Dàn bài phân tích truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân

dan-bai-phan-tich-truyen-ngan-vo-nhat-cua-kim-lan

Dàn bài phân tích truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân

  • Mở bài:

– Kim Lân là một trong số ít những nhà văn viết ít mà thành công lớn. Ông có sở trường viết hay về truyện ngắn, viết hay về đề tài nông dân, nông thôn cùng khả năng phân tích tâm lí nhân vật tinh tế, sâu sắc.

– Vợ nhặt là truyện ngắn xuất sắc nhất của nhà văn Kim Lân. Lấy bối cảnh là nạn đói năm 1945, tác phẩm phơi bày tình cảnh điêu đứng, khốn cùng của người lao động trước cách mạng và khao khát hướng đến sự sống, vẻ đẹp tình người.

  • Thân bài:

1. Tình huống truyện độc đáo trong Vợ nhặt của Kim Lân.

– Tình huống truyện thể hiện ở ngay nhan đề tác phẩm Vợ nhặt.

“Nhặt” vợ như nhặt một đồ vật.

– Bản thân Tràng vừa xấu, nghèo, dở hơi → nguy cơ ế vợ.

– Diễn ra trong hoàn cảnh đói kém (người chết như ngả rạ, bóng người xanh xám như những bóng ma…) → con người không quan tâm đến điều gì ngoài miếng ăn và vấn đề sinh tử.

– Người vợ nhặt theo không cũng vì miếng ăn.

→ Tràng dẫn vợ về là sự kiện bất ngờ với bản thân anh, bà cụ Tứ và cả xóm ngụ cư. Đó là hoàn cảnh khốn cùng của nạn đói và vẻ đẹp nhân văn của tình người đặt trong hoàn cảnh cụ thể. Nhà văn vừa cảm thông, đau xót trân trọng khát vọng hạnh phúc chính đáng nhân bản của con người. Tình huống truyện dẫn dắt người đọc phơi mở thế giới tâm hồn các nhân vật.

2. Nhân vật Tràng.

a. Thân phận của tràng:

– Ngoại hình xấu xí, thô kệch. Tính cách ngờ nghệch. Anh làm nghề kéo xe thóc lên tỉnh.

– Hoàn cảnh sống: dân ngụ cư (bị khinh bỉ), nghèo khó, sống trong nạn đói kinh khủng nhất.

– Tràng nhặt được vợ chỉ bằng mấy câu nói đùa và 4 bát bánh đúc.

b. Tâm trạng của Tràng khi có vợ:

– Lúc đầu, anh “chặc kệ”: tự nhiên, đơn giản và liều lĩnh

– Khi dẫn vợ về nhà: cử chỉ, dáng vẻ (chú ý hình ảnh nụ cười 20 lần trong tác phẩm)

– Khi giới thiệu với mẹ (hs phân tích dẫn chứng về cách giới thiệu,thái độ của Tràng trước bà cụ Tứ về người vợ nhặt)

Niềm vui, niềm hạnh phúc đặc biệt đầy hãnh diện của Tràng. Sự trân trọng người bạn đời dù cho đó là người vợ theo không vì đói. Một cách cư xử đầy tình người.

c. Tâm trạng của Tràng trong buổi sáng hôm sau.

+ Nhận thấy xung quanh thay đổi.

+ Thương yêu gắn bó và có trách nhiệm với gia đình.

– Tràng và bà cụ Tứ cùng hình ảnh lá cờ đỏ sao vàng cuối tác phẩm thể hiện cái nhìn biện chứng về số phận người lao động của các nhà văn sau cách mạng.

→ Hạnh phúc lứa đôi là động lực, sức mạnh để vượt lên cái đói cái nghèo. Khơi dậy trong anh phẩm chất trong phẩm chất tốt đẹp nhất, giúp anh trưởng thành. Nhà văn khẳng định cuộc sống tăm tối không thể tiêu diệt niềm khát khao hạnh phúc đời thường,con người vẫn vượt lên bằng ý chí nghị lực phi thường. Đó là giá trị hiện thực, nhân đạo sâu sắc của tác phẩm.

3. Nhân vật người vợ “nhặt”.

a. Về cảnh ngộ:

– Trước hết, về cảnh ngộ, xuất hiện trong tác phẩm, người vợ nhặt chỉ là một con số không tròn trĩnh : không tên tuổi, không quê hương, không gia đình, không nghề nghiệp…

– Ngoại hình không mấy dễ nhìn: đó là hình ảnh của người đàn bà gầy vêu vao, ngực gầy lép, khuôn mặt lưỡi cày xám xịt, quần áo thì rách như tổ đỉa.

b. Về tính cách:

– Trước khi trở thành vợ Tràng: thị là một người phụ nữ ăn nói chỏng lỏn, táo bạo và liều lĩnh:

+ Lần gặp đầu tiên, thị chủ động làm quen ra đẩy xe bò cho Tràng và “liếc mắt cười tít” với Tràng.

+ Lần gặp thứ hai, thị “sầm sập chạy tới”, “sưng sỉa nói” và lại còn “đứng cong cớn” trước mặt Tràng. Đã vậy, thị còn chủ động đòi ăn.

+ Khi được Tràng mời ăn bánh đúc: thị đã cúi gằm ăn một mạch bốn bát bánh đúc.

+ Ăn xong còn lấy đũa quẹt ngang miệng và khen ngon…

→ Có thể nói, tất cả những biểu hiện trên của thị suy cho cùng cũng là vì đói.Cái đói trong một lúc nào đó nó có thể làm biến dạng tính cách của con người.

– Khi trở thành vợ Tràng: thị đã trở về với chính con người thật của mình là một người đàn bà hiền thục, e lệ, lễ phép, đảm đang .

+ Điều đó được thể hiện qua dáng vẻ bẽn lẽn đến tội nghiệp của thị khi bên Tràng vào lúc trời chạng vạng.

+ Sau một ngày làm vợ, chị dậy sớm, quét tước, dọn dẹp cho căn nhà khang trang, sạch sẽ. Đó là hình ảnh của một người vợ biết lo toan, thu vén cho cuộc sống gia đình – hình ảnh của một người vợ hiền, một cô dâu thảo.

+ Trong bữa cơm cưới giữa ngày đói, chị tỏ ra là một phụ nữ am hiểu về thời sự khi kể cho mẹ và chồng về câu chuyện ở Bắc Giang người ta đi phá kho thóc của Nhật. Chính chị đã làm cho niềm hy vọng của mẹ và chồng thêm niềm hy vọng vào sự đổi đời trong tương lai.

→ Tóm lại, người phụ nữ không tên tuổi, không gia đình, không tên gọi, không người thân ấy đã thật sự đổi đời bằng chính tấm lòng giàu tình nhân ái của Tràng và mẹ Tràng.

4. Nhân vật bà cụ Tứ.

– Ngoại hình được miêu tả bằng một vài nét chấm phá: dáng vẻ, đôi mắt… → Bà lão nghèo nàn, lam lũ, khắc khổ in đậm trong ngoại hình này.

a. Tâm trạng của bà cụ Tứ khi Tràng dẫn vợ về nhà:

– Lúc đầu ngạc nhiên (dẫn chứng và phân tích dẫn chứng).

– Sau đó bà buồn tủi “Chao ôi người ta dựng vợ gả chồng cho con….. còn mình thì…”

– Thương xót, xưng hô với nàng dâu “u cũng mừng”

– Lo lắng trước tình cảnh đói khát cho tương lai của các con

– Động viên an ủi con trai và con dâu, tăng thêm nghị lực sống cho con với một niềm tin mãnh liệt hướng vào tương lai

– Hành động lúi húi dãy những bụi cỏ xăm xăm thu dọn lại ngôi nhà cho sạch sẽ, nét mặt luôn tươi cười rạng rỡ.

b. Tâm trạng của bà cụ Tú trong bữa cơm đón nàng dâu:

– Mâm cơm đạm bạc nghèo khổ: mẹt rách, rau chuối thái rối, đĩa muối. Hiện thực bi đát cùng quẫn mà người nông dân phải đối diện

– Cụ Tứ gọi cháo cám là chè khoán, khen ngon đáo để à lạc quan vượt qua cái nghèo mà họ đang phải đối mặt.

– Bà cụ Tứ hiện thân cho vẻ đẹp của những bà mẹ Việt Nam truyền thống, tinh tế nhân hậu, giàu tình người.

– Ý chí niềm tin mãnh liệt của người nông dân giúp họ vượt qua sự khốn cùng của hoàn cảnh, hướng đến sự sống ánh sáng tươi mới hơn trong cuộc đời.

5. Giá trị của truyện ngắn Vợ nhặt.

a. Giá trị hiện thực:

– Truyện đã dựng lại một cách chân thực những ngày tháng bi thảm trong lịch sử dân tộc, đó là khoảng thời gian diễn ra nạn đói năm 1945 :

+ Cái chết đeo bám, bủa vây khắp mọi nơi.

+ Dòng thác người đói vật vờ như những bóng ma.

+ Cái đói đã tràn đến xóm ngụ cư từ lúc nào.

+ Âm thanh của tiếng quạ gào lên từng hồi thê thiết.

+ Xóm ngụ cư, với những khuôn mặt hốc hác, u tối.

+ Cái đói hiện lên trong từng nếp nhà rúm ró, xẹo xệch, rách nát.

+ Cái đói hiện hình trên khuôn mặt của chị vợ nhặt.

+ Bữa cơm ngày đói trông thật thảm hại.

– Truyện phơi bày bản chất tàn bạo của thực dân Pháp và phát xít Nhận đã gây ra nạn đói năm 1945.

– Tuy nhiễn, còn có một hiện thực được phán ánh trong tác phẩm: hiện thực mang tính xu thế, đó là tấm lòng của người dân khi đến với cách mạng.

b. Giá trị nhân đạo:

+ Thái độ đồng cảm xót thương với số phận của người lao động nghèo khổ.

