 thì đòi quyền độc lập dân tộc là đòi điều kiện tiên quyết để thực hiện quyền con người. Bởi lẽ một dân tộc còn nô lệ thì mỗi ngườitrong dân tộc ấy không thể có quyền bình đẳng, tự do.

Đặc sắc nghệ thuật.

* Kết cấu chặt chẽ, lập luận đanh thép, sắc bén.

– Kết cấu chặt chẽ:

+ Phần mở đầu nêu chân lí, lẽ phải không thể chối cãi về quyền con người để suy rộng ra quyền dân tộc, làm cơ sở cho lập luận ở phần tiếp theo.

+ Phần thứ hai, trên cơ sở chân lí, lẽ phải đã nêu ở phần mở đầu, soi vào thực tiễn để tố cáo tội ác thực dân Pháp, từ đó phủ nhận quyền của Pháp đối với Việt Nam. Cũng trên cơ sở chân lí, lẽ phải, soi vào thực tiễn tác giả khẳng định sự nghiệp chính nghĩa của nhân dân Việt Nam.

+ Phần cuối của bản Tuyên ngôn, tác giả tuyên bố thành lập chính phủ lâm thời, khẳng định quyết tâm sắt đá bảo vệ quyền độc lập dân tộc.

– Lập luận đanh thép, sắc bén:

+ Lập luận luôn hướng đến mục đích của tác phẩm: Để khẳng định độc lập dân tộc cần phủ nhận quyền của Pháp đối với Việt Nam. Để phủ nhận quyền của Pháp, bản tuyên ngôn đã tố cáo tội ác thực dân Pháp…

+ Luôn có sự kết hợp giữa lí lẽ và thực tiễn để tăng sức thuyết phục: tố cáo tội ác thực dân Pháp, tác giả nêu chứng cứ tội ác về chính trị, về kinh tế…

* Giọng văn linh hoạt, phù hợp với đối tượng và nội dung truyền đạt.

– Nói với công luận quốc tế: lời văn uyên bác, giàu chất trí tuệ. Nói với đồng bào trong nước: lời văn tình cảm, chân thành, tha thiết.

– Giọng văn dõng dạc, trang trọng khi khẳng định quyền độc lập dân tộc. Giọng văn xót xa, căm giận khi tố cáo tội ác giặc (chú ý nghệ thuật điệp kiểu câu: “Sau 13 chữ quyền, là 14 câu, câu nào cũng có chữ chúng mở đầu nặng như búa tạ… Và mỗi chữ chúng ấy, mỗi tội ác của chúng ấy, như trút xuống chữ ta làm xúc động lòng người: “Chúng tuyệt đối không cho dân ta chút quyền tự do dân chủ nào… Chúng bóc lột dân ta đến tận xương tuỷ, khiến cho dân ta nghèo nàn, thiếu thốn, nước ta xơ xác tiêu điều”” (Chế Lan Viên)). Giọng văn hùng hồn, đanh thép khi nói về tinh thần đấu tranh anh dũng của dân tộc Việt Nam (chú ý nghệ thuật điệp từ, điệp kiểu câu: “Một dân tộc đã gan góc chống ách nô lệ của Pháp hơn tám mươi năm nay, một dân tộc đã gan góc đứng về phe đồng minh chống phát xít mấy năm nay, dân tộc đó phải được tự do! Dân tộc đó phải được độc lập!”. Ở đoạn văn này “Hai lần nhấn mạnh chữ gan góc, bốn lần nhấn mạnh chữ dân tộc, rồi hai câu lặp lại như những nhát dao mỗi lúc chém xuống
mạnh hơn: “Dân tộc đó phải được tự do! Dân tộc đó phải được độc lập!” Đọc lên nghe sảng khoái biết chừng nào” (Chế Lan Viên)).

* Ngôn ngữ, hình tượng nghệ thuật vừa súc tích, chính xác, vừa giàu sức biểu cảm.

– Từ ngữ vừa chính xác, vừa gợi cảm. Chỉ một câu văn ngắn gọn gồm chín chữ: “Pháp chạy, Nhật hàng, vua Bảo Đại thoái vị”, tác giả đã tổng kết được một thời kì lịch sử hào hùng của đất nước. Khi tác giả viết: “…bọn thực dân Pháp quỳ gối đầu hàng, mở cửa nước ta rước Nhật” thì hai chữ “quỳ gối” và từ “rước” đã vẽ nên tư thế nô lệ, hèn nhát của thực dân Pháp.

– Những quan điểm, tư tưởng chính trị được diễn đạt bằng những hình tượng sinh động, vừa dễ hiểu, vừa có sức truyền cảm lớn. Ví dụ tác giả không viết: “Chúng đàn áp các cuộc khởi nghĩa của ta rất dã man” mà viết: “Chúng tắm các cuộc khởi nghĩa của ta trong những bể máu”. Ở đây, hành động đàn áp đã được thay bằng hình tượng tắm, mức độ của sự dã man đã được thay bằng hình tượng bể máu. Cách viết hình tượng này vừa gợi lên được tình cảnh người dân mất nước như đang quằn quại trong bể máu đau thương, vừa phóng tả bộ mặt quỷ sứ của kẻ thù xâm lược.

Giá trị của bản Tuyên ngôn Độc lập.

* Giá trị lịch sử:

– Là văn kiện lịch sử vô giá có tính chất đúc kết nguyện vọng sâu xa của dân tộc Việt Nam về quyền độc lập tự do. Tuyên ngôn độc lập cũng là kết quả của quá trình đấu tranh gần 100 năm của dân tộc ta chống lại kẻ thù trong và ngoài nước để có được quyền thiêng liêng ấy. Đằng sau những lời văn trang trọng của Tuyên ngôn Độc lập là sự thực lịch sử, là hình ảnh một đất nước, một dân tộc trong những năm tháng đen tối đau thương dưới ách thống trị của kẻ thù, là biết bao cuộc đấu tranh khởi nghĩa đầy gian khổ.

– Mặt khác, bản Tuyên ngôn Độc lập còn thể hiện tơ tưởng mang tầm vóc lịch sử. Độc lập của dân tộc bao giờ cũng gắn liền với quyền sống của con người và hạnh phúc của đất nước cũng là hạnh phúc của mỗi cá nhân trong cộng đồng. Như vậy quyền của dân tộc, quyền của con người, quyền của cá nhân là những phạm vi gắn bó chặt chẽ với nhau. Bản Tuyên ngôn độc lập tạo ra sự thống nhất của ba phạm vi đó: từ quyền sống của con người, tác giả nâng cao thành quyền lợi của dân tộc và trong quyền lợi của dân tộc đã hàm chứa quyền sống của mỗi cá nhân

* Giá trị văn học:

– Đây là một áng văn chính luận mẫu mực. Dung lượng của bản tuyên ngôn ngắn gọn, cô đọng nhưng giàu sức thuyết phục, gây ấn tượng mạnh mẽ đến người đọc.

