“Đất Nước của nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại” trong đoạn trích Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm
- Mở bài:
Tổ quốc là một đề tài phong phú của thơ ca Việt Nam. Trước Nguyễn Khoa Điềm đã có nhiều bài thơ hay, nhiều tác giả thành công về đề tài này. Đất nước anh hùng trong kháng chiến chống Pháp, mang hồn thu Hà Nội của Nguyễn Đình Thi. Đất nước cổ kính, dân gian, mang hồn quê Kinh Bắc của Hoàng Cầm. Đất nước hóa thân cho một dòng sông xanh, đầy ắp kỉ niệm trong thơ Tế Hanh. Đất nước hài hòa trong dáng hình quê hương và tình yêu đôi lứa trong thơ Giang Nam. Nhưng, Nguyễn Khoa Điềm đã tìm được một cách nói riêng để chương thơ mới của ông đã mang lại cho bạn đọc những rung cảm thẫm mĩ mới về đất nước: “Đất nước của nhân dân”‘ “Đất nước của ca dao thần thoại”.
- Thân bài:
Tư tưởng “Đất Nước của Nhân dân” được thể hiện trên ba chiều cảm nhận. Đất nước được nhìn từ không gian địa lí. Nhân dân làm nên tên núi, tên sông, tên địa phương, danh lam thắng cảnh của Đất Nước. Tác giả nhìn thiên nhiên, danh lam thắng cảnh qua tâm hồn, số phận, ước vọng nhân dân. Nhân dân trao cho núi sông tình yêu, nỗi đau của mình nên mới có núi Vọng Phu, hòn Trống Mái…:
“Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu
Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái”
Những anh hùng hào kiệt vì đất nước mà hi sinh, làm nên những thần thoại oai hùng, lẫm liệt còn vang vọng cho đến ngày nay:
“Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại
Chín mươi chín con voi góp mình dựng Đất tổ Hùng Vương”
Những con người bình thường lấy học thức làm nên vẻ đẹp của đất nước muôn đời:
“Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm
Người học trò nghèo giúp cho Đất Nước mình núi Bút, non Nghiên.”
Nhân dân vô danh đã hóa thân vào mỗi tấc đất của quê hương để có Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm…:
“Con cóc, con gà quê hương cùng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh
Những người dân nào đã góp tên Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm …”
Cuộc đời nhân dân tạc vào núi sông, thành cốt cách, lối sống dân tộc:
“Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi
Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha
Ôi Đất Nước sau bốn ngàn năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hoá núi sông ta… “
Đất nước hiện hình từ trong thời gian lịch sử. Nhân dân làm nên truyền thống anh hùng vẻ vang trong 4000 năm giữ nước. Khi nghĩ về lịch sử Đất Nước, tác giả không nhắc đến các triều đại, các anh hùng có tên tuổi mà nhấn mạnh đến những con người vô danh, bình dị là nhân dân: họ cần cù lao động xây dựng Đất Nước trong thời bình và sẵn sàng ra trận, hy sinh bảo vệ Đất Nước trong thời chiến, hóa thân vào Đất Nước muôn đời. Cảm xúc tự hào, cảm phục:
“Em ơi em
Hãy nhìn rất xa
Vào bốn ngàn năm Đất Nước
Năm tháng nào cũng người người lớp lớp
Con gái, con trai bằng tuổi chúng ta
Cần cù làm lụng
Khi có giặc người con trai ra trận
Người con gái trở về nuôi cái cùng con
Ngày giặc đến nhà thì đàn bà cũng đánh
Nhiều người đã trở thành anh hùng.”
Một dân tộc anh hùng đã dệt nên những trang sử anh hùng. Lịch sử anh hùng ấy không chỉ ở chiến công chống giặc ngoại xâm mà còn ở sự nghiệp chinh phục tự nhiên, mở mang đất nước. Mỗi tất đất chứa đựng những sinh mệnh con người qua lớp lớp thời gian:
“Có biết bao người con gái, con trai
Trong bốn ngàn lớp người giống ta lứa tuổi
Họ đã sống và chết
Giản dị và bình tâm
Không ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ đã làm ra Đất Nước.”
Đất nuốc tồn tại trong bản sắc văn hóa của dân tộc từ xưa đến nay. Nhân dân tạo ra nếp sống, nếp nghĩ, bản sắc văn hóa của dân tộc:
“Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng
Họ truyền lửa cho mỗi nhà từ hòn than qua con cúi
Họ truyền giọng điệu mình cho con tập nói
Họ gánh theo tên xã, tên làng trong mỗi chuyến di dân
Họ đắp đập be bờ cho người sau trông cây hái trái.”