+ Lên án tội ác dã man của thực dân Pháp và phát xít Nhật đã gây ra nạn đói khủng khiếp.

+ Trân trọng tấm lòng nhân hậu, niềm khao khát hạnh phúc bình dị những người lao động nghèo.

+ Dự báo cho những người nghèo khổ con đường đấu tranh để đổi đời, vươn tới tương lai tươi sáng.

c. Giá trị nghệ thuật:

– Xây dựng tình huống truyện độc đáo.

– Lối trần thuật tự nhiên, hấp dẫn làm nổi bật sự đối lập giữa hoàn cảnh và tính cách nhân vật.

– Tạo không khí và dựng thoại rất hấp dẫn, ấn tượng.

– Nhân vật được khắc hoạ sinh động đặc biệt là ngòi bút miêu tả tâm lý nhân vật tinh tế.

– Ngôn ngữ : Bình dị, đời thường nhưng có chắt lọc kỹ lưỡng, có sức gợi và đậm chất Bắc Bộ.

  • Kết bài:

– Qua truyện “Vợ nhặt”, Kim Lân muốn khẳng định: trong những hoàn cảnh khó khăn nhất, ngay cả khi cái chết liền kề, những người dân lao động nghèo khổ, lương thiện vẫn yêu thương, đùm bọc lấy nhau, vẫn khát khao mái ấm hạnh phúc gia đình và hy vọng vào một cuộc sống mới tốt đẹp hơn.

Tài liệu tham khảo:

Giới thiệu truyện ngắn Vợ nhặt.

Kim Lân – nhà văn “con đẻ của đồng ruộng”, người luôn tìm về với “thuần hậu nguyên thủy” đã không thể không rung động đến tận đáy lòng khi nhìn những người nông dân máu thịt đang quằn quại và rơi dần xuống bờ vực cái chết trong nạn đói năm 1945. Với hiện thực không thể làm ngơ bằng tình yêu và tài năng kiệt xuất của mình Kim Lân đã cho ra đời Vợ Nhặt, thiên truyện ngắn thấm nhuần giá trị hiện thực và nhân đạo của nhà văn.

Hoàn cảnh sáng tác.

Tác phẩm tái hiện bối cảnh rộng – nạn đói năm 1945. Đó là hậu quả tất yếu của chiến tranh, khi Nhật xâm chiếm Đông Dương bắt nhân dân ta nhổ lúa trồng đay. Bọn thực dân sau khi thua ở Đông Dương thì ra sức bóc lột nhân dân để chuẩn bị cho cuộc chiến tranh mới, bọn địa chủ cường hào ở nông thôn ngày càng ức hiếp dân lành. Mất mùa vì hạn hán, lũ lụt xảy ra thường. Năm 1945, nạn đói chưa từng có trong lịch sử đã cướp đi hơn hai triệu đồng bào ta. Những cảnh chết đường chết chợ, tha phương cầu thực diễn ra tất cả các hang cùng ngõ thẳm.

Truyện ngắn “Vợ nhặt” có tiền thân là một truyện dài nằm trong dự định của Kim Lân – tiểu thuyết “Xóm ngụ cư”. Nhưng sau đó mất bản thảo, thất lạc và Kim Lân muốn dồn đọng lại nội dung ý tưởng trong một tập truyện ngắn – đó là lí do “Vợ nhặt” truyện ngắn độc đáo ra đời. Sau khi hoà bình lập lại (1954) Kim Lân dựa vào một phần cốt truỵên cũ và viết truyện ngắn này. Truyện chứa đựng dung lượng hiện thực lớn mà nhà văn lấy bối cảnh hiện thực năm đói 1945. Nhưng điều mà nhà văn muốn gửi gắm không chỉ là hiện thực thê thảm của năm đói mà ông muốn thắp sáng vẻ đẹp tình người trong những năm tháng tối tăm. Tác phẩm được hoàn thành ngay sau khi cách mạng tháng Tám thành công. Truyện được in trong tập “Con chó xấu xí” (1962).

Chủ đề: Thông qua tác phẩm, nhà văn đã phản ánh và trân trọng những con người bần cùng, lương thiện. Trong hoàn cảnh đói kém khủng khiếp, họ vẫn đùm bọc nhau, dành cho nhau hạnh phúc và hi vọng vào một cuộc sống tốt đẹp hơn.

Phân tích dặc sắc tình huống truyện Vợ nhặt.

  • Mở bài:

Tình huống truyện, có người đã ví nó như một thứ nước rửa ảnh, mà qua đó làm nổi hình, nổi sắc nhân vật. Đọc “Vợ nhặt”, không ai không bị hấp dẫn bởi một tình huống hết sức độc đáo và bi hài mà cũng đậm chất nhân văn, thấm đẫm tình người.

  • Thân bài:

Khái niệm tình huống truyện và tình huống truyện Vợ Nhặt.

“Truyện ngắn dẫu sao cũng phải ngắn, do đó thủ thuật chủ yếu của truyện ngắn là thủ thuật điểm huyệt. Truyện ngắn điểm huyệt thực hiện bằng cách nắm bắt trúng những tình huống cho phép phơi bày cái chủ yếu nhưng lại bị che giấu trong muôn mặt cuộc sống hàng ngày” (Nguyên Ngọc). Vậy là đối với truyện ngắn, tình huống giữ vai trò là hạt nhân của cấu trúc thể loại, nó chính là cái hoàn cảnh riêng được tạo nên bởi một sự kiện đặc biệt khiến cho tại đó, cuộc sống hiện lên đậm đặc nhất và ý đồ tư tưởng của tác giả cũng được bộc lộ sắc nét nhất. Bên cạnh đó, từ tình huống truyện, các sự kiện, biến cố của cốt truyện được phát triển, tính cách nhân vật được bộc lộ – nói cách khác tình huống truyện như một thứ nước rửa ảnh làm nổi hình, nổi sắc nhân vật. Việc giải quyết những mâu thuẫn, xung đột trong tình huống truyện sẽ bộc lộ rõ tư tưởng chủ đề của tác phẩm và dụng ý nghệ thuật của tác giả. Việc sáng tạo nên các tình huống độc đáo biểu hiện khả năng quan sát, khám phá bản chất cuộc sống, bản chất con người của nhà văn.

Tình huống truyện “Vợ nhặt” hiện lên ngay từ nhan đề, gợi lên sự chua xót, mai mỉa, một nỗi đau không thể nói thành lời. “nhặt vợ”, một hành động nghe sao đơn giản và dễ dàng đến như vậy? Điều đó hoàn toàn trái ngược với quan niệm của dân gian:

Tậu trâu, lấy vợ, làm nhà
Trong ba việc ấy thật là khó thay
Hoặc ít ra cũng là:
Ba trăm một mụ đàn bà
Mang về mà trải chiếu hoa cho ngồi

Vậy mà ở đây, Tràng đã nhặt được vợ, trong cơn đói khủng khiếp mà có lẽ đến giờ con cháu chúng ta vẫn kể cho nhau nghe để rùng mình; trong khi Tràng khó lòng có thể lấy được vợ và thậm chí là ế vợ thì chàng ta lại “nhặt được vợ”. Cái lạ thường, kì dị của hành động “nhặt vợ” đã tạo nên một tình huống vô cùng độc đáo mang ý nghĩa chi phối toàn bộ tác phẩm.

2. Nét đặc sắc của “tình huống truyện” trong truyện ngắn Vợ nhặt

a. Tạo được sự bất ngờ hấp dẫn cho thiên truyện:

– Bất ngờ cho toàn dân xóm ngụ cư:

Đã từ lâu, dân xóm ngụ cư này đã quá quen với hình ảnh vập vạp, thô kệch của Tràng với cái cười “hềnh hệch” vô hồn lúc nào cũng trên môi, Tràng nghèo túng, xấu xí hơn cả những con người tồi tàn, bèo bọt ở cái xóm làng thì làm gì có thể lấy được vợ? Thế nhưng hôm nay, bên cạnh cái lưng to rộng như lưng gấu của hắn lại có cả một người đàn bà rón rén và e thẹn. Điều đó gợi nên sự kinh ngạc cho cả xóm. Sự tò mò, xoi mói cứ lan dần theo từng bước đi của Tràng và người đàn bà trên con đường xao xác nắng chiều. Mọi người cứ xì xầm bàn tán “Ai đấy nhỉ ! Hay là người nhà bà cụ Tứ mới lên?”; “Chả phải, từ ngày còn mồ ma ông cụ Tứ có thấy họ mạc nào lên thăm đâu?” thỉnh thoảng lại “rung rúc” vang lên tiếng cười đầy ghê rợn như tiếng cú báo hiệu tai ương và chết chóc vọng mãi theo đôi uyên ương về cuối xóm. Mặc cho những lời bàn tán, Tràng vẫn lầm lũi bước dưới những gốc gạo sù sì có “bóng những người đói đi lặng lẽ như những bóng ma” thay cho khách và tiếng quạ gào lên thê thiết từng hồi, tiếng khóc hờ tỉ tê của những nhà có người chết thay cho pháo cưới. Câu chuyện chìm trong nặng nề và sợ hãi, đầy những cảnh ma quái, đen tối. Cái đói đã luồn những làn gió chết chóc mọi nơi. Vậy mà Tràng lại có vợ “Ôi chao! Biết có nuôi nổi nhau qua được cái thời đói khát này không”.

– Bất ngờ cho bà cụ Tứ:

Tình huống Tràng có vợ tạo ra một sang chấn cực mạnh trong xóm ngụ cư. Cả xóm ngạc nhiên đã đành, mà cả bà cụ Tứ, mẹ Tràng cũng rất ngạc nhiên. Làm sao kể xiết sự sững sờ của bà khi trông thấy người đàn bà đứng ở đầu giường của con mình, lại còn chào mình bằng u nữa. Bà không thể nghĩ rằng con mình lại có vợ, ngay trong cái thời buổi đói kém này. Bà hấp háy cặp mắt cho đỡ nhoèn mà càng lúc nó cứ nhoèn mãi ra.