– Kết cấu tác phẩm chặt chẽ với các phần đều liên quan đến nhau: cách lập luận đanh thép, chứng cứac thực, và tất cả đều xoáy vào việc quan trọng nhất là độc lập chủ quyền của dân tộc Việt Nam.

– Ngôn ngữ tác phẩm chính xác, giàu sức biểu hiện. Từng câu từng chữ đều được lựa chọn sao cho đạt được hiệu quả diễn đạt cao nhất.

Phong cách của Hồ Chí Minh.

– Bố cục ngắn gọn, xúc tích.

– Lập luận chặt chẽ, đanh thép.

– Lí lẽ sắc bén hùng hồn.

– Ngôn từ chính xác giàu sức biểu cảm

– Là thông điệp chính trị, tác phẩm nhắc tới mục đích tức thời, quan trọng, loại bỏ những âm mưu nguy hiểm của kẻ thù.

– Lên án chế độ thực dân Pháp.

– Khẳng định quyền tự do tự chủ của dân tộc Việt Nam.

– Sức mạnh của lí lẽ chính là sự thật.

– Sự độc lập của Việt Nam phù hợp với lẽ phải công lí và đạo đức.

– Hàng loạt động từ, tính từ… chính xác giàu sắc thái biểu cảm.

– Bản tuyên ngôn của Pháp và Mĩ.

– Pháp không bảo hộ dân chủ Việt Nam, chúng đã phản bội Việt Nam, đã gieo rắc nhiều tội ác với nhân dân Việt Nam.

III. Tổng kết:

1. Giá trị nội dung:

– Về mặt chính trị, bản Tuyên ngôn Độc lập của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đóng một vai trò quan trọng trong lịch sử hiện đại Việt Nam. Đây là biểu tượng cho việc chấm dứt sự cai trị của các thế lực ngoại quốc ở Việt Nam. Bản tuyên ngôn đã đưa tới cho người đọc và người nghe một thế giới quan kịch tính, một lịch sử cô đặc, một vài khẳng định táo bạo, những cụm từ sinh động, và hình tượng đầy cảm xúc. Trong bản Tuyên ngôn Độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tiên liệu được việc Pháp sẽ quay lại và Hoa Kỳ sẽ can thiệp vào Việt Nam.

– Bản Tuyên ngôn Độc lập đã nêu bật các giá trị bình đẳng giữa các quốc gia, các quyền cơ bản của con người và của các dân tộc, quyền tự quyết dân tộc và quyền được hưởng độc lập, tự chủ của mỗi quốc gia. Bản Tuyên ngôn Độc lập đã tố cáo và lên án những tội ác man rợ của thực dân Pháp đối với nhân dân Việt Nam về các mặt chính trị, kinh tế, văn hóa… Đồng thời khẳng định, Việt Nam – một nước thuộc phe Đồng minh trong Chiến tranh thế giới thứ hai – đã giành độc lập sau khi chiến thắng Phát xít Nhật Bản, trước đó người Pháp đã hai lần trao quyền đại diện và bảo hộ đối với Việt Nam cho Phát xít Nhật nên Pháp không còn đủ tư cách để đại diện cho nhân dân Việt Nam nữa.

– Bản Tuyên ngôn Độc lập còn khẳng định với thế giới cơ sở pháp lý về quyền của dân tộc Việt Nam được hưởng tự do độc lập, đồng thời cũng vạch ra cơ sở thực tế là Việt Nam đã là một nước tự do và độc lập, không lệ thuộc vào bất cứ nước nào. Đồng thời, bản Tuyên ngôn cũng khẳng định nhân dân Việt Nam sẽ giữ nền độc lập, tự chủ mới giành được bằng mọi giá.

– Bản Tuyên ngôn Độc lập để thể hiện sự tôn trọng ngoại giao mà Hà Nội dành cho Paris và Washington khi Chủ tịch Hồ Chí Minh trích dẫn Tuyên ngôn độc lập Hoa Kỳ (1776) và Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền Pháp (1791). Việc này đã tạo ra bức tranh đối lập giữa những lý tưởng mà Pháp và Mỹ vẫn đang cổ súy với thực tại đau khổ trong 80 năm Việt Nam bị Pháp cai trị.

2. Giá trị nghệ thuật:

Tác phẩm là áng văn chính luận mẫu mực, thể hiện rõ phong cách nghệ thuật trong văn chính luận của Hồ Chí Minh

– Lập luận: chặt chẽ, sắc bén, thống nhất quan điểm chính trị từ đầu đến cuối bản Tuyên ngôn Độc lập.

– Lí lẽ: xuất phát từ tình yêu công lí, thái độ tôn trọng sự thật, dựa vào lẽ phải đã được nhân dân thế giới công nhận và từ các cuộc đấu tranh vì chính nghĩa trong lịch sử nhân loại.

– Dẫn chứng: xác thực, với những bằng chứng đanh thép, số liệu chính xác được lấy từ sự thực lịch sử
Ngôn ngữ: hùng hồn, chan chứa tình cảm, cách xưng hô của Bác tạo được sự gần gũi với nhân dân cả nước trong giờ phút thiêng liêng của dân tộc.

– Giọng điệu nghị luận rất đanh thép, cứng rắn và giàu tính luận chiến.

– Hình ảnh được sử dụng rất đa dạng, giàu sức gợi hình, giàu cảm xúc.


Phân tích chi tiết bản TUYÊN NGÔN ĐỘC LẬP của Hồ Chí Minh.

  • Mở bài:

Những tư tưởng lớn của các bậc vĩ nhân phản ánh chân lí của lịch sử và ý nguyện của nhân loại thường giản dị thường có sức sống lâu dài. Dù nhiều lúc được phát biểu rất giản dị. Thời gian càng lùi xa, lịch sử càng tiến lên, các tư tưởng đó ngày càng được thực tiễn kiểm nhiệm và tỏa sáng trong  ý thức của mọi con người và các cộng đồng người như “ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong”, như suối trở thành sông, càng đi ra biển càng trở thành rộng lớn. Đó cũng là trường hợp tư tưởng Hồ Chí Minh trong Tuyên Ngôn Độc Lập. Văn kiện này do chính Hồ Chí Minh khởi thảo và tuyên đọc cách đây hơn 60 năm. Phản ánh quy luật cơ bản của lịch sử dân tộc và nguyện vọng sâu xa của nhân dân ta. Có thể nói Tuyên Ngôn Độc Lập đã và sẽ trở thành tượng đài văn chương vĩnh hằng trong lịch sử dân tộc và lịch sử nhân loại.

  • Thân bài:

Tuyên Ngôn Độc Lập của Hồ Chí Minh được ra đời vào một thời điểm đặc biệt của lịch sử dân tộc và nhân loại. Chiến tranh thế giới thứ 2 đang ở giai đoạn kết thúc. Phát xít Nhật – kẻ đang xâm lược nước ta đã bị quân Đồng Minh đánh bại trên toàn thế giới. Nhân dân cả nước ta đã nổi dậy giành chính quyền. Ngày 19/8/1945 chính quyền Hà Nội về tay nhân dân, ngày 26/8/1945 chủ tịch Hồ Chí Minh từ chiến khu Việt Bắc về Hà Nội. Tại căn nhà 48 phố Hàng Ngang, Người đã soạn thảo bản Tuyên Ngôn Độc Lập. Ngày 2/9/1945 Người đã thay mặt chính phủ Lâm thời nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa đọc Tuyên Ngôn Độc Lập trước hàng vạn đồng bào tại quảng trường Ba Đình Hà Nội. Trong khi đó bọn đế quốc thực dân câu kết với bọn phản động trong nước tìm cách phá hoại chính quyền còn non trẻ của ta. Phía Bắc là quân Tưởng, tay sai đế quốc Mĩ. Phía Nam là thực dân Anh, lấp sau là lính viễn chinh Pháp. Lúc này Pháp tung ra dư luận: Đông Dương là đất bảo hộ của người Pháp bị Nhật xâm chiếm nay Nhật đầu hàng Đồng Minh đương nhiên phải trở lại với người Pháp.

Bản Tuyên Ngôn Độc Lập được viết ra nhằm hướng tới đồng bào cả nước với nhân dân thế giới, đặc biệt là phe đồng minh. Để tuyên bố về quyền độc lập tự do của dân tộc Việt Nam. Khẳng định lập trường nhân đạo và chính nghĩa của ta. Tuyên Ngôn Độc Lập còn là cuộc đấu lí, tranh luận ngầm với thực dân Pháp nhằm ngăn chặn âm mưu xâm lược của kẻ thù.

Để đạt được mục đích trên, Tuyên Ngôn Độc Lập có kết cấu rất chặt chẽ. Tác phẩm được cấu thành 3 phần:

  1.   Hồ Chí Minh nêu lên cơ sở pháp lí, chính nghĩa của bản tuyên ngôn.
  2. Phần 2: Hồ Chí Minh đã tố cáo tội ác của thực dân Pháp. Khẳng định lập trường nhân đạo và chính nghĩa của ta.
  3. Kết thúc bản Tuyên Ngôn Độc Lập: Hồ Chí Minh đưa ra lời tuyên bố đồng thời khẳng định một lần nữa ý chí quyết tâm bảo vệ nền độc lập tự do của nhân dân ta.

Mở đầu bản Tuyên ngôn, Hồ Chí Minh đã nêu lên cơ sở pháp lí và chính nghĩa bằng cách trích dẫn 2 bản tuyên ngôn nổi tiếng trong lịch sử nhân loại của 2 nước lớn: Bản Tuyên Ngôn Độc Lập năm 1776 của Mĩ và bản tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của cách mạng Pháp năm 1791.

Bản Tuyên Ngôn Độc Lập năm 1776 của Mĩ đã ghi: “tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được. Trong những quyền ấy có quyền được sống, quyền được tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”. Bản tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của Cách Mạng Pháp năm 1791 cũng nói: “Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi”. Cả 2 bản tuyên ngôn đều khẳng định quyền con người, đặc biệt nhấn mạnh quyền tự do và bình đẳng của con người. Tất cả mọi người đều có quyền bình đẳng, quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc. Đây là luận điểm nền tảng coi độc lập tự do bình đẳng, bác ái là những thành tựu lớn của tư tưởng nhân loại, là lí tưởng theo đuổi hết sức cao đẹp của nhiều dân tộc.

Việc trích dẫn 2 bản Tuyên Ngôn Độc Lập trên có ý nghĩa rất to lớn. Hồ Chí Minh đã nêu lên những nguyên lí chung quyền được tự, bình đẳng của con người để khẳng định lập trường chính nghĩa của dân tộc đó là những lẽ phải không ai chối cãi được. Mà đã là lẽ phải thì dù là người Mĩ, người Pháp hay người Việt Nam đều phải được hưởng quyền tự do, bình đẳng như một chân lí hiển nhiên của lịch sử.

Hồ Chí Minh đã khẳng định quyền độc lập tự do của dân tộc Việt Nam – lí lẽ của tổ tiên người Mĩ và người Pháp. Cách nói và viết như thế tỏ ra vừa khéo léo lại vừa rất kiên quyết. Khéo léo ở chỗ người tỏ ra rất trân trọng những danh ngôn bất hủ của người Mĩ, người Pháp từng ghi trong bản tuyên ngôn từng làm vẻ vang cho truyền thống tư tưởng, văn học của dân tộc họ. Nhưng kiên quyết ở chỗ Người nhắc nhở người Mĩ, người Pháp đừng phản bội lại tổ tiên mình, đừng làm vấy bùn lên lá cờ nhân đạo và chính nghĩa của các cuộc Cách Mạng vĩ đại của nước Mĩ và nước Pháp. Nếu nhất định tiến quân xâm lược Việt Nam. Bởi họ chống lại Việt Nam là họ chống lại chính họ, chống lại truyền thống vẻ vang nhất, giá trị ưu tú nhất của dân tộc, quốc gia tổ tiên họ và rút cục họ sẽ bị thất bại. Đúng như một câu nói nổi tiếng “ kẻ nào bắn vào quá khứ một phát súng lục sẽ bị tương bắn trả bằng một loạt đại bác”.

Nhắc đến 2 bản tuyên ngôn nổi tiếng trong lịch sử nhân loại của 2 nước lớn, Hồ Chí Minh đã đặt 3 bản tuyên ngôn ngang hàng nhau và 3 nền độc lập ngang hàng nhau. Cuộc Cách Mạng của nước Mĩ do Oa-sinh-tơn lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ lật đổ ách thống trị của thực dân Anh và khi cuộc Cách Mạng thành công, nước Mĩ tuyên bố độc lập tự do và được nhân dân cả nước trên thế giới thừa nhận. Cuộc Cách Mạng tư sản của nước Pháp năm 1789 thực hiện nhiệm vụ lật đổ sự thống trị của bọn phong kiến, giai cấp tư sản Pháp lên nắm chính quyền. Nước Pháp đã được độc lập tự do và đương nhiên cũng được các nước trên thế giới thừa nhận. Cuộc Cách Mạng của dân tộc Việt Nam đã thực hiện đồng thời cùng một lúc hai nhiệm vụ của cuộc Cách Mạng tư sản Pháp và cuộc Cách Mạng của nước Mĩ, lật đổ ngai vàng thống trị của bọn phong kiến, ách thống trị tàn bạo của bọn phát xít thực dân. Vì thế Việt Nam có vị thế bình đẳng với các nước trên thế giới. Các nước đã họp ở hội nghị. Tê-hê-răng và Cưu Kim Sơn quyết không thể không công nhận quyền độc lập tự do của dân tộc Việt Nam.