Khi đất nước lâm nguy, họ trở thành người lính đánh giặc quyết tâm gìn giữ đất mẹ thiêng liêng. Tình yêu đất nước trở thành nguồn sức mạnh phi thường, quét sạch mọi kẻ thù hung bạo:
“Có ngoại xâm thì chống ngoại xâm
Có nội thù thì vùng lên đánh bại “
Tác giả nhấn mạnh vai trò quan trọng của nhân dân trong quá trình hình thành và phát triến của Đất Nước. Nhân dân đã sáng tạo, gìn giữ, truyền lại cho thế hệ sau mọi giá trị vật chất và tinh thần. Từ những phát hiện đó nhà thơ đi đến một định nghĩa độc đáo:
“Để Đất Nước này là Đất Nước Nhân dân
Đất Nước của Nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại “
Trong muôn vàn vẻ đẹp của dân tộc, tác giả đã chọn ba nét nổi bật ấn tượng nhất được thể hiện trong ca dao để nói lên giá trị tinh thần của nhân dân. Nhân dân ta rất say đắm, thủy chung trong tình yêu “yêu em từ thuở nằm nôi..”. Nhân dân ta hết sức quý trọng tình nghĩa “Biết quý công cầm vàng những ngày lặn lội”. Nhân dân ta vô cùng quyết liệt trong căm thù và chiến đấu, bền bỉ kiên cường không khuất phục trong đấu tranh chống giặc ngoại xâm:
“Biết trồng tre đợi ngày thành gậy
Đi trả thù mà không sợ dài lâu”
Tác giả cảm nhận, phát hiện về vẻ đẹp của thiên nhiên đất nước không chỉ là sản phẩm của tạo hóa mà còn là biểu tượng cho số phận, tính cách, tâm hồn con người (sự kết hợp Đất Nước – Nhân dân.
Tác giả đã khám phá vẻ đẹp tâm hồn, tính cách con người Việt Nam: Yêu thương sâu sắc, thủy chung tình nghĩa, cần cù lao động, anh hùng bất khuất, sống và hi sinh bình dị vì Đất Nước. Từ những khái quát giản dị nhưng đầy tính nhân văn, tác giả khẳng định: “Để Đất Nước này là Đất Nước Nhân dân”. Đó là một phát hiện mới mẻ của Nguyễn Khoa Điềm, đóng góp quan trọng trong nhiệm vụ khẳng định tình yêu đất nước và cổ vũ tinh thần chiến đấu bảo vệ đất nước của nhân dân ta.
- Kết bài:
Đất Nước là đoạn thơ trữ tình chính luận, kết hợp được cảm xúc với suy ngẫm. Đoạn thơ cho thấy sự hình thành và phát triển của đất nước luôn gắn liền với đời sống sinh hoạt của nhân dân. Việc vận dụng văn hóa dân gian trong đoạn thơ không chỉ lâ một thủ phấp nghệ thuật mà là sự thấm sâu quan niệm “Đất Nước của Nhân dân” vào cảm hứng sáng tạo của nhà thơ.
- Cảm nhận ý nghĩa đoạn thơ: “Khi ta lớn lên đất nước đã có rồi…” (Đất nước – Nguyễn Khoa Điềm)
- Phân tích số phận bất hạnh, khổ đau và sức mạnh phản kháng của nhân vật Mị trong truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ”
- Suy nghĩ về vài trò và trách nhiệm của thanh niên đối với đất nước qua lời căn dặn của Bác: “Một năm khởi đầu từ mùa xuân, một đời khởi đầu từ tuổi trẻ. Tuổi trẻ là mùa xuân của xã hội.”
Bài tham khảo:
- Mở bài:
Hiếm có một giai đoạn văn học nào mà hình ảnh Tổ quốc – Dân tộc – Đất nước lại tập trung cao độ như giai đoạn kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Tố Hữu với “Ôi Việt Nam! Yêu suốt một đời/ Nay mới được ôm Người trọn vẹn, Người ơi!” (Vui thế hôm nay), Chế Lan Viên với “Sao chiến thắng”, Lê Anh Xuân từ hình tượng anh giải phóng quân đã tạo nên “Dáng đứng Việt Nam”. Và Nguyễn Khoa Điềm gắn liền với Tổ quốc qua “Đất Nước” – một chương thơ trong trường ca “Mặt đường khát vọng”. Chương thơ đã thể hiện một cách sâu sắc vẻ đẹp của Đất Nước và tư tưởng lớn của thời đại “Đất nước của nhân dân”. Tư tưởng ấy được thể hiện đậm nét qua đoạn thơ sau:
“Để Đất Nước này là Đất Nước của nhân dân
(………………………)
Gợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi…”
- Thân bài:
Nguyễn Khoa Điềm thuộc thế hệ nhà thơ trưởng thành trong thời kì chống Mĩ cứu nước; thơ ông giàu chất trí tuệ, suy tư sâu lắng, cảm xúc nồng nàn.“Đất nước” là đoạn thơ trích từ chương V trường ca “Mặt đường khát vọng” được hoàn thành ở chiến trường Bình Trị Thiên năm 1971. Trường ca viết về sự thức tỉnh của tuổi trẻ miền Nam xuống đường tranh đấu hòa hợp với cuộc kháng chiến của dân tộc. Đoạn thơ ta sắp phân tích nằm ở phần hai của chương V. Nội dung bao trùm cả đoạn thơ là tư tưởng “Đất Nước của nhân dân”.
Ngày xưa, người ta thường quan niệm: Đất Nước là của các triều đại, của vua. Trong “Nam quốc sơn hà” – Lý Thường Kiệt cũng nói “Nam quốc sơn hà Nam đế cư”. Trong “Bình Ngô đại cáo” – Nguyễn Trãi Viết “Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời xây nền độc lập”. Ngày nay trong thời đại Hồ Chí Minh, khi người ta nhìn thấy sức mạnh của nhân dân, sự đóng góp máu xương của nhân dân đã làm nên Đất Nước cho nên Đất Nước phải thuộc về nhân dân và của nhân dân.
Đoạn thơ mở đầu bằng một lời khẳng định, lời khẳng định ấy là cảm hứng chung cho cả đoạn thơ:
“Để Đất Nước này là Đất Nước của nhân dân
Đất nước của nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại”
Nhà thơ khẳng định chắc nịch “Đất Nước này là Đất Nước của nhân dân”, lời khẳng định ấy đã thể hiện một cách chân thành, mãnh liệt tình cảm của nhà thơ đối với dân tộc. Hơn ai hết, nhà thơ hiểu rằng, để có được Đất Nước trường tồn, vĩnh cửu thì nhân dân hơn ai hết là những người đã đổ máu xương, đổ công sức của mình để làm nên hình hài đất nước. Vì thế Đất Nước không của riêng ai mà là của chung, của nhân dân và mãi mãi thuộc về nhân dân.
Ở câu thơ thứ hai, nhà thơ lại một lần nữa khẳng định “Đất nước của nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại”. Điệp ngữ chuyển tiếp “Đất nước của nhân dân”được lặp lại như thêm một lần nữa nhấn mạnh về cái sứ mệnh thiêng liêng của nhân dân đối với Đất Nước. Vế thứ hai, nhà thơ nhấn mạnh “Đất Nước của ca dao thần thoại”. Nhắc đến ca dao thần thoại ta lại càng nhớ đến nhân dân, vì hơn ai hết, Nhân dân lại là người tạo ra văn hóa, tạo ra ca dao thần thoại. Mà đất nước của “ca dao thần thoại” nghĩa là Đất Nước tươi đẹp vô ngần như vầng trăng cổ tích, ngọt ngào như ca dao, như nguồn sữa mẹ nuôi ta lớn nên người.
Không phải ngẫu nhiên tác giả nhắc tới hai thể loại tiêu biểu nhất của văn học dân gian. “Thần thoại” thể hiện cuộc sống qua trí tưởng tượng bay bổng của nhân dân. Còn “ca dao” bộc lộ thế giới tâm hồn của nhân dân với tình yêu thương, với sự lãng mạn cùng với tinh thần lạc quan. Đó là những tác phẩm do nhân dân sáng tạo, lưu truyền và có khả năng phản chiếu tâm hồn, bản sắc dân tộc một cách đậm nét nhất.
Và khi nói đến “Đất nước của Nhân dân”, một cách tự nhiên, tác giả trở về với cội nguồn phong phú đẹp đẽ của văn hóa, văn học dân gian mà tiêu biểu là trong ca dao. Vẻ đẹp tinh thần của nhân dân, hơn đâu hết, có thể tìm thấy ở đó trong ca dao, dân ca, truyện cổ tích. Ở đây tác giả chỉ chọn lọc ba câu để nói về ba phương diện quan trọng nhất của truyền thống nhân dân, dân tộc:
“Dạy anh biết yêu em từ thở trong nôi
Biết quý công cầm vàng những ngày lặn lội
Biết trồng tre đợi ngày thành gậy
Đi trả thù mà không sợ dài lâu.”
Chức năng của ca dao, nói như Nguyễn Khoa Điềm là “dạy”. Chức năng ấy cùng với ý nghĩa của nó được thể hiện qua ba phương diện. Phương diện thứ nhất, Nguyễn Khoa Điềm nhấn mạnh về tình cảm thủy chung trong tình yêu của con người Việt Nam. Từ ý thơ trong ca dao “Yêu em từ thuở trong nôi/ Em nằm em khóc, anh ngồi anh ru”. Nhà thơ đã viết nên lời chân tình của chàng trai đang yêu “Dạy anh biết yêu em từ thuở trong nôi”. Tình yêu của chàng trai ấy không phải là ngọn gió thoáng qua, không phải là lời của bướm ong mà là lời nói là nghĩ suy chân thật.
Ý thơ đã khẳng định được một tình yêu thủy chung bền vững không gì có thể đếm đong được. Nhân dân dạy ta biết yêu thương lãng mạn, đắm say thủy chung với những câu ca dao ấy. Đây là phát hiện mới của Nguyễn Khoa Điềm. Bởi lẽ từ xưa đến nay nói đến nhân dân người ta thường nghĩ đến những phẩm chất cần cù chịu khó, bất khuất kiên thuở ấu thơ cho đến lúc trưởng thành.
Ở phương diện thứ hai, Nhân dân gìn giữ và truyền lại cho ta quan niệm sống đẹp đẽ, sâu sắc, ca dao đã “dạy anh biết” – Sống trên đời cần quý trọng tình nghĩa, phải “Biết quý công cầm vàng những ngày lặn lội”. Câu thơ ấy lấy ý từ ca dao “Cầm vàng mà lội qua sông/Vàng rơi không tiếc tiếc công cầm vàng”. Nhân dân đã dạy ta rằng: ở đời này còn có thứ quý hơn vàng bạc, châu báu ngọc ngà… Đó là tình nghĩa giữa con người với con người. Bởi vậy, nghĩa với tình còn nặng hơn nhiều lần giá trị vật chất.
Ở phương diện thứ ba, nhân dân đã dạy ta phải biết quyết liệt trong căm thù và chiến đấu “Biết trồng tre đợi ngày thành gậy/ Đi trả thù mà không sợ dài lâu”. Hai câu thơ đã gợi lại biết bao cuộc kháng chiến oanh liệt, trường kì của nhân dân trong biết bao cuộc chiến vệ quốc vĩ đại. Từ thuở lập nước, ông cha ta đã luôn phải đương đầu với nạn ngoại xâm. Cuộc chiến đấu giành độc lập tự do nào cũng kéo dài hàng chục năm, thậm chí hàng trăm năm. Sau cả nghìn năm Bắc thuộc nhân dân vẫn đứng lên giành chủ quyền, rồi đến 100 năm đô hộ giặc Tây… thử hỏi nếu không có sự kiên trì bền bỉ và khát vọng tự do mãnh liệt, dân tộc bé nhỏ này làm sao có thể vượt qua bao nhiêu khó khăn gian khổ, mất mát hi sinh để đến ngày toàn thắng.
Bốn câu thơ cuối: Hình ảnh người chèo đò, kéo thuyền vượt thác cất cao tiếng hát là một biểu tượng nói lên sức mạnh Nhân dân chiến thắng mọi thử thách, lạc quan tin tưởng đưa Đất Nước đi tới một ngày mai vô cùng tươi sáng:
“Ôi những dòng sông bắt nước từ đâu
Mà khi về Đất Nước mình thì bắt lên câu hát
Người đến hát khi chèo đò, kéo thuyền vượt thác
Gợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi…”
Câu thơ gợi cho ta hình ảnh của những dòng sông, những dòng sông không biết đến từ bến bờ nào nhưng khi hòa vào đất Việt lại vang lên biết bao câu hát điệu hò. Câu thơ của Nguyễn Khoa Điềm làm ta nhớ đến những điệu hò hùng tráng trên sông Mã, điệu ca Huế ngọt ngào trên sông Hương và điệu hò kéo lưới mạnh mẽ ở miền Trung, hay đờn ca tài tử tha thiết trên sông Tiền, sông Hậu ở miền Nam. Và “dòng sông” ấy vừa có ý nghĩa là dòng sông của quê hương đất nước nhưng vừa có ý nghĩa là dòng sông Văn Hóa, dòng sông Lịch sử. Dân tộc ta có 54 dân tộc anh em, là 54 dòng chảy văn hóa đa dạng “trăm màu, trăm dáng”. Và đó chính là sự đa dạng và phong phú của văn hóa Việt Nam đã vun đắp phù sa qua bao năm tháng thăng trầm để làm nên một đất nước đậm đà bản sắc dân tộc.
- Kết bài:
Đoạn thơ đã để lại âm hưởng ca dao, dân ca đặc sắc nhưng không lấy lại nguyên văn mà sáng tạo làm nên một ý thơ riêng mềm mại, tài hoa và giàu tính triết lý. Điệp ngữ “Đất Nước” được nhắc lại nhiều lần cùng với việc nhà thơ luôn viết hoa hai từ “Đất Nước” tạo nên một tình cảm thiêng liêng xiết bao tự hào về non sông gấm vóc Việt Nam:
“Ôi Tổ Quốc ta yêu như máu thịt
Như mẹ cha ta như vợ như chồng
Ôi Tổ Quốc nếu cần ta chết
Cho mỗi ngôi nhà ngọn núi dòng sông”
(Tố Hữu)