– Bất ngờ cho chính bản thân Tràng:

Tình huống càng bất ngờ đến hài hước khi chính Tràng cũng vẫn còn “ngỡ ngàng”. “Ngồi ngay giữa nhà, đến bây giờ hắn vẫn còn ngờ ngợ như không phải. Ra hắn đã có vợ đấy ư?”. Mọi chuyện xảy ra quá bất ngờ, dường như chỉ là cơn mơ, một cơn mơ theo đuổi tâm trí hắn cho đến tận buổi sáng ngày hôm sau. Người đàn bà chỉ gặp mới hai lần lại trở thành vợ hắn. Mà thật ra, hắn cũng không có ý định gì với thị…Thị liều lĩnh đến với hắn chỉ bằng một câu nói suông. Đùa mà thành thật, Thị theo hắn như phó mặc cho số phận. Cái đói đã đẩy họ đến với nhau trong hạnh phúc ngỡ ngàng, đầy lo âu. Mọi chuyện xảy ra quá bất ngờ, dường như chỉ là cơn mơ. Người đàn bà mới chỉ gặp hai lần nay lại trở thành vợ hắn…

Tình huống đã phơi trần hiện thực và qua đó bộc lộ thái độ của nhà văn đối với con người cũng như xã hội:

Cái đói – không cần dùng đến những lời lẽ đanh thép hay “đại ngôn” nhưng tác phẩm Vợ nhặt mang đến một giá trị nhân bản vô cùng to lớn. Bằng tình huống đầy bi hài, nhà văn xoáy vào tố cáo chế độ thực dân phát xít, nguyên nhân trực tiếp dẫn đến cái đói kinh hoàng. Cái đói mang đến sự chết chóc, tang thương khắp mọi nơi và cũng chính nó làm giá trị con người bị hạ xuống mức thấp nhất. Con người dường như mất hẳn tính người, chỉ còn sống theo bản năng để được ăn, được sống…Cơn đói khát làm cho người đàn bà quên cả sĩ diện, được mời ăn “hai con mắt trũng hoáy của thị sáng lên”tức thì, thế rồi “thị sà xuống ăn thật. Thị cắm đầu ăn một chặp bốn bát bánh đúc liền chẳng chuyện trò gì”. Đoạn văn làm cho bất cứ ai có lương tâm cũng phải xấu hổ, phải quay mặt đi để cười ra nước mắt. Thì làm ta liên tưởng đến bà lão trong Một bữa no của Nam Cao. Con người trở nên trơ trẽn, mất nhân cách khi cái đói luôn ám ảnh. Giận thị nhưng ta vẫn xót xa trước dáng hình tiều tụy của thị “hôm nay thị rách quá, quần áo tả tơi như tổ đỉa, thị gầy sọp đi, trên cái khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt”. Cái đói, với bóng đen kinh hoàng của nó bao trùm khắp mọi nơi, đè nặng lên cuộc sống bình thường của mỗi con người. Nó không chỉ tàn phá nhân hình mà còn làm cho con người mất đi cả danh phẩm – một người vợ theo không, nhưng cái đói vẫn đeo bám. Thê thảm với đám “rước dâu” có tiếng quạ kêu thê thiết đón chào, đêm tân hôn có tiếng ai hờ khóc tỉ tê “có mùi đốt đống rấm ở những nhà có người chết theo gió thoảng vào khét lẹt”.

Trong cái thời tao đoạn ấy, việc Tràng lấy vợ quả là một tình huống oái oăm. Ta sẽ mừng hay lo, buồn hay vui cho cặp vợ chồng này? Tâm trạng của những nhân vật trong câu chuyện chứa đầy những cảm xúc ngổn ngang và mâu thuẫn. Bà cụ Tứ vui vì cuối cùng con mình cũng có vợ nhưng lại tủi vì sự trớ trên của số phận: có phải thời “tao đoạn” như thế, người ta mới chịu lấy con mình? Bà mẹ nghèo nặng trĩu những lo âu cho tương lai của con mình, “liệu chúng nó có nuôi nhau nổi sống qua được cơn đói khát này không?”. Câu hỏi từ tận đáy lòng của bà mẹ chất chứa nỗi hoang mang, ám ảnh của kiếp bần hàn không lối thoát và cả sự rình rập trước ngõ của cơn ác mộng về cái đói chưa bao giờ dữ dội đến thế. Trong lòng bà, ta cảm thấy cả nỗi buồn của một người mẹ không được thấy con trong ngày vui, không được một vài mâm làm lễ gia tiên. Trong lời nghẹn ngào tâm sự của bà có cả sự xót xa, một chút ân hận vì đã không làm được đầy đủ bổn phận của một người mẹ đối với con. Nỗi buồn tủi của bà cụ Tứ, thân phận bọt bèo của những con người như Tràng và cô vợ Nhặt, những cám cảnh bần cùng ấy tự thân nó đã có sức tố cáo mạnh mẽ cái tội ác của thực dân phát xít….

Nhà văn trân trọng, tôn vinh những phẩm chất tốt đẹp của người nông dân: dù đối mặt với hoàn cảnh sống ngặt nghèo nhưng họ vẫn luôn cưu mang, đùm bọc lẫn nhau. Thậm chí càng gieo neo, khốn khó lại càng yêu thương nhau. Đó là truyền thống cao đẹp đầy chất nhân văn của người Việt “Thương người như thể thương thân”. Rộng sâu hơn, nhà văn đã viết bản bi ca về niềm lạc quan, yêu sống, ham sống của con người. Đúng như nhà văn tâm sự khi viết truyện ngắn này : “Tôi muốn cho độc giả thấy dù hoàn cảnh thế nào đi nữa thì tình người vẫn vượt lên trên tất cả. Có tình người là có cuộc sống. Có tình người là có hi vọng vào tương lai”.

Nhưng tình huống truyện cũng làm ngời sáng lên vẻ đẹp của những người nông dân bình thường thô mộc, giúp các nhân vật bộc lộ sâu sắc tâm trạng và tính cách của mình..

– Với Tràng:

Đó là khát khao hạnh phúc của anh Tràng. Tình huống nhặt vợ mang đầy vẻ bi hài, chỉ bằng những câu bông lơn và bốn bát bánh đúc, thị đã đồng ý làm bạn với hắn. Thị theo hắn dường như để giải quyết nhu cầu ăn. Những chuyện tưởng như rất thô lậu và trơ trẽn nhưng dưới ngọi bút tài tình của Kim Lân, nó trở nên nhẹ nhàng hơn và lấp lánh tình người. Tràng hoàn toàn mờ mịt về tương lai của mình “thóc gạo này đến thân mình còn chả biết có nuôi nổi không lại còn đèo bòng” nhưng hắn vẫn ra tay cưu mang người đàn bà nghèo khổ. Đói kém đã đẩy đưa người phụ nữ đến với hắn, mang đến cho hắn niềm hạnh phúc của một người có được mái ấm gia đình với bao ước mơ về tương lai dung dị nhưng đầy cảm động. Chính vì thế, hắn nhận ra trách nhiệm của mình đối với hạnh phúc mà mình vừa có được. Lòng hắn chợt loé lên một ý nghĩa được đổi đời, tự dưng hắn thấy ân hận, tiếc rẻ, vẩn vơ, khó hiểu – khao khát đổi thay.

Tính cách của Tràng cũng diễn biến rất tinh tế, thay đổi linh diệu nhờ tình huống nhặt vợ. Trước khi nhặt được vợ, Tràng chỉ là một anh chàng đẩy xe bò thuê, cuộc sống nghèo khổ, bấp bênh thậm chí là bế tắc với khuôn mặt đầy lo âu, khắc khổ và cái cười hềnh hệch. Nhưng khi thị quyết định theo Tràng về làm vợ, trong suy nghĩ của con người vô tư ấy chợt có những suy nghĩ đầy trưởng thành “thóc gạo này đến cái thân mình còn không biết có nuôi nổi không lại còn đèo bòng”, rồi hắn quyết định, dứt khoát và đánh cược với số phận.

– Với bà cụ Tứ.

Trong cảnh thê lương ấy, những tấm lòng nhân hậu lại sáng ngời lên mà tiêu biểu trong tác phẩm là bà cụ Tứ. Trong lòng người mẹ nghèo ấy lúc nào cũng mang sẵn tình thương con vô bờ bến “vừa ai oán vừa xót xa cho số kiếp của đứa con mình”. Trong cái nhìn đăm đăm vào người đàn bà đang “cúi mặt xuống, tay vân vê tà áo đã rách bợt” có sự xót thương, thông cảm sẻ chia. Tình thương con dù bao la đến mấy cũng có thể chỉ làm bà “rỉ xuống hai dòng nước mắt”. Cái khổ đau vất vả một đời đã vắt kiệt nước mắt người mẹ. Nó không đủ để chảy thành dòng “rỉ” xuống như chết non một cách tức tưởi. Không còn nước mắt nhưng bà vẫn nhận lấy nguy cơ bị cái chết gần thêm bước nữa. Bằng ngòi bút tài năng của mình, Kim Lân có lúc đã đưa người đọc đến tận cùng màn đêm tối tăm, u ám, nhưng rồi lại nhẹ nhàng hé ra một khe sáng lấp ló đâu đó khiến chúng ta hướng về và vươn tới. Người dân Việt nam mà đại diện là những bà mẹ Tràng, anh Tràng và người đàn bà vẫn khát khao cuộc sống hạnh phúc tươi sáng hơn. “Bà lão nói toàn chuyện vui, chuyện sung sướng sau này”. Trong tâm trí bà là viễn cảnh tươi sáng gia đình. Niềm vui làm bà mẹ Tràng nhẹ nhõm, tươi tỉnh khác thường , “cái mặt bủng beo u ám của bà rạng rỡ hẳn lên”. Ta vui lây niềm vui của gia đình hoà thuận, đầm ấm, niềm vui của Tràng được thấy xung quanh mình hôm nay có gì vừa thay đổi mới mẻ, khác thường. Niềm vui bất chợt của gia đình làm ta cười sung sướng nhưng nước mắt vẫn cứ tuôn mãi nghẹn ngào. Ta muốn tha thứ tất cả, kể cả sự trơ tráo của người đàn bà và cả tội phung phí đến hai hào dầu của anh Tràng.

– Với Thị.

Cũng như bất cứ một nhân vật nào trong truyện, Thị cũng khao khát sống, khao khát một hạnh phúc gia đình. Chính vì khao khát mãnh liệt ấy mà thị đã bán rẻ nhân phẩm của mình để theo Tràng về làm vợ. Thị một lần nữa đánh đu với số phận để tìm sự sống và hạnh phúc. Dù là mong manh và ít hi vọng. Điều đẹp đẽ, có hậu như một niềm tin vào sự sống, vào con người bởi sự thay đổi của Thị trong buổi sáng đầu tiên về làm dâu. Thị bỗng trở thành một người phụ nữ hiền hậu đúng mực, khiến chính Tràng còn phải ngỡ ngàng trước sự thay đổi ấy: “Tràng nom thị hôm nay trông khác lắm, rõ ràng là người đàn bà hiền hậu đúng mực không còn vẻ gì chao chát chỏng lỏn như mấy lần Tràng gặp ở ngoài tỉnh”. Thị tu chí làm ăn, và có ý thức cùng chồng vun vén, xây dựng gia đình. Hạnh phúc gia đình, sự cảm thông, lòng yêu thương giữa con người với con người chính là bàn tay ấm kéo con người về với cuộc sống.

  • Kết bài:

Chỉ một tình huống nhỏ nhoi nhưng Kim Lân đã gợi nên biết bao điều. Mỗi ý nghĩ của tình huống lại mang một giá trị nhân bản, tấm lòng nhân đạo bao la của nhà văn. Chính vì thế, tác phẩm mang đầy tình yêu thương nồng ấm như một ngọn lửa nhỏ lấp loé mãi trong cuộc đời. Và tác phẩm đã cho ta phát hiện thêm một bản chất tuyệt vời nhân hậu, tuyệt vời đức hi sinh của những người nông dân Việt Nam. Dù đứng trước sự mất còn của mạng sống ( hiểu theo nghĩa đen trần trụi nhất) vẫn cưu mạng, vẫn lấy lại phẩm giá để làm người, để sống với hi vọng, với tương lai. Lá cờ đỏ sao vàng của Việt Minh dẫn đoàn người đói khát đi phá kho thóc của Nhật đâu chỉ là mộng tưởng. Cách mạng đã gần kề, suối nguồn của chủ nghĩa nhân đạo sẽ làm sáng lên những con người bình dị nhưng có phẩm chất nhân đạo như cụ Tứ, như Tràng và cô “vợ nhặt” tội nghiệp….Họ sẽ viết tiếp truyện thống về phẩm giá con người Việt Nam trong tương lai.

Phân tích nhân vật Tràng

  • Mở bài:

Nếu Chí Phèo đi vào trong tác phẩm của Nam Cao với dáng ngật ngưỡng của kẻ say và tiếng chửi đời đầy chua chát. Thì nhân vật Tràng cũng bước vào trang văn của Kim Lân với cái lưng to như lưng gấu và dáng đi lững thững đầy mỏi mệt, cái mắt nhỏ tí gà gà đắm vào bóng chiều. Nhưng trước cách mạng, Nam Cao đã bất lực nhìn Chí Phèo chết mà không thể đưa tay cứu vì hạn chế của lịch sử. Còn Kim Lân viết về anh cu Tràng sau cách mạng thành công nên nhân vật đã được dắt tay đến ánh sáng của cách mạng, tìm đường tới tự do. Con đường ấy chông gai, và thách thức như thế nào trong thiên truyện ngắn Vợ nhặt, Kim Lân đã vẽ lại con đường ấy bằng ngòi bút chân thực, sống động khi miêu tả nhân vật Tràng, một nhân vật chính của truyện với sự cảm thông và lòng nhân đạo sâu sắc.

  • Thân bài:

1. Lai lịch, ngoại hình:

– Lai lịch:

Dân ta ngày xưa sống trong thuần hậu của làng quê mà lúc đó là “phép vua còn thua lệ làng”. Văn hóa làng xã phát triển đến ăn sâu trog tiềm thức của con. Vậy mà Tràng lại là dân ngụ cư, một gã trai nghèo khổ, làm nghề đẩy xe bò thuê, nuôi mẹ già. Dân ngụ cư là nhưng người vốn từ nơi khác đến. Vì thế, họ không có ruộng đất, những thứ vô cùng quan trọng đối với người nông dân thời xưa. Đã vậy, họ còn bị phân biệt đối xử, thường phải ở nơi bìa làng, hoặc ở chỗ hẻo lánh. Nhà cửa của anh ta, cái được gọi là “nhà” thì luôn vắng teo đứng rúm ró trên mảnh vườn mọc lổn nhổn những búi cỏ dại. Hơn nữa, vì là dân ngụ cư, Tràng bị coi khinh, chẳng mấy ai thèm nói chuyện, trừ lũ trẻ hay chọc ghẹo khi anh ta đi làm về.

– Ngoại hình:

Tràng xấu xí, thô kệch. Mỗi buổi chiều về, hắn bước ngật ngưỡng trên con đuờng khẳng khiu luồn qua cái xóm chợ của những người ngụ cư vào bên trong bến. Hắn vừa đi vừa tủm tỉm cười, hai con mắt nhỏ tí, gà gà đắm vào bóng chiều, hai bên quai hàm bạnh ra, rung rung làm cho cái bộ mặt thô kệch của hắn lúc nào cũng nhấp nhỉnh những ý nghĩ vừa lý thú vừa dữ tợn… Còn đầu của Tràng thì cạo trọc nhẵn, cái lưng to rộng như lưng gấu, ngay cả cái cuời cũng lạ, cứ phải ngửa mặt lên cười hềnh hệch.
Với lai lịch là dân ngụ cư nghèo, lại có ngoại hình xấu trai như vậy cũng đủ anh Tràng khó lấy được vợ nếu không muốn nói là ế vợ. Nhưng ẩn chứa bên trong nét ngoại hình xấu xí ấy là tâm hồn của một con người luôn vươn tới những khao khát sống đẹp. Và điều này một phần được thể hiện thông qua tính cách của nhân vật.

2. Tính cách:

1. Con người vô tư, nông cạn nhưng đầy tình thương:

Tràng hầu như không tính toán, không ý thức hết hoàn cảnh của mình, không vướng bận những lo toan của cuộc sống cơm áo, gạo tiền. Anh ta thích chơi với trẻ con và chẳng khác chúng là mấy. Mỗi lần Tràng đi làm về, trẻ con trong xóm cứ thấy cái thân hình to lớn, vập vạp của hắn từ dốc chợ đi xuống là ùa ra vây lấy hắn, reo cười váng lên. Rồi chúng, đứa túm đằng trước, đứa túm đằng sau, đứa cù, đứa kéo, đứa lôi chân không cho đi. Khi ấy, Tràng chỉ ngửa mặt lên cười hềnh hệch. Anh với lũ trẻ con như anh em, bè bạn và cái xóm ngụ cư ấy mỗi chiều lại xôn xao lên được một chút.

Ngay cả chuyện quan trọng cả một đời như lấy vợ, bất cứ ai cũng phải lựa chọn, cân nhắc kĩ càng nhưng Tràng thì ngược lại. Tràng cũng chỉ đưa ra quyết định trong chốc lát, nhanh chóng đến bản thân anh ta còn không tin nổi. Thật ra, ban đầu Tràng không chủ tâm tìm vợ. Tràng cũng thừa biết, người như hắn thì không thể có vợ. Đó là lần gò lưng kéo cái xe thóc vào dốc tỉnh, Tràng hò một câu chơi cho đỡ nhọc. Chủ tâm của anh ta là vui đùa chứ đâu có chòng ghẹo cô nào.

Muốn ăm cơm trắng với giò!
Lại đây mà đẩy xe bò với anh, nì!

Nhưng không hiểu sao những cô kia lại đẩy Thị ra với hắn. Thế rồi, một người đàn bà đang đói bám lấy để được ăn, Tràng cũng vui vẻ chấp nhận, cười tít mắt và cùng đẩy xe bò. Nhưng Tràng cảm thấy hạnh phúc biết bao khi gặp được cái “cười tít mắt của thị”bởi “từ xưa đến giờ có ai cười với hắn một cách tình tứ như vậy đâu”. Cái cười của Tràng làm ta nhớ đến giây phút mà Chí Phèo không quên và đầy xúc cảm trào dâng như khi nhận bát cháo hành từ trên tay Thị Nở, vì từ xưa đến nay có ai cho hắn cái gì, muốn có ăn thì phải cướp, giật, dọa nạt. Một sự bố thí nhỏ nhoi của số phận cũng làm cho con người trào dâng niếm hạnh phúc. Ấy chính là tinh thần nhân đạo của nhà văn.

Vì đùa nên Tràng quên ngay nhưng thị thì nhớ như in và tới ăn vạ. Lơ ngơ giây lát nhưng khi nhận ra Tràng nhanh chóng gật đầu. Lần thứ hai gặp lại là Khi Tràng đang ngồi nghỉ trước cổng chợ tỉnh thì bất ngờ người đàn bà sầm sập chạy đến, cong cớn, sưng sỉa với hắn “Điêu, người thế mà điêu. Bữa trước hẹn thế mà mất mặt”. Tràng không nhận ra người đàn bà hôm trước đẩy xe cho mình. Trước mặt hắn là một người đàn bà thảm hại đã bị cái đói tàn phá cả nhân hình lẫn phẩm cách. Thị gầy sọp hẳn đi, quần áo rách như tổ đỉa, ngực gầy lép, trên khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn hai con mắt. Thấy người đàn bà đói, rách rưới, thảm hại. Tràng động lòng thương. Có ai ngờ được rằng trong con người thô kệch ấy lại có một tấm lòng thương người cao cả đến thế bởi chính Tràng lúc này cũng bị cái đói bủa vây, cũng thảm hại đáng thương như người phụ nữ kia. Thế nhưng Tràng đã quên đi cái nghèo khổ của mình, chỉ còn lòng thương, một lòng thương người đầy đủ giành cho người đàn bà. Tràng cho thị ăn, ăn rất nhiều ” bốn bát bánh đúc” – bởi giữa lúc tao đoạn ấy thì “một miếng khi đói bằng một gói khi no”. Miếng ăn ấy có thể cứu sống một con người. Đó chính là lòng thương một con người đói khát hơn mình chứ Tràng không hề có ý định lợi dụng hoặc chòng ghẹo. Một phẩm chất cao cả, một tâm hồn đẹp ẩn bên trong một ngoại hình thô kệch, xấu xí. Một lòng thương người bao la giữa cái đói cái chết đang cận kề. Đó là phẩm chất tốt đẹp trong con người lao động nghèo khổ Việt Nam mà Kim Lân đã dày công kiếm tìm và ca ngợi.

– Khát khao hạnh phúc gia đình:

Vốn tính hay đùa, khi thị lo lắng hụt tiền bị vợ mắng, Tràng lại tầm phơ tầm phào “Nói đùa chứ có về với tớ thì ra khuân đồ lên xe rồi về”. Nói đùa thế thôi, ai ngờ thị về thật. Lúc đầu Tràng phảng phất lo sợ về cái đói và cái chết. Mới đầu anh cũng chợn, nghĩ: “thóc gạo này đến cái thân mình cũng chả biết có nuôi nổi không, lại còn đèo bòng”. Đó là nỗi sợ hãi có thật, nhất lại là thời điểm đói kém như thế. Một thoáng trong óc Tràng, nỗi ám ảnh của cái đói, cái chết hiện về đầy đủ và chân thật nhất. Nó là hiện thực khắc nghiệt mà không một lí trí nào đủ mạnh mẽ để làm ngơ. Nhưng có lẽ tình thương người và khát vọng hạnh phúc đã lớn hơn nỗi sợ hãi nên sau đó anh chặc lưỡi “Chậc kệ!”

Chỉ một từ “chậc kệ” thôi, Tràng như đã bỏ lại sau lưng mình tất cả nỗi sợ hãi, mọi lo nghĩ để vun vén cho cái hạnh phúc của mình. Tràng và người đàn bà kia như hai cành củi khô nhưng họ đã chụm vào nhau để nhen lên ngọn lửa sự sống. Tội nghiệp thay, người này thì cần hạnh phúc còn người kia thì lại cần chỗ dựa. Một người vì khát khao hạnh phúc gia đình, người kia vì miếng ăn. Nói tóm lại là họ đánh liều với số phận, với sự sống, nhưng cái liều của họ làm người ta bật khóc. Bởi sống giữa cuộc đời mà ngay khi cái đói, cái chết cận kề, họ không nghĩ đến cái đói, cái chết mà lại hướng tới sự sống, khát khao hạnh phúc. Đó là vẻ đẹp, nghị lực sống phi thường của người nông dân nghèo. Bấy giờ thì họ là người dũng cảm, dũng cảm bởi vì họ dám nắm tay nhau để bước qua ranh giới mong manh của sự sống và cái chết. Họ làm ta khâm phục và kính trọng, phải chăng hai con người khốn khổ ấy là niềm tin của Kim Lân về một giống nòi sẽ tiếp nối sẽ sinh sôi khi mà cả dân tộc đang đứng trước sự diệt vong của nạn đói? Tất cả dồn tụ, lắng đọng lại trong chi tiết nhặt vợ thật nhanh chóng của Tràng!

Tràng là người đàn ông nhân hậu phóng khoáng:

Khi người phụ nữ chấp nhận làm vợ, Tràng đã có ý thức chăm sóc: hắn đưa thị vào chợ tỉnh bỏ tiền ra mua cho thị cái thúng con đựng vài thứ lặt vặt và ra hàng cơm đánh một bữa no nê… Anh còn mua 2 hào dầu để thắp sáng, để vợ mới vợ miếc cũng phải cho nó sáng sủa một tí. Đó có vẻ như là sự chi tiêu phóng khoáng thậm chí là cố gắng quá mức của Tràng trong lúc đói khát, thóc cao gạo kém này. Nhưng cũng rất dễ hiểu vì Tràng sắp được làm chồng.

Không phải vì vợ nhặt mà Tràng coi thường, không trân trọng mà ngược lại, hắn yêu thương và nâng niu chút hạnh phúc lớn lao bỗng nhiên hắn có được. Trên đường về, khác với anh Tràng hôm qua buồn bã, cúi mặt lo âu nghĩ ngợi, hôm nay Tràng có niềm vui lạ, một niềm hạnh phúc tràn ngập khiến mặt Tràng cứ “phớn phở khác thường”. Thỉnh thoảng lại còn cười nụ một mình. Lúc thì hắn đi sát người đàn bà, lúc lại lùi ra sau một tí, hai tay cứ xoa vào vai nọ vai kia, muốn nói đùa một câu, lại cứ thấy ngường ngượng. Kim Lân đã làm người đọc thấy được sự thay đổi về tâm lí của Tràng. Tràng thật sự đã đổi khác. Trong lòng Tràng tràn ngập niềm vui sướng miên man khiến “Trong một lúc Tràng hình như quên hết những cảnh sống ê chề, tăm tối hằng ngày, quên cả cái đói khát ghê gớm đang đe dọa, quên cả những tháng ngày trước mặt. Trong lòng hắn bây giờ chỉ còn tình nghĩa giữa hắn với người đàn bà đi bên. Một cái gì mới mẻ, lạ lắm, chưa từng thấy ở người đàn ông nghèo khổ ấy, nó ôm ấp, mơn man khắp da thịt Tràng, tựa hồ như có bàn tay vuốt nhẹ dọc sống lưng”. Thế là rõ rồi: Tình yêu, hạnh phúc gia đình luôn đủ sức mạnh khiến con người ta thay đổi.

– Biết đến những lo âu chính đáng.

Khi về đến nhà, lúc đầu Tràng thấy “ngượng nghịu” rồi cứ thế “đứng tây ngây ra giữa nhà, chợt hắn thấy sờ sợ”. Nhưng đó chỉ là cảm giác thoáng qua thôi. Hạnh phúc lớn lao quá khiến Tràng lại lấy lại được thăng bằng nhanh chóng. Lúc sau Tràng tủm tỉm cười một mình với ý nghĩ có phần ngạc nhiên sửng sốt, không dám tin đó là sự thật: “hắn vẫn còn ngờ ngợ như không phải thế. Ra hắn đã có vợ rồi đấy ư ?”. Đó là sự ngạc nhiên trong sung sướng. Không chỉ có bản thân Tràng thấy bất ngờ về việc mình bỗng nhiên có vợ, mà tất cả những người dân trong xóm ngụ cư đều không tin được. Bởi đây là một việc như từ trên trời rơi xuống. Cái đói cướp đi cả mạng sống của con người thì có hạnh phúc nào nó có thể ban cho con người? Vậy mà Tràng lại nhặt được hạnh phúc ngay lúc sự sống chênh vênh nhất, không biết nên mừng hay tủi, vui hay buồn, hạnh phúc hay âu lo? Nhưng đã vượt qua tất cả hiện thực khắc nghiệt, Tràng đón nhận niềm vui của hạnh phúc nhỏ nhoi, bất ngờ của mình.

Lúc chờ đợi Mẹ về: Tràng nóng ruột, đi đi lại lại. Chưa bao giờ người ta thấy hắn nôn nóng như thế- hắn biết lo toan, như mốc đánh dấu sự trưởng thành của một con người. Vì sao? Bởi hắn lo mẹ không đồng ý, và nếu như vậy thì niềm hạnh phúc hắn đang có sẽ bị mất đi. Khi mẹ về, hắn mừng rỡ, rối rít như trẻ con vì dù sao Tràng vẫn còn có mẹ – đó là đấng tối cao của Tràng vì chỉ có mẹ mới quyết định được hạnh phúc của hắn. Tràng nóng lòng thưa chuyện với mẹ. Bắt mẹ ngồi lên giường để thưa chuyện, như thế ta mới thấy hết Tràng cũng ý thức được mình lấy vợ là một việc vô cùng hệ trọng. Có gì đó như sự đổi thay ghê gớm. Trên chợ tỉnh mới trước đó ít phút, lời rủ thị về đích thực là một câu đùa thì với hành động mời mẹ ngồi lên ghế chĩnh chện để thưa chuyện thì đó lại là việc hệ trọng cả một đời. Một chàng trai đã lớn, đến tuổi dựng vợ, gả chồng mà khi thưa chuyện vợ con với mẹ Tràng vẫn còn ngượng nghịu, chút ngượng ngịu đầy trân trọng của chàng trai nghèo trước hạnh phúc bất ngờ. Niềm vui, sự ngượng nghịu hoàn toàn đối lập với sự ủ rũ của cậu con trai Lão Hạc khi bị phụ tình, vì nghèo mà mất đi tình yêu đầy chua xót. Hai phận nghèo nhưng lại là hai kết thúc khác nhau trước hạnh phúc gia đình. Nên người đọc hoàn toàn có thể hiểu và cảm thông cho niềm vui của Tràng. Khi được mẹ đồng ý, Tràng thở đánh phào một cái nhẹ cả người. Thế là Tràng đã có gia đình, có vợ, không tốn tiền cưới hỏi, Tràng lấy được vợ thật hiển hách.

Lo lắng của Tràng hoàn toàn có cơ sở, lo cho hạnh phúc mong manh kia có thể bị mất đi bất cứ lúc nào. Lo cái đói sẽ hủy hoại tất cả, lo sợ mẹ không đồng ý…Tất cả đều chính đáng bởi hạnh phúc gia đình là khao khát, là mưu cầu của mỗi con người. Chân lí ấy Nam Cao đã nói trong truyện ngắn Chí Phèo: người ta không sợ đói rét, ốm đau, bệnh tật bằng sợ sự cô đơn. Phải chăng cũng khi nhận ra hạnh phúc của mình đang hiện hữu cũng là lúc Tràng lo sợ nhất mất đi hạnh phúc ấy, và rồi Tràng lại cô đơn một mình với cái đói, cái nghèo. Có lẽ lúc này cô đơn cũng là điều Tràng lo sợ nhất. Một lo âu, trăn trở mang đầy tính nhân bản, nhân văn trong nhân vật.

Sau khi lấy vợ, Tràng trở thành một người sống có trách nhiệm.

Sau khi lấy vợ, Tràng trở thành một người sống có trách nhiệm, biết suy nghĩ chín chắn. Nhà văn đã mang đến cho người đọc hơi thở mới cho Tràng sau đêm tân hôn. Tràng thức dậy, đầu tiên đó là một cảm giác dễ chịu “Trong người êm ái lửng lơ như người vừa ở trong giấc mơ đi ra”. Đó là tâm trạng lâng lâng trong hạnh phúc. Việc Tràng có vợ thì có khác gì một giấc mơ. Tràng nhận thấy xung quanh mình có thứ gì vừa thay đổi, mới mẻ, khác lạ: Nhà cửa, sân bãi được quét tước, thu dọn sạch sẽ, gọn gàng, quần áo được thu dọn, hai cái ang đã được đổ đầy nước… Tràng cảm động khi thấy mẹ và vợ dọn dẹp lại nhà cửa nhất là khi nghe tiếng chổi tre quét từng nhát sàn sạt trên sân. Một nỗi lòng yêu thương, một nguồn vui sướng, phấn chấn đột ngột tràn ngập trong lòng “Bỗng nhiên hắn thấy hắn thương yêu gắn bó với cái nhà của hắn lạ lùng. Hắn đã có một gia đình. Hắn sẽ cùng vợ sinh con đẻ cái ở đấy. Cái nhà như cái tổ ấm che mưa che nắng”. Không hiểu sao khi đọc những câu văn, những dòng trải lòng của nhân vật hay cũng chính là của tác giả cứ làm tôi nhớ đến những câu thơ trong bài thơ “Đợi” của Vũ Quần Phương:

Anh đứng trên cầu đợi em
Đứng một ngày đất lạ thành quen
Đứng một đời đất quen thành lạ
Nước chảy… kìa em, anh đợi em.

Ngôi nhà của Tràng đã sống bao ngày, hôm nay khi Tràng nhìn nó qua lăng kính tình yêu hắn bỗng nhiên thấy nó vừa lạ lẫm, vừa thân quen như Chế Lan Viên từng nói: Tình yêu làm đất lạ hóa quê hương. Tình yêu chính là chất keo gắn kết của các thành viên trong gia đình để Tràng thêm yêu thương và gắn bó với cái nhà của hắn. Để rồi Tràng khẳng định một điều hoàn toàn mới mẻ: Hắn đã có một gia đình. Hai từ gia đình ở đây cần được hiểu theo nghĩa trọn vẹn và đầy đủ nhất. Trước đây Tràng và mẹ vẫn sống trong ngôi nhà này nhưng từ sáng đến tối không hề gặp mặt. Ngôi nhà như một chỗ trú chân, không ai quan tâm ai. Nhưng giờ đây khi Tràng đã có vợ thì có sợi dây vô hình gắn kết các thành viên trong gia đình. Và đó mới là gia đình thật sự. Gia đình ai cũng có, nhưng gia đình như tổ ấm thì không nên nhà văn để cho Tràng khẳng định lại: Cái nhà như cái tổ ấm che mưa che nắng. Đó là tổ ấm của hạnh phúc chứ không phải cái tổ lạnh băng không tình cảm. Vì thế nên Tràng ý thức được trách nhiệm của mình khi nhìn về tương lai: Hắn sẽ cùng vợ sinh con đẻ cái ở đấy. Điều đó sẽ càng làm tăng thêm không khí ấm cúng của một gia đình. Gia đình đấy cần một trụ cột, và Tràng sẽ làm trụ cột, làm chỗ dựa và có bổn phận lo lắng cho vợ con sau này. Từ ý thức, trách nhiệm dâng cao đã thôi thúc Tràng bắt tay vào hành động: xăm xăm chạy ra sân, muốn làm một việc gì để dự phần tu sửa lại căn nhà. Vậy là Tràng đã trưởng thành, một người đàn ông với vai trò trụ cột gia đình. Có ý thức, trách nhiệm. Luôn muốn làm tròn bổn phận của mình.

Từ một anh phu xe cục mịch, sống vô tư, chỉ biết việc trước mắt, Tràng đã quan tâm đến những chuyện ngoài xã hội và khao khát sự đổi thay. Cái ao đời bằng phẳng của Tràng và mẹ vẫn sống cho qua ngày, nay bỗng thị bước vào như ném một viên sỏi, sóng sánh, đổi thay thấu đáy. Khi tiếng trống thúc thuế ngoài đình vang lên vội vã, dồn dập, Tràng đã thần mặt ra nghĩ ngợi, đây là điều hiếm có đối với Tràng xưa nay bởi trước kia Tràng sống rất nông cạn và hời hợt, không nghĩ sâu sắc một điều gì, ngay cả việc lấy vợ. Trong ý nghĩ của hắn vụt hiện ra cảnh những người nghèo đói ầm ầm kéo nhau đi trên đê Sộp để cướp kho thóc của Nhật và đằng trước là lá cờ đỏ. Tràng nhớ tới cảnh ấy và lòng ân hận, tiếc rẻ và trong óc vẫn thấy đám người đói và lá cờ bay phấp phới… Phải chăng Tràng đã thức tỉnh, đã hiểu được chân giá trị của sự sống: Khi cái đói, cái chết còn kề cận thì hạnh phúc là thứ mong manh, khó nắm giữ, nên để hạnh phúc ấy trọn vẹn thì đầu tiên phải tìm về được với sự sống chân chính. Và chỉ có cách mạng, đến với cách mạng thì con người mới tìm ra lối thoát cho cuộc đời mình. Giá trị nhân đạo là khi tác giả mở ra con đường sống cho những con người đang đứng bên bờ vực của cái chết. Tràng đã mở đầu cho câu chuyện Vợ nhặt bằng những bước ngật ngưỡng trên con đường khẳng khiu luồn qua cái xóm chợ của những người ngụ cư vào buổi chiều chạng vạng mặt người và cũng chính anh đã kết thúc câu chuyện ấy vào buổi sớm mai với một hình ảnh mới lạ về đoàn người nghèo đói vùng lên dưới lá cờ đỏ đang phấp phới tung bay.

3. Số phận.

Tràng tiêu biểu cho số phận của người dân nghèo trước cách mạng tháng Tám. Khi thì nghèo đến nỗi không lấy nổi vợ như con trai lão Hạc, phẫn chí mà bỏ đi làm mộ phu. Còn như Tràng, trong nạn đói lại nhặt được vợ nhưng niềm hạnh phúc đan xen với lo âu, sự sống lại cần kề với cái chết. Cuộc đời của những người như Tràng nếu không có một sự thay đổi mang tính đột biến của cả xã hội sẽ sống mãi trong sự tăm tối, đói khát. Ở Tràng, tuy chưa có được sự thay đổi đó, nhưng cuộc sống đã hé mở cho anh một hướng đi. Đó là con đường đến với cách mạng tự nhiên và tất yếu mà những người như Tràng sẽ đi. Họ sẽ đến với chân trời tự do làm chủ cuộc đời và nắm giữ được hạnh phúc.

4. Nghệ thuật xây dựng nhân vật của nhà văn.

Kim Lân đã khắc hoạ nhân vật Tràng với đầy đủ diện mạo, ngôn ngữ, hành động, đặc biệt là diễn biến tâm trạng của Tràng bằng ngòi bút sắc sảo. Anh chàng phu xe cục mịch nhưng có một đời sống tâm lý sống động, khi hãnh diện cái mặt vênh vênh tự đắc với mình bởi vừa mới nhặt được vợ, lúc lật đật chạy theo người đàn bà, như người xấu hổ chạy trốn, hay lúng túng, tay nọ xoa xoa vào vai kia, cũng có khi lòng quên hết những cảnh sống ê chề, tăm tối hằng ngày, chỉ còn tình nghĩa. Anh thô kệch nhưng không sỗ sàng, trái lại biết ngượng nghiụ, biết sợ, nhất là biết lo nghĩ cho cuộc sống về sau.

  • Kết bài:

Có lẽ đọc xong tác phẩm, khi gấp lại trang truyện ta vẫn hình dung cái lưng to bè như lưng gấu, nhưng không phải với bước chân nặng nề của anh cu Tràng như đầu thiên truyện. Sức ám ảnh của nhân vật này chính là khát khao sự sống, khao khát đổi thay. Tràng sẽ hòa vào dòng người theo cách mạng đi tìm ánh sáng cho cuộc đời tăm tối của chính mình. Hình ảnh ấy cứ gieo vào lòng người đọc một niềm tin, niềm vui bất tận.

Phân tích nhân vật bà cụ Tứ

  • Mở bài:

Nói đến văn học là nói đến một phạm trù không giới hạn của nghệ thuật, có khả năng gợi mở mọi chiều kích của các giác quan và trường liên tưởng, thì với tác phẩm Vợ nhặt của Kim Lân ta không chỉ biết đến một anh Tràng thô nhám, cục mịch đến ngượng nghịu, ngẩn ngơ như một đứa trẻ lớn hiền lành, một chị vợ “chao chát, chỏng lỏn” mà “hiền hậu, đúng mực”, ta còn biết đến một nhân vật giữ cho câu chuyện “Vợ nhặt” có chiều sâu, mang lại cho tác phẩm sự mặn mà, đằm thắm. Đó là bà cụ Tứ. Càng đọc, càng ngẫm nghĩ, ta càng cảm nhận sâu sắc tấm lòng của người mẹ nông dân trong cơn đói thảm họa này.

  • Thân bài:

Vai trò của nhân vật bà cụ Tứ trong tác phẩm.

Bà cụ Tứ là một nhân vật phụ xuất hiện ở phần giữa thân truyện “Vợ nhặt”. Nhưng nếu không có nhân vật này, chắc chắn tác phẩm sẽ không còn hấp dẫn, hoặc sẽ hấp dẫn theo một cách khác… Bà cụ Tứ đã giữ cho câu chuyện “Vợ nhặt” có chiều sâu, mang lại cho tác phẩm sự mặn mà, đằm thắm. Viết “Vợ nhặt” với tình huống anh cu Tràng nhặt được vợ, Kim Lân muốn thể hiện số phận bi thảm của người nông dân trước Cách mạng tháng Tám và lòng khao khát tới hạnh phúc của họ. Xây dựng nhân vật bà lão, dường như nhà văn muốn hướng người đọc nhìn việc lấy vợ của Tràng từ một góc độ khác, trong một tâm trạng khác. Nhưng đọc tác phẩm, càng ngẫm nghĩ ta càng cảm nhận sâu sắc hơn tấm lòng người mẹ nông dân nghèo trước cách mạng. Điều này có lẽ nằm ngoài ý đồ sáng tạo ban đầu của tác giả. Sự kì diệu của nghệ thuật chính là ở đó. Lòng kính trọng người mẹ, kính trọng người già và nỗi đau khổ suốt đời đè nặng lên con người đã tạo nên tầm bao quát và sức sống của nhân vật bà cụ Tứ.

Cách giới thiệu nhân vật bà cụ Tứ.

Bà cụ Tứ trước hết là người mẹ nghèo khổ đã già yếu với cái lưng “lòng khòng”,khẽ mắt “lèm nhèm”,”khuôn mặt bủng beo, u ám”. Những hành động cử chỉ của bà “nhấp nháy hai con mắt”,”chậm chạp hỏi”, “lập cập bước đi”, “lật đật:, “lễ mễ”đều toát lên tất cả các nét của bà là một người đã già, không còn khỏe mạnh. Hơn nữa người phụ nữ ấy còn bị đặt trong hoàn cảnh nghèo nàn, đói khổ mà bà nói “cuộc đời cực khổ dài đằng đẵng”.

Chân thật là “điểm đi” và cũng là “điểm đến” của nghệ thuật chân chính. Sức sống của nhân vật cũng do yếu tố này quyết định. Bởi khi sống với nhân vật, ta như được sống với thế giới tâm hồn “thật hơn cả con người thật”. Đến với nhân vật bà cụ Tứ, nhiều lúc ta có cảm giác như bà “hấp háy cặp mắt” bước từ căn nhà rúm ró, tồi tàn của mình mà bước vào trang truyện chứ không hề do dụng công xây dựng của tác giả, một nhân vật không hề có nét nào của việc “tô son đánh phấn”. Vâng, làm sao có thể nghi ngờ được điều đó khi ta chứng kiến những diễn biến tâm lí đầy tinh tế, khi ta lắng nghe những lời nói tưởng dớ dẩn, lẩm cẩm mà xiết bao ân tình của người mẹ nông dân nghèo…

Diễn biến tâm trạng nhân vật bà cụ Tứ – bà mẹ nghèo khổ nhưng nhân hậu vô cùng.

Nếu diễn biến tâm trạng của Tràng và vợ Tràng được nhà văn miêu tả theo một đường thẳng thoáng lo âu buồn tủi rồi đi ngay đến niềm vui bất tận, thì bà cụ Tứ được Kim Lân miêu tả tâm trạng gấp khúc, đan xen nhiều tâm trạng từ quá khứ đến hiện tại và hướng tới tương lai. Bà cụ Tứ được đặt trong hoàn cảnh là con trai mình đột ngột có vợ. Tình huống này khiến bà vừa vui vừa buồn, vừa lo lắng lại vừa hy vọng. Và tinh tế, người đọc sẽ dễ dàng nhận thấy hai mặt trong tâm trạng của bà mẹ nghèo khổ ấy: Bề nổi mẹ luôn nói những chuyện vui, mong ước về tương lai tươi sáng để gieo lên niềm tin cho các con, nhưng bề chìm, chiều sâu của tâm trạng là nỗi lo lắng, tủi hờn và những giọt nước mắt chảy ngược vào trong mẹ đã giữ lại để riêng cho mình. Lòng bao dung và đức hi sinh của bà mẹ ấy cũng giống như bao người mẹ Việt Nam. Nhân vật duy nhất trong thiên truyện này có ý che lấp hiện thực phũ phàng chính là bà cụ Tứ. Nó đau đớn vụng về như chính lúc bà quay đi che dòng nước mắt của mình cho các con khỏi nhìn thấy.

– Khi mới về đến nhà:

Chân thật trong hình ảnh và chân thật trong từng chi tiết, Kim Lân dường như không kể mà dắt ta đến với bà cụ Tứ. Bắt đầu là cái dáng “lọng khọng đi vào ngõ vừa đi vừa lẩm bẩm tính toán gì trong miệng”. Có biết bao nhiêu là thân thương, trìu mến. Phải chăng sau một ngày đi làm thuê kiếm sống chưa đủ mưu sinh, còn bao lo toan cho gánh nặng cơm áo để đầu óc người mẹ ấy không một phút thảnh thơi. Ta gặp lại dáng hình gầy còng vì sương gió cuộc đời của người mẹ nghèo thân thuộc. Từ “lọng khọng” đầy sáng tạo và giàu sức tạo hình, một dáng vẻ gầy guộc, còm cõi, lưng còng, bóng ngả. Cái bóng còng của bà cụ Tứ càng ngả hơn khi xuất hiện trong buổi chiều hôm đầy chạng vạng. Cái xế chiều của một đời người gặp cái xế chiều của một ngày tàn như gợi lên sự chua xót hơn cho những thân phận nghèo khổ trọn vẹn cả kiếp người.

Cái lẩm cẩm, chậm chạp theo nỗi “phấp phỏng” trước sự đón tiếp khác thường của ông “con giai”, bà bước vào trong nhà. Khi thấy một người đàn bà lạ đứng ngay ở đầu giường con mình, bà hết sức ngạc nhiên. Hàng loạt câu hỏi đặt ra trong đầu óc già nua của bà. “Nguời đàn bà nào lại đứng ở đầu giường thằng con mình thế kia? Không phải cái Đục mà. Ai thế nhỉ? Sao lại chào mình bằng u?”. Phải, bà làm sao ngờ được giữa năm đói, nhà lại nghèo mà con bà lại dẫn không về nhà một người vợ! Nỗi băn khoăn bởi trong hoàn cảnh ấy, với anh con trai thô kệch và gia cảnh của mình là hoàn toàn hợp lí. Đúng ra, khi con cái trong nhà đến tuổi dựng vợ gả chồng, người mẹ nào cũng đủ tinh tế để nhận ra và hiểu chuyện khi thấy con dắt một cô bạn gái về. Nhưng chính cái đói, cái nghèo đã làm người mẹ này mất đi khả năng nhạy cảm thiên phú ấy. Bởi hơn ai hết bà hiểu gia cảnh của mình. Con mình nghèo làm sao lấy nổi vợ. Thật chua xót cho những kiếp lầm than, đến cả hạnh phúc nhỏ nhoi, bình thường họ cũng đánh rơi mất.

– Khi đã hiểu ra cơ sự:

Thương mình, rồi thương con trai. Băn khoăn mãi, khi đã hiểu, “bà lão cúi đầu nín lặng”, cái cúi đầu của con người bởi nỗi khổ đeo bám suốt cuộc đời, giờ đến khi gần đất xa trời mà cũng không lo được cho con một mái ấm. Sự xót thương, tủi hờn cho mình, cho con trai và cho cả con dâu. Bà vừa “ai oán vừa xót thương cho số kiếp con mình”. Thương con để rồi tủi phận mình. “Chao ôi, người ta dựng vợ gả chồng cho con là trong lúc nhà ăn nên làm nổi, còn mình thì…”. Đọc những dòng này, ta có cảm giác như trái tim người mẹ trong cái thân hình còm cõi đang rung lên đau đớn, xót xa. “Trong kẽ mắt kèm nhèm của bà rỉ xuống hai dòng nước mắt”, lý trí đã không ngăn nổi tình cảm. Kim Lân như một nhà quay phim tài ba đầy cảm xúc lia ống kính máy quay của mình chớp lấy thần cảnh, thước phim từ cận cảnh làm hiện lên đôi mắt hằn dấu chân chim một đời vất vả của người mẹ già, và trên cái khoé mắt nứt nẻ theo thời gian ấy rạn ra hai dòng nước mắt khô héo.

Thời gian là kẻ khách quan và quá đỗi vô tình, nó đã mang đi tuổi thanh xuân của mẹ cùng bao lo toan, nhọc nhằn, vất vả đã vắt kiệt sức mẹ. Mẹ khó có thể khóc được nữa, bởi “nước mắt người già chảy ngược vào tim”. Khi mẹ khóc tức là mẹ đang đau lắm. Việc trọng đại trong đời con, bà cũng ý thức lẽ ra “làm được dăm ba mâm mới phải”, nhưng “nhà mình nghèo quá”, nên điều đó chỉ nằm trong suy nghĩ, không thực hiện được và bà đau, bà tủi.

Thương và thông cảm cho con dâu. Quên làm sao được cử chỉ ân cần mà xiết bao thương mến của mẹ với con dâu, ta tưởng như có cái vẫy tay đầy thân thương sau câu nói này: “con ngồi xuống đây. Ngồi xuống đây cho đỡ mỏi chân”. Quan hệ mẹ chồng nàng dâu trong mỗi gia đình không mấy khi được hòa hợp, huống chi đây lại là cô con dâu không được hỏi cưới đàng hoàng. Cứ ngỡ tưởng bà mẹ ấy sẽ coi thường, hắt hủi người dâu nhặt. Nhưng chúng ta đã thật sự ngỡ ngàng trước những lời nói, cử chỉ ôn tồn của bà mẹ nghèo này. Còn đâu là ranh giới giữa mẹ chồng – nàng dâu? Hay tình yêu thương đã xoá nhoà đi tất cả. Tình yêu ấy dâng lên nghẹn ngào khi bà cụ Tứ nói trong nước mắt: “kể có ra làm được dăm ba mâm thì phải đấy, nhưng nhà mình nghèo… lấy nhau lúc này u thương quá….”. “Lúc này” ở đây chính là thời điểm năm 1945 – cái mốc in dấu một nạn đói khủng khiếp đã đi vào lịch sử: “hơn 2 triệu đồng bào ta chết đói”(Tuyên ngôn độc lập), câu nói ấy vẫn còn vang lên như một chứng tích tội ác của giặc, không khí quê hương “vẩn lên một mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người”, “dưới những gốc đa, gốc gạo xù xì, bóng những người đói dật dờ đi lại như những bóng ma”. Ấy vậy mà, “như bèo gặp nước”, vợ chồng Tràng đã đến với nhau đánh cược cùng cuộc đời, cùng cái đói, cái chết. Thử hỏi sao lòng người mẹ không đau. Bà chỉ biết khuyên vợ chồng Tràng thương yêu nhau, ăn ở hoà thuận để cùng vượt qua cơn bĩ cực này. Đó là nỗi cảm thông của người mẹ từng trải, hiểu đời có tấm lòng yêu con sâu thẳm…

Bà cụ thương con, tủi phận rồi lại thương dâu. “Người ta có gặp bước khó khăn đói khổ này, người ta mới lấy đến con mình. Mà con mình mới có vợ được…” bằng sự cảm thông sâu sắc. Bà hiểu ra căn nguyên, ngọn nguồn của mọi vấn đề chính là cái đói. Nó hủy hoại con người bằng cách cướp đi mạng sống nhưng đồng thời trước sự hủy diệt ghê gớm của nó đã tạo ra một sợi dây vô hình gắn kết mọi người lại với nhau để sống và sống thật ý nghĩa: Tràng có hạnh phúc gia đình, thị có chỗ bấu víu để hi vọng có sự sống dù là mong manh, bà cụ Tứ có con dâu mới. Tất cả đang mở ra một tương lai phía trước dù tương lai ấy đang mờ mịt, bế tắc bởi sự đe dọa bởi cái chết luôn rình rập.

Lo lắng cho cuộc sống và tương lai của các con. Vừa mừng tủi, vừa lo lắng, bà lo nỗi lo rất chính đáng của con người đã trải một đời cực nhọc, đớn đau: “Biết rằng chúng nó có nuôi nổi nhau sống qua được cơn đói khát này không?”. Nếu qua được cái tao đoạn này thì thằng con bà cũng có vợ, nó yên bề nó. Và bà cũng nghĩ đến trường hợp xấu nhất nếu xảy ra là ông trời bắt chết thì cũng phải chịu chứ biết thế nào mà lo hết cho được. Không hiểu trong đầu của bà mẹ nghèo kia đã trải qua bao suy nghĩ trong những mảng sáng tối để rồi dừng lại ở một suy nghĩ bị đeo đẳng bởi hiện thực khắc nghiệt. Cái đói, cái chết không phải lởn vởn mà nó luôn hiện hữu ở mọi ngõ ngách trong suy nghĩ của con người. Bởi nỗi lo trong lòng, bà cụ động viên con tin tưởng vào tương lai. “Vợ chồng chúng mày liệu mà bảo nhau làm ăn. Rồi may ra ông giời cho khá… Biết thế nào hở con, ai giàu ba họ, ai khó ba đời?…“.

Nhưng không phải ngẫu nhiên Kim Lân lại để ngay khi nghĩ về viễn cảnh tương lai tươi sáng lại là ánh mắt đăm đăm của bà khi nhìn ra ngoài để bao trùm lấy hai con mắt là cánh đồng mênh mông bóng tối. Là mùi đống rấm khét lẹt của những nhà có người chết thoảng vào. Lại là gánh nặng của hiện thực không thể phủ nhận và chạy trốn. Không lẫn đi đâu được cách nói, cách nghĩ vừa lẩn thẩn, vừa hồn hậu của người mẹ già nông thôn. Tác giả vừa hóa thân vào nhân vật để phân tích diễn biến tâm lí vừa khách quan ghi lại. Đặt nhân vật trong hoàn cảnh không gian, thời gian nhất định, Kim Lân đã diễn tả sâu sắc tâm trạng nhân vật. Bà cụ Tứ ngửi “mùi đốt đống rấm ở những nhà có người chết thoảng vào khét lẹt”“nghĩ đến ông lão, nghĩ đến đứa con gái út”, đến “cuộc đời cực khổ dằng dặc” của mình để rồi phấp phỏng lo lắng cho tương lai của con: “Liệu chúng nó có hơn bố mẹ chúng nó trước kia không?”. Nghệ thuật “biện chứng tâm hồn” đã thể hiện nhuần nhị trong từng biến thái tinh tế, phong phú của tâm lí người mẹ nghèo. Tác giả phải có sự thấu hiểu, trân trọng đặc biệt, phải có vốn sống phong phú đến mức nào mới có thể diễn tả một cách chân thực, tài tình đến vậy. “Vợ nhặt” không còn là trang văn, đó là những trang đời – những trang đời thấm đẫm những giọt nước mắt tụi cực, xót xa, phấp phỏng nỗi lo cho tương lai và rạng rỡ lạc quan thắp lên trong trái tim người mẹ nghèo. Chân thực mà cũng thật cảm động, hình ảnh bà cụ Tứ không chỉ giúp ta chứng kiến diễn biến tinh tế của tâm lí mà còn rung cảm sâu sắc trước tâm tình tha thiết của người mẹ,

Bà nói với con dâu bằng lời của một người từng trải – vừa lo lắng, vừa thương xót: “… Năm nay thì đói to đấy. Chúng mày lấy nhau lúc này, u thương quá…”. “Bà cụ nghẹn lời không nói được nữa…”. Nhưng ta hiểu, người con dâu bà lúc này sẽ rất hiểu bà, thấy thân thiết gắn bó với bà, thực sự coi bà là mẹ. Và nghĩa là “đám cưới” đã xong. Chẳng lễ nghi, không đưa đón, tấm lòng chân thật, nhân hậu của người mẹ nghèo đã thay thế tất cả. Đến đây, ta cứ liên tưởng tới mẹ chồng Dần trong “Một đám cưới” (Nam Cao). Người me ấy mở “tài ăn nói”, nói rất nhiều, rất “ngọt ngào”để khỏa lấp cái sự “không có nhiều tiền”, làm “mát lòng mát ruột” cha Dần. Chao ôi, những người mẹ nông dân nghèo trước cách mạng là thế ư? Tình yêu thương con, ý thức trách nhiệm của người làm mẹ khiến họ cưới vợ cho con bằng tất cả những khả năng mình có thể, dẫu chỉ là lời nói… Nhưng nếu mẹ chồng Dần nói rất nhiều thì bà cụ Tứ lúc này lại nói rất ít. Bà khóc. “Nước mắt cứ chảy xuống ròng ròng”. Những giọt nước mắt đã nói lên tất cả tấm lòng chân thật.

Đọc truyện, có lẽ không ai quên được cái cách giấu giếm đầy ngượng ngập, vụng về những dòng nước mắt xót thương con của bà lão: “Có đèn đấy à? Ừ thắp lên một tí cho sáng sủa… Dầu bây giờ đắt gớm lên mày ạ…”. Bà đã cố nén sự xúc động của mình, đã cố nuốt những giọt nước mắt chát đắng xót xa vào trong trái tim vốn đã chát đắng của một đời tủi cực. Và khi ấy, trước đôi mắt nhòa lệ của người đọc, dòng “nước mắt cứ chảy ròng ròng” sau lời bộc bạch tâm tình với con dâu của bà lão lại hiện lên rõ nét hơn bao giờ hết.

  • Kết bài:

Không phải ngẫu nhiên mà trong ba nhân vật, Kim Lân lại để một bà cụ gần đất xa trời nói về tương lai, nhưng điều tốt đẹp, sau đó còn ẩn chứa thông điệp: Dù thế nào cũng phải giữ lấy niềm tin và hi vọng. Đồng thời cũng là sự ngợi ca của tác giả trước sức sống khỏe khoắn, mãnh liệt của tâm hồn Việt. Người mẹ nghèo nhưng tính cách bao dung, nhân từ đã gieo mầm sự sống, hạnh phúc lứa đôi. Có thể coi bà cụ Tứ là điểm kết tinh của tác phẩm, thể hiện giá trị nhân đạo sâu sắc.

Bằng nghệ thuật phân tích tâm lí nhân vật bậc thầy, Kim Lân đã lách sâu ngòi bút của mình để thấy được vẻ đẹp tâm hồn, tấm lòng bao dung nhân hậu của bà cụ Tứ với đôi vợ chồng trẻ. Bà cụ Tứ chính là hình ảnh đẹp đẽ nhất, đại diện tiêu biểu cho hàng triệu bà mẹ Việt Nam. Đồng thời qua nhân vật này cũng thể hiện giá trị nhân đạo sâu sắc của Kim Lân.

Xem thêm:

Phân tích truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân

Hãy bình luận đầu tiên

Để lại một phản hồi

Thư điện tử của bạn sẽ không được hiện thị công khai.