Kín đáo hơn bản Tuyên Ngôn Độc Lập của Hồ Chí Minh dường như muốn gợi lại niềm tự hào của dân tộc của tác giả bài Bình Ngô đại cáo xưa khi ở đầu tác phẩm bằng 2 vế cân xứng như đã đặt các triều đại của Nam quốc sánh ngang với triệu đại Bắc quốc:

“Từ Triệu Đinh Lí Trần bao đời gây nên độc lập
Cùng Hán, Đường Tống Nguyên mỗi bên xưng đế một phương”

Trong tranh luận để bác bỏ luận điệu của một đối thủ nào đấy không gì thú vị, đích đáng hơn bằng việc dùng chính lí lẽ của đối thủ ấy. Hồ Chí Minh đã sử dụng thành công thư pháp lấy “gậy ông đập lưng ông”, để ngăn chặn âm mưu xâm lược của kẻ thù.

Như vậy, với việc trích dẫn 2 bản tuyên ngôn, Hồ Chí Minh đã đưa ra những lí lẽ thuyết phục để chuẩn bị tiền đề cho lập luận ở những phần tiếp theo, làm cơ sở cho hệ thống lập luận của bản tuyên ngôn.

Tư duy của Hồ Chí Minh thông minh, sắc bén, linh hoạt và biến hóa khôn lường. Cùng với việc trích dẫn 2 bản tuyên ngôn, Hồ Chí Minh còn có một câu, suy rộng ra câu ấy có y nghĩa là tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sướng sướng và quyền tự do.

Với ba chữ “suy rộng ra” đó Hồ Chí Minh đã đưa tư tưởng nhân quyền và dân quyền từ thế kỉ XVIII trở thành tư tưởng của thế kỉ XX. Từ phạm trù Cách Mạng tư sản sang phạm trù Cách Mạng vô sản, từ phạm trù giải phóng cá nhân sang phạm trù giải phóng dân tộc và nhân loại.  Với Hồ Chí Minh nhân quyền và dân quyền không chỉ là quyền bất khả xâm phạm của mọi cá nhân ( thực chất thời đại tư sản là của một số cá nhân có tiền nên có quyền với đa số cá nhân khác) mà còn là quyền bất khả xâm phạm của mỗi dân tộc. Bởi vì làm sao có được quyền tự do bình đẳng, bác ái giữa người với người. Nếu còn dân tộc này xâm lược, áp bức, thống trị dân tộc khác. Làm sao có nhân quyền và dân quyền thực sự nếu đại đa số các dân tộc trên địa cầu không có quyền tự quyết định lấy số phận của mình, phải nương thân gửi mạng vào tay 1 thế lực cậy súng cậy tiền tha hồ làm mưa làm gió trên vũ đài quốc tế.  Các – Mác đã nói một câu rất hay: “Một dân tộc áp bức dân tộc khác không phải là một dân tộc tự do”.

Như vậy cái tự do bình đẳng bác ái mà Mĩ và Pháp rêu rao trên vũ đài cai trị quốc tế thực chất chỉ là hình thức bên ngoài nhằm che đậy âm mưu xâm lược các quốc gia. Sự suy rộng ra của Hồ Chí Minh đã làm cho khái niệm nhân quyền và dân quyền từ nội dung cũ thêm nội dung mới. Nội dung mới không những bổ sung mà còn làm thoái hóa cả nội dung cũ theo thực tiễn và tinh thần của thời đại mới.

Ý kiến suy rộng ra của Hồ Chí Minh quả là đóng góp đầy ý nghĩa của Hồ Chí Minh đối với phong trào giải phóng dân tộc trên toàn thế giới. Một nhà văn hóa nước ngoài đã nói: “cống hiến nổi tiếng của cụ Hồ Chí Minh là ở chỗ người đã phát triển quyền lợi của con người thành quyền lợi của dân tộc. Như vậy mọi dân tộc đều có quyền tự quyết định lấy vận mệnh của mình”. Có thể xem luận điểm suy rộng ra là phát súng kệnh khởi đầu cho bão táp Cách Mạng ở các nước thuộc địa sẽ làm sụp đổ hệ thống chủ nghĩa thực dân trên toàn thế giới vào nửa sau thế kỉ XX.

Trong phần mở đầu bản tuyên ngôn, cùng với câu suy rộng ra, Hồ Chí Minh còn có một câu khẳng định: “Đó là những lẽ phải không ai chối cãi được”. Câu khẳng định này nhằm nhấn mạnh lại một lần nữa cơ sở pháp lí chính nghĩa của bản Tuyên Ngôn Độc Lập của dân tộc Việt Nam. Đồng thời cũng là tiền đề quan trọng để Người tố cáo tội ác của chủ nghĩa thực dân Pháp trong hơn 80 năm thống trị nước ta về tất cả mọi mặt.

Như vậy phần mở đầu của bản Tuyên Ngôn Độc Lập rất ngắn gọn và súc tích, những lập luận vô cùng chặt chẽ , lí lẽ đanh thép, bằng chứng tiêu biểu, toàn diện không ai có thể chối cãi. Tất cả đã thể hiện một tầm văn hóa và tư tưởng vô cùng vĩ đại của Hồ Chí Minh. Người đã đứng trên lập trường nhân đạo chính nghĩa đòi quyền độc lập tự do cho dân tộc mình và quyền tự quyết định lấy vận mệnh của tất cả các dân tộc trên thế giới. Như vậy chỉ phần mở đầu có thể khẳng định Hồ Chí Minh là con người của nhân loại.

Bản Tuyên Ngôn Độc Lập tố cáo tội ác của thực dân Pháp, khẳng định lập trường nhân đạo chính nghĩa của ta và đưa ra lời tuyên bố. Để hợp thức hóa cuộc chiến tranh xâm lược trở lại Việt Nam, thực dân Pháp đã tung ra dư luận quốc tế Pháp có công lao mở mang, khai hóa được Đông Dương. Đông Dương là đất bảo hộ của người Pháp và Pháp thuộc phe Đồng Minh chống phát xít. Đông Dương là thuộc địa của Pháp bị Nhật xâm chiếm nay Nhật đã đầu hàng Đồng Minh, Dông Dương đương nhiên phải trở lại với người Pháp. Đứng trên lập trường nhân đạo và chính nghĩa, bản Tuyên  Ngôn Độc Lập đã tố cáo tội ác của Pháp trên tất cả các mặt nhằm vạch trần âm mưu xâm lược và đập tan mọi luận điệu xảo trá của kẻ thù.

Trước hết Pháp tung ra dư luận Pháp có công lao mở mang, khai hóa với Đông Dương. Mở mang khai hóa nghĩa là người Pháp sẽ mang ánh sáng văn minh từ mẫu quốc sang các nước thuộc địa làm cho các nước thuộc địa thoát khỏi tình trạng lạc hậu, mông muội, ngày một trở nên văn minh và tiến bộ hơn. Đây thực chất là những chiêu bài chính trị của bọn chủ nghĩa thực dân, hòng hợp thức hóa cuộc chiến tranh xâm lược bẩn thỉu của chúng ở Đông Dương. Bản Tuyên Ngôn Độc Lập đã vạch trần những hoạt động trái hẳn nhân đạo và chính nghĩa của chúng trong 80 năm thống trị nước ta về nhiều mặt.

Về chính trị chúng tuyệt đối không cho nhân dân ta một chút tự do dân chủ nào. Chúng thi hành những luật pháp dã man. Chúng lập 3 chế độ khác nhau ơ Trung, Nam, Bắc để ngăn cản việc thống nhất nước nhà của ta, để ngăn cản dân tộc ta đoàn kết. Chúng thẳng tay chém giết những người yêu nước của ta. Chúng tắm các cuộc khởi nghĩa của ta trong bể máu.

Về văn hóa – xã hội, chúng lập ra nhà tù nhiều hơn trường học, chúng ràng buộc dư luận, thi hành chính sách ngu dân. Chúng còn đầu độc nhân dân ta bằng rượu cồn và thuốc phiện.

Về kinh tế, chúng bóc lột dân ta đến xương tủy, chúng cướp không ruộng đất hầm mỏ và nguyên liệu của chúng ta. Chúng đặt ra hàng trăm thứ thuế vô lí, chúng bóc lột công nhân ta một cách vô cùng tàn nhẫn, chúng không cho các nhà tư sản ta ngóc đầu lên.

Về ngoại giao, chúng giữ độc quyền với giấy bạc, xuất cảng, nhập cảng.

Từ những dẫn chứng cụ thể Hồ Chí Minh đã chỉ ra kết quả của quá trình mở mang khai hóa mà bọn thực dân Pháp đã thực hiện ở nước ta. Đó là nòi giống ta bị suy nhược, dân ta nghèo nàn thiếu thốn, nước ta xơ xác tiêu điều, dân cày và dân buôn trở nên bần cùng, đặc biệt bọn thực dân Pháp và phát xít Nhật đã gây ra nạn đói khủng khiếp trong lịch sử “ cuối năm ngoái sang đầu năm nay, QT đến BK hơn 2 triệu đồng bào ta bị chết đói”. Đó là bằng chứng không thể chối cãi, đã lật tẩy bộ mặt tàn bạo của chủ nghĩa thực dân Pháp, chúng đã đi ngược lại truyền thống văn hóa của nước Pháp và nhân loại. Nhà văn Rôđaighết đã diễn tả nỗi đau xót của Hồ Chí Minh trước hiện thực lịch sử này:

“Người đã đói với mọi cơn đói ngày xưa
Người đã chết hơn 2 triệu lần năm đói 45 khủng khiếp”

Để làm nổi bật tội ác của Pháp, Hồ Chí Minh đã sử dụng phương pháp liệt kê nêu tội ác của Pháp trên tất cả các mặt từ chính trị, văn hóa – xã hội đến kinh tế, ngoại giao để cho thấy đây là những tội ác trời không rung đất không tha. Lí lẽ của Hồ Chí Minh rất sát đáng, bằng chứng xác thực không thể chối cãi, ngôn ngữ sắc xảo, gợi cảm hùng hồn, đặc biệt văn chính luận nhưng Người viết văn rất có hình ảnh. Đọc Tuyên Ngôn Độc Lập ta không thể quên được những câu văn vừa giàu hình ảnh, vừa có sức gợi cảm tác động mạnh mẽ đến hình ảnh của con người như “ chúng tắm các cuộc khởi nghĩa của ta trong bể máu, nước ta xơ xác tiêu điều, chúng không cho các nhà tư sản của ta ngóc đầu lên”. Vì thế đoạn văn không chỉ đập tan chiêu bài mở mang “ khai hóa” văn minh của thực dân Pháp với những tội ác vô cùng dã man, tàn bạo mà còn gây xúc động hàng triệu con tim, khơi dậy lòng phẫn nộ của nhân dân ta với bọn thực dân Pháp.

Thực dân Pháp còn muốn kể công lao “bảo hộ” đói với Đông Dương. “Bảo hộ” có nghĩa là bảo vệ, hỗ trợ Đông Dương giúp cho Đông Dương không bị các nước bên ngoài xâm chiếm. Bản Tuyên Ngôn Độc Lập đã vạch trần chân tướng hèn hạ phản bội nhục nhã của thực dân Pháp.

Mùa thu năm 1940 khi quân Nhật đến xâm lăng Đông Dương để mở thêm căn cứ đánh Đồng Minh thì bọn thực dân Pháp qùy gối đầu hàng, mở cửa nước ta cho nước Nhật, từ đó dân ta chịu 2 tầng xiềng xích: Pháp và Nhật.

Ngày 9/3/1945 Khi Nhật tước khí giới của quân đội Pháp, bọn thực dân Pháp hoặc là bỏ chạy hoặc là đầu hàng. Từ những sự thực lịch sử trên Hồ Chí Minh đã đi đến những kết luận. Thế là chẳng những chúng không bảo hộ được ta mà trái lại trong 5 năm chúng đã bán nước ta 2 lần cho Nhật. Như vậy bọn thực dân Pháp không có công lao bảo hộ với nước ta mà chúng còn có tội với các nước Đông Dương, thậm chí đó là một trọng tội.

Về nghệ thuật, Hồ Chí Minh đã sử dụng lí lẽ hùng hồn, bằng chứng không thể chối cái cùng với lập luận sắc sảo và chặt chẽ từ đó người đã đập tan chiêu bài bảo hộ, khai hóa rất bịp bợm của chủ nghĩa thực dân.

Để hợp thức hóa cuộc chiến tranh xâm lược trở lại Đông Dương bọn thực dân Pháp còn tung ra dư luận quốc tế, Pháp thuộc phe Đồng Minh chống phát xít, Đông Dương là thuộc địa của chúng đã bị Nhật xâm chiếm, nay Nhật đã bị Đồng Minh đánh bại phải đầu hàng. Vậy Đông Dương đương nhiên phải trở về tay người Pháp.

Bản Tuyên Ngôn Độc Lập đã chỉ rõ Đông Dương không còn là thuộc địa của Pháp: “ Sự thật là từ mùa thu 1940 nước ta đã thành thuộc địa của Nhật chứ không phải thuộc địa của Pháp nữa. Khi Nhật hàng Đồng Minh thì nhân dân cả nước ta đã nổi dậy giành chính quyền lập nên nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Sự thật là dân ta đã lấy lại nước Việt Nam từ tay Nhật chứ không phải từ tay Pháp. Hồ Chí Minh đã sử dụng hàng loạt câu được viết theo hình thức lặp cú pháp để nhấn mạnh sự thật. Lí lẽ của Hồ Chí Minh được xây dựng trên hiện thực cuộc sống và chân lí lịch sử của Việt Nam 1940 đến 1975. Với lí lẽ đanh thép sắc bén và hùng hồn, bản Tuyên Ngôn Độc Lập đã đập tan luận điệu xảo trá của bọn thực dân Pháp muốn hợp thức hóa cuộc xâm lược của chúng trước dư luận quốc tế.

Bản tuyên ngôn khẳng định lập trường nhân đạo và chính nghĩa của ta. Trên cơ sở vạch trần những hành động tàn ác trái hẳn nhân đạo và chính nghĩa của bọn thực dân Pháp và âm mưu xâm lược của chủ nghĩa thực dân. Bản Tuyên Ngôn Độc Lập đã nêu cao lập trường nhân đạo và chính nghĩa của ta.

Nếu thực dân pháp có tội phản bội Đồng Minh, bán rẻ Đông Dương 2 lần cho Nhật thì dân tộc Việt Nam mà đại diện là Việt Minh đã đứng lên đánh Nhật giành lại chính quyền từ tay phát xít Nhật.

Nếu thực dân Pháp phản động tàn bạo thẳng tay khủng bố Việt Minh, nhẫn tâm giết nốt số đông tù nhân ở Yên Bái và Cao Bằng thì nhân dân ta vẫn giữ thái độ khoan hồng , nhân đạo với kẻ thù thất thế. Việt Minh đã giúp cho nhiều người Pháp chạy qua biên thùy lại cứu cho nhiều người Pháp ra khỏi nhà giam của Nhật và bảo vệ tài sản và tính mạng cho họ.

Đặc biệt dân tộc ta đã chịu bao đau đớn dưới ách thực dân tàn bạo, đã anh dũng chiến đấu cho độc lập tự do, đã nêu cao tinh thần nhân đạo, bác ái. Dân tộc đó phải được tự do, dân tộc đó phải được độc lập.

Bản tuyên ngôn là lời tời tuyên bố về nền độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam. Dân tộc Việt Nam đã kiên cường bền bỉ anh dũng đã giành thắng lợi trong cuộc kháng chiến chống chủ nghĩa thực dân phong kiến: “Pháp chạy, Nhật hàng, vua Bảo Đại thoái vị” vì thế Việt Nam không còn là thuộc địa của Pháp. Bản Tuyên Ngôn Độc Lập đã tuyên bố thoát li hẳn quan hệ thực dân với Pháp, tuyên bố xóa bỏ hết những hiệp ước mà Pháp đã kí về Việt Nam, tuyên bố xóa bỏ hết mọi đặc quyền đặc lợi của Pháp trên đất nước Việt Nam. Căn cứ vào những điều khoản quy định về nguyên tắc dân tộc và bình đẳng Hội nghị Tê-hê-rang và Cựu Kim Sơn, Hồ Chí Minh kêu gọi cộng đồng quốc tế công nhân quyền độc lập tự do của dân tộc Việt Nam.

Nghệ thuật: sức mạnh của chính nghĩa bao giờ cũng đồng thời là sức mạnh của sự thật. Người viết đã lấy lại nhiều lần sự thật, sự thật là đã dựa trên cơ sở hiện thực để đưa ra lời tuyên bố, đấy là những điệp khúc nối nhau làm tăng thêm âm hưởng hào hùng của bản tuyên ngôn.

Lời khẳng định về quyết tâm bảo vệ quyền độc lập tự do dân tộc. Khép lại bản tuyên ngôn, Hồ Chí Minh trịnh trọng tuyên bố: “ Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, bởi vì tất cả mọi người để sinh ra có quyền bình đẳng, tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được. Trong những quyền ấy có quyền sống, quyền tự do và mưu cầu hạnh phúc và người ta sinh ra tự do, bình đẳng về quyền lợi và phải luôn luôn được bình đẳng và tự do về quyền lợi”.

Như vậy hưởng tự do và độc lập là một quyền thiêng liêng mà tạo hóa đã ban tặng cho con người.  Nước Việt Nam không chỉ có quyền được hưởng độc lập tự do mà hưởng độc lập tự do còn là một sự thật. Bởi sự thật nhân dân cả nước ta đã nổi dậy giành chính quyền, lập nên nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Vì vậy, toàn thể nhân dân Việt Nam quyết tâm giữ vững quyền tự do độc lập ấy: “Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”. Lời khẳng định của Hồ Chí Minh rất ngắn gọn nhưng đanh thép hùng hồn, khẳng định ý chí quyết tâm hi sinh của toàn dân tộc để bảo vệ độc lập tự do.:

Người ta gọi Bình Ngô Đại Cáo của Nguyễn Trãi là áng thiên cổ hùng văn. Cũng có thể nói như vậy, đối với bản Tuyên Ngôn Độc Lập ra đời không còn ở thời kì văn học nguyên hợp, văn sử bất phân. Để người viết đưa vào những hình tượng hào hùng tầng tầng lớp lớp như bài cáo của người xưa. Ngày nay, văn chính luận là văn chính luận, Hồ Chí Minh đã dàn dựng được một hệ thống lập luận chặt chẽ, lí lẽ hùng hồn, bằng chứng xác thực không ai chối cãi được, lời văn ngắn gọn, súc tích, âm hưởng hào hùng đầy sức thuyết phục. Đó là sức hấp dẫn của bản tuyên ngôn.

  • Kết bài:

Tuyên Ngôn Độc Lập còn thể hiện một tầm tư tưởng, tầm văn hóa lớn của Hồ Chí Minh, đã tổng kết được trong một văn bản tuyên ngôn ngắn gọn, trong sáng, kinh nghiệm của nhiều thế kỉ đấu tranh vì độc lập tự do, vì nhân quyền và dân quyền của dân tộc và nhân loại. Chính bác Hồ cũng tự đánh giá đây là thành công thứ ba khiến người cảm thấy sung sướng trong cả cuộc đời hoạt động Cách Mạng, cầm bút viết văn làm báo đầy kinh nghiệm của mình. Cũng vì thế mà vào ngày Bác mất, một chính khách danh tiếng của châu Á đã phát biểu: “Người là ánh sáng hi vọng trong thế kỉ bạo tàn, ánh sáng hi vọng đó phải chăng là tư tưởng không gì quý hơn độc lập tự do của Người”.


Phân tích hoàn cảnh ra đời, đối tượng hướng đến và mục đích sáng tác của bản TUYÊN NGÔN ĐỘC LẬP của Hồ Chí Minh

  • Mở bài:

Chủ tịch Hồ Chí Minh là lãnh tụ Cách Mạng vĩ đại, đồng thời là nhà văn, nhà thơ lớn của dân tộc. Sự nghiệp thơ ca của Hồ Chí Minh gắn bó mật thiết với cuộc đời hoạt động Cách Mạng của Người. Tuyên Ngôn Độc Lập là áng văn chính luận mẫu mực của Hồ Chí Minh. Tác phẩm được sáng tác trong hoàn cảnh lịch sử đặc biệt của tác giả và dân tộc.

  • Thân bài:

1. Hoàn cảnh sáng tác của Tuyên ngôn Độc lập.

Trên thế giới cuộc đại chiến lần thứ hai đang ở giai đoạn kết thúc, Hồng quân Liên Xô đã tấn công vào tận sào huyệt cuối cùng của bọn phát xít ở thủ đô Béc-lin. Ở phương Đông, phát xít Nhật – kẻ xâm lược nước ta đã đầu hàng quân Đồng Minh vô điều kiện.

Đối với nước ta, đây là điều kiện thuận lợi để nhân dân cả nước ta nổi dậy giành chính quyền. Hồ Chí Minh đã gọi đây là thời cơ “ nghìn năm có một”.  Ngày 19/8/1945 chính quyền Hà Nội về tay nhân dân ta.  Ngày 23/8/1945 nhân dân ta giành được chính quyền ở Huế. Ngày 25/8/1945 nhân dân ta giành được chính quyền ở Sài Gòn. Ngày 26/8/1945 chủ tịch Hồ Chí Minh từ chiến khu Việt Bắc về Hà Nội. Tại căn nhà nhỏ 48 phố Hàng Ngang ( đây là căn nhà của nhà tư sản yêu nước Trịnh Văn Bô) chủ tịch Hồ Chí Minh đã soạn thảo bản Tuyên Ngôn Độc Lập. Ngày 2/9/1945 tại quảng trường Ba Đình Hà Nội, Người đã thay mặt chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa đọc bản Tuyên Ngôn Độc Lập trước hàng vạn đồng bào.

Trong khi đó bọn đế quốc thực dân câu kết với bọn phản động trong nước tìm cách phá hoại chính quyền Cách Mạng còn non trẻ của ta. Ở phía Bắc là 22 vạn quân Tưởng – tay sai của đế quốc Mĩ. Phía Nam là 18 vạn quân Anh nấp sau là lính viễn chinh Pháp. Lúc này Anh, Pháp, Mĩ mâu thuẫn với Liên Xô. Anh, Mĩ sẵn sàng nhân nhượng cho Pháp trở lại xâm lược Việt Nam. Hồ Chí Minh đã viết bản Tuyên Ngôn Độc Lập trong hoàn cảnh thù trong giặc ngoài bao vây, nhòm ngó. Đặc biệt lúc này Pháp tung ra dư luận trên thế giới: Đông Dương là đất bảo hộ của người Pháp bị Nhật xâm chiếm. Nay Nhật đầu hàng Đồng minh, Đông Dương đương nhiên phải trở lại tay Pháp. Bản Tuyên Ngôn Độc Lập đã bác bỏ dứt khoát luận điệu này.

Nói chung bản Tuyên Ngôn Độc Lập của Hồ Chí Minh được sáng tác trong một hoàn cảnh lịch sử rất đặc biệt của thế giới. Vì vậy, nó đòi hỏi Người lãnh tụ phải có chiến lược phù hợp, phải huy động được sức mạnh của toàn dân mới có thể đưa con thuyền Cách Mạng đến thắng lợi cuối cùng.

2. Đối tượng sáng tác và mục đích sáng tác của bản Tuyên ngôn Độc lập.

Khi cầm bút, Hồ Chí Minh bao giờ cũng xuất phát từ mục đích, đối tượng tiếp nhận để quyết định nội dung và hình thức của tác phẩm. Người luôn tự đặt bản thân xuống dưới, nhân dân lên làm đầu. Trong bản Tuyên Ngôn Độc Lập, Bác đã mở đầu bằng “ Hỡi đồng bào cả nước”. Bên cạnh đó bản Tuyên Ngôn Độc Lập còn hướng tới cả nhân dân thế giới, nhưng không phải là nhân dân thế giới nói chung mà chủ yếu là phe đồng minh, trong đó có Anh, Mĩ, đặc biệt là thực dân Pháp. Bởi vì Anh, Mĩ, Pháp đang muốn xâm lược Việt Nam và muốn hợp thức hóa cuộc chiến tranh này trước dư luận quốc tế. Bản Tuyên Ngôn Độc Lập đã tuyên bố rất trịnh trọng “ vì những lẽ trên, chính phủ lâm thời của nước Việt Nam dân chủ Cộng hòa trịnh trọng tuyên bố với thế giới.”

Bản Tuyên Ngôn Độc Lập không chỉ hướng tới đối tượng cụ thể mà còn có mục đích xác định. Bản Tuyên Ngôn Độc Lập nhằm tuyên bố với đồng bào cả nước và nhân dân thế giới về quyền độc lập tự do của dân tộc ta. Sau gần 1000 năm dưới sự thống trị của phong kiến, 100 năm dưới ách đô hộ của thực dân Pháp, 5 năm dưới sự thống trị tàn bạo của phát xít, nhân dân cả nước ta đã nổi dậy giành chính quyền, lập nên nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đại diện cho Cách Mạng vô sản khai sinh ra nước Việt Nam mới.

Bản Tuyên Ngôn Độc Lập thể hiện lập trường nhân đạo, chính nghĩa, nguyện vọng hòa bình cũng như tinh thần quyết tâm bảo về độc lập tự do của dân tộc Việt Nam: “ Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh nhần, lực lượng, tính mạng, của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”

Bản Tuyên Ngôn Độc Lập thực sự là một cuộc đấu lí, cuộc tranh luận ngầm với thực dân Pháp. Bởi vì lúc này, Pháp tung ra dư luận trên thế giới, Đông Dương là đất bảo hộ của người Pháp bị Nhật xâm chiếm, nay Nhật đầu hàng Đồng Minh, Đông Dương đương nhiên phải trở lại với người Pháp. Đây là luận điệu xảo trá của kẻ thù nhằm hợp thức hóa cuộc chiến tranh trở lại Đông Dương. Bản Tuyên Ngôn Độc Lập đã bác bỏ dứt khoát luận điệu này, đồng thời tuyên bố xóa bỏ mọi đặc quyền, đặc lợi của Pháp trên đất nước ta, tuyên bố xóa bỏ hết những hiệp ước mà Pháp đã kí về Việt Nam, đồng thời mở ra một kỉ nguyên mới, kỉ nguyên độc lập tự do và chủ nghĩa xã hội.

Với đối tượng cụ thể, mục đích xác định, bản Tuyên Ngôn Độc Lập xứng đáng là áng văn chính luận mẫu mực, là “thành công thứ ba” khiến Người cảm thấy sung sướng trong suốt cuộc đời hoạt động Cách Mạng, cầm bút viết văn, làm báo của mình.


Phân tích những giá trị to lớn của bản TUYÊN NGÔN ĐỘC LẬP.

  • Mở bài:

Chủ tịch Hồ Chí Minh là lãnh tụ Cách Mạng vĩ đại của dân tộc, đồng thời Người cũng là một nhà văn, nhà thơ lớn. Sự nghiệp thơ ca của Hồ Chí Minh gắn bó mật thiết với cuộc đời hoạt động Cách Mạng của Người. Tuyên Ngôn Độc Lập là áng văn chính luận mẫu mực của Hồ Chí Minh. Đây là một tác phẩm vừa có giá trị lịch sử, vừa có giá trị văn học rất to lớn.

  • Thân bài:

Tuyên ngôn độc lập là một văn kiện lịch sử vô giá của dân tộc ta. Tác phẩm đánh giá một mốc son chói lọi trong lịch sử dân tộc. Đất nước ta chấm dứt hoàn toàn chế độ thực dân phong kiến, chuyển sang một kỉ nguyên mới – kỉ nguyên độc lập tự do. Người dân lao động làm chủ vận mệnh đất nước, làm chủ cuộc đời mình.

Trước bản Tuyên Ngôn Độc Lập của Hồ Chí Minh, lịch sử Việt Nam có 2 tác phẩm được xem như hai bản Tuyên Ngôn Độc Lập dân tộc là Nam quốc sơn hà ( tương truyền là của L‎í Thường Kiệt thế kỉ XI) và Bình Ngô đại cáo ( Nguyễn Trãi thế kỉ XV). Hai bản Tuyên Ngôn Độc Lập thời phong kiến tuy mang hào khí anh hùng của dân tộc nhưng mới chỉ giải quyết được nhiệm vụ độc lập cho dân tộc, chứ chưa giải quyết được nhiệm vụ dân chủ cho người dân. Nghĩa là nước nhà được độc lập chính quyền phong kiến từ trung ương đến địa phương. Đó là do hạn chế của lịch sử.

Bản Tuyên Ngôn Độc Lập của Hồ Chí Minh đã giải quyết được nhiệm vụ độc lập cho dân tộc, lại giải quyết được nhiệm vụ dân chủ cho nhân dân: “Dân ta đã đánh đổ các xiềng xích thực dân gần 100 năm nay để gây dựng nên nước Việt Nam độc lập. Dân ta lại đánh đổ chế độ quân chủ mấy mươi thế kỉ mà lập nên chế độ dân chủ Cộng Hòa.” Tức là bên cạnh quyền độc lập dân ta lại có thêm quyền tự do. Đó là tư tưởng lớn, là chân lí của thời đại mà sau này Hồ Chí Minh đã đúc kết trong một câu nói nổi tiếng: “Không có gì quá hơn độc lập tự do” (Lời kêu gọi toàn quốc chống Mĩ 17/7/1966). Bản Tuyên Ngôn Độc Lập đã khẳng định mạnh mẽ chủ quyền độc lập dân tộc và ‎ý chí quyết tâm bảo vệ quyền độc lập tự do của nhân dân ta.

Bản Tuyên Ngôn Độc Lập còn khẳng định vị trí của Việt Nam trường quốc tế, vạch trần âm mưu xâm lược và đập tan luận điệu của kẻ thù.

Đồng thời bản Tuyên Ngôn Độc Lập đã nêu cao truyền thống yêu nước, lòng tự hào dân tộc, ‎chí quyết tâm xây dựng và bảo vệ tổ quốc của nhân dân ta. Mặt khác tác phẩm còn là bản cáo trạng đanh thép vạch trần tội ác tày trời của kẻ thù đối với nhân dân ta.

Bản Tuyên Ngôn Độc Lập là một áng văn chính luận ngắn gọn, súc tích, đầy sức thuyết phục; lập luận chặt chẽ, lí lẽ đanh thép, bằng chứng tiêu biểu không ai có thể chối cãi, văn phong sắc sảo, giàu tính thẩm mĩ. Từ ngữ chính xác gợi cảm và hùng hồn, xứng đáng là áng văn chính luận mẫu mực, là một bản thiên cơ hùng văn sánh ngang với Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi.

Với giá trị lịch sử và giá trị văn học vô giá, bản Tuyên Ngôn Độc Lập xứng đáng trở thành bức tượng đài văn chương vĩnh cửu trong lịch sử dân tộc và lịch sử nhân loại, là “ thành công thứ ba” khiến Người cảm thấy sung sướng trong suốt cuộc đời hoạt động Cách Mạng, cầm bút viết văn và làm báo của mình.

* ĐỀ LUYỆN TẬP

Đề 1. Trình bày những nội dung chính trong quan điểm sáng tác của Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh, hãy giải thích vì sao Người lại có quan điểm sáng tác như vậy.

Đề 2. Trình bày tính đa dạng, độc đáo và tính thống nhất trong phong cách nghệ thuật Hồ Chí Minh.

Đề 3. Đánh giá tầm vóc lịch sử và giá trị văn học để có thể xem Tuyên Ngôn Độc Lập là một áng văn bất hủ.

Đề 4. Giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh đã đánh giá Tuyên Ngôn Độc Lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh như sau: “ Tài nghệ ở đây là dàn dựng được một lập luận chặt chẽ, đưa ra được những luận điểm, những bằng chứng không ai chối cãi được và đằng sau những lí lẽ ấy là một tầm tư tưởng, tầm văn hóa lớn, đã tổng kết được trong một văn bản ngắn gọn, trong sáng, khúc chiết kinh nghiệm của nhiều thế kỷ đấu tranh vì độc lập, tự do, vì nhân quyền của dân tộc và của nhân loại”. Phân tích tác phẩm Tuyên Ngôn Độc Lập để làm sáng tỏ ý trên.

Đề 5. “Đoạn mở đầu bản Tuyên ngôn Độc lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh được viết rất cao tay: vừa khéo léo, lại vừa hàm chứa nhiều ý nghĩa sâu sắc” (Phan Trọng Luận). Anh (chị) hãy làm sáng tỏ nhận định trên.

Đề 6. Nhận xét về giá trị bản Tuyên ngôn Độc lập của Hồ Chí Minh, có ý kiến cho rằng: “Tuyên ngôn Độc lập là một văn kiện lịch sử vô giá”. Ý kiến khác lại nhấn mạnh: “Tuyên ngôn Độc lập là áng văn chính luận mẫu mực”

Từ  việc cảm nhận về giá trị bản Tuyên ngôn Độc lập, anh/chị hãy bình luận những ý kiến trên.

Đề 7. Cảm nhận của anh/ chị về tác phẩm Tuyên ngôn Độc lập của Hồ Chí Minh. Từ đó, trình bày suy nghĩ của mình về con đường học tập, phấn đấu, rèn luyện của tuổi trẻ ngày nay để xây dựng và bảo vệ đất nước.

Phân tích bản Tuyên ngôn độc lập của Hồ Chí Minh

Hãy bình luận đầu tiên

Để lại một phản hồi

Thư điện tử của bạn sẽ không được hiện thị công khai.