doc-hieu-van-ban-vo-chong-a-phu-to-hoai

Đọc hiểu văn bản “Vợ chồng A Phủ” (Tô Hoài)

Đọc – hiểu văn bản:

“Vợ chồng A Phủ”
(trích Truyện Tây Bắc – Tô Hoài)

I. Tìm hiểu chung.

1. Tác giả: Tô Hoài.

– Tô Hoài là một trong những nhà văn lớn của nền văn học Việt Nam hiện đại. Nhắc đến ông, người đọc thường nhớ đến ba mảng sáng tác, ba con người nhà văn trong một con người đã làm nên tên tuổi của Tô Hoài : Tô Hoài của Hà Nội, Tô Hoài của vùng cao Tây Bắc và Tô Hoài của truyện loài vật.

– Tô Hoài là một trong số ít các nhà văn có sức viết “vạm vỡ”. Nói như nhà thơ Vũ Quần Phương : “sách thì 150 cuốn, báo thì hàng ngàn bài với nhiều bút danh. Ở tuổi “cổ lai hi” mà chỉ ba tháng là ông xong một tiểu thuyết. Lúc trẻ, theo ông nói, “chỉ một đêm là tớ khoắng xong cái truyện ngắn mà cụ Vũ Ngọc Phan trả nhuận bút bằng cả tháng lương đứng bán giày ba ta”.

– Tô Hoài là nhà văn có vốn hiểu biết phong phú, sâu sắc về phong tục, tập quán của nhiều vùng khác nhau trên đất nước ta và thế giới. Ông có quan niệm “nghệ thuật vị nhân sinh” độc đáo và có phần quyết liệt: “Viết văn là quá trình đấu tranh để nói ra sự thật. Đã là sự thật thì không thể tầm thường, cho dù phải đập vỡ những thần tượng trong lòng người đọc”.

– Văn Tô Hoài luôn hấp dẫn người đọc bởi lối trần thuật hóm hỉnh, sinh động trên cơ sở vốn từ vựng giàu có. Tuy ngôn ngữ văn Tô Hoài phần lớn là bình dân như đã có lần nhà văn tự nhận là “theo chủ nghĩa tiếng nói” nhưng nhờ tài năng của một người cầm bút mà các yếu tố ngôn ngữ ấy trở nên đầy “ma lực” và có sức quyến rũ người đọc.

* Tác phẩm chính: Trước cách mạng nổi tiếng với “Dế mèn phiªu lưu ký”(1941). Ngoài ra còn có một số tác phẩm khác (sgk). Sau cách mạng: Truyện Tây Bắc (1953) (Cứu đất cứu Mường, Mường Giơn, và Vợ chồng A Phủ) trong đó có tác phẩm “Vợ chồng A Phủ”. Ngoài ra còn có một số tác phẩm khác (sgk).

2. Tác phẩm: “Vợ chồng A Phủ” .

– Hoàn cảnh sáng tác: “Vợ chồng A Phủ” trích trong tập “Truyện Tây Bắc” (gồm có các truyện: Cứu đất cứu mường, M­ường Giơn Giải Phóng, Vợ chồng A Phủ).

+ Tác phẩm là kết quả của chuyến nhà văn đi cùng bộ đội vào giải phóng Tây Bắc năm 1952. Tô Hoài cho biết : “Truyện Vợ chồng A Phủ tôi viết quãng những năm 1952, 1953 […]. Thời kì ấy, tôi cùng bộ đội và nhân dân bước vào chiến dịch Tây Bắc, giải phóng ba tỉnh Sơn La, Lai Châu và Hoàng Liên Sơn. Bước đường hình thành câu chuyện cùng với nhân vật, tư tưởng cứ thành hình dần dần, đến khi chiến dịch kết thúc thắng lợi thì tôi cũng đã nghĩ xong và viết luôn. Có nghĩa là câu chuyện Vợ chồng A Phủ tôi đã xây dựng được bằng mắt thấy tai nghe và cảm nghĩ về những con người, những sự việc trong cuộc chiến đấu giải phóng quê hương của các dân tộc thiểu số anh em ở biên giới Tây Bắc đất nước.” (Tô Hoài – Cảm nghĩ về truyện “Vợ chồng A Phủ”).

+ Tác phẩm gồm có hai phần, phần đầu viết về cuộc đời của Mị và A Phủ ở Hồng Ngài, phần sau viết về cuộc sống nên vợ nên chồng, tham gia cách mạng của Mị và A Phủ ở Phiềng Sa. Đoạn trích là phần mở đầu của truyện ngắn.

– Thể loại: truyện ngắn.

– Nội dung: Qua cuộc sống cơ cực, tối tăm và sức sống tiềm tàng của nhân vật Mị khi ở nhà thống lí Pá Tra, tác phẩn phản ánh số phận đen tối của người dân miền núi, tinh thần khao khát tự do của họ.

– Bố cục 3 phần

+ Phần 1 (từ đầu đến …bao giờ chết thì thôi) : Tâm trạng và hoàn cảnh sống của Mị.

+ Phần 2 (tiếp theo đến …đánh nhau ở Hồng Ngài) : Hoàn cảnh của A Phủ.

+ Phần 3 (còn lại) : Cuộc tự giải thoát của Mị và A Phủ.

– Cảm hứng chủ đạo: Khẳng định, ngợi ca vẻ đẹp tâm hồn và sức sống tiềm tàng, mạnh mẽ, cùng khát vọng tự do, hạnh phúc của người dân miền núi Tây Bắc, bất chấp ách thống trị, đè nén, áp bức tàn bạo của giai cấp thống trị.

* Tóm tắt truyện:

Truyện kể về cuộc đời của đôi trai gái người Mèo là Mị và A Phủ. Mị là một cô gái trẻ, đẹp. Cô bị bắt làm vợ A Sử – con trai thống lý Pá Tra để trừ một món nợ truyền kiếp của gia đình. Lúc đầu suốt mấy tháng ròng đêm nào Mị cũng khóc, Mị định ăn lá ngón tự tử nhưng vì thương cha nên Mị không thể chết và đành sống tiếp những ngày tủi cực trong nhà thống lí. Mị làm việc quần quật khổ hơn trâu ngựa và lúc nào cũng “lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”. Mùa xuân đến, nghe tiếng sáo gọi bạn tình thiết tha Mị nhớ lại mình còn trẻ và muốn đi chơi nhưng A Sử bắt gặp và trói đứng Mị trong buồng tối

A Phủ là một chàng trai nghèo, mồ côi, khoẻ mạnh, lao động giỏi. Vì đánh lại A Sử nên bị bắt, bị đánh đập, phạt vạ rồi trở thành đầy tớ không công cho nhà thống lí Pá Tra. A Phủ đi chăn bò ngoài bìa rừng một lần bị hổ vồ mất một con bò nên bị thống lí trói đứng góc nhà.

Lúc đầu, nhìn cảnh tượng ấy, Mị thản nhiên nhưng rồi lòng thương người cùng sự đồng cảm trỗi dậy, Mị cắt dây cởi trói cho A Phủ rồi theo A Phủ trốn khỏi Hồng Ngài…

II. Đọc hiểu văn bản.

1. Nhân vật Mị.

a. Cách giới thiệu nhân vật:

– Một cô gái “ngồi quay sợi gai bên tảng đá trước cửa, cạnh tàu ngựa”, dù làm bất cứ việc gì, “cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi” >< khung cảnh đông đúc, tấp nập của gia đình Thống lí Pá Tra.

– Nghệ thuật tạo tình huống đối nghịch, “có vấn đề”, khiến người đọc phải tham gia vào hành trình tìm hiểu những bí ẩn của số phận nhân vật.

b. Số phận của nhân vật Mị.

* Trước khi về làm dâu nhà thống lí Pá Tra:

– Mị sinh ra trong một gia đình nghèo. Cha mẹ Mị vay tiền nhà thống lí để cưới nhau, đến khi cha già, mẹ chết mà vẫn chưa trả hết nợ.

– Mị lớn lên xinh đẹp “trai đến đứng nhẵn cả chân vách đầu buồng Mị“, có tài “Mị thổi sáo giỏi, thổi lá cũng hay như thổi sáo

– Mị rất hiếu thảo, giỏi giang và tự tin “con nay đã biết cuốc nương…. Đừng bán con cho nhà giàu

– Tuy nhiên, vì món nợ truyền kiếp, Mị đã bị thống lí bắt về làm dâu gạt nợ.

* Khi về làm dâu nhà thống lí Pá Tra:

– Bố mẹ lấy nhau không có tiền cưới phải mượn của Thống lí Pá Tra → về già cũng chưa trả được nợ → món nợ truyền kiếp. Mị đã đề nghị cha để cô đi làm nương để trả nợ, van xin cha “đừng bán con cho nhà giàu”, nhưng điều đó đã không thành.

– Mị bị bắt về làm dâu gạt nợ nhà thống lí Pá Tra. Con dâu gạt nợ: bề ngoài là con dâu nhưng thực chất bên trong là con nợ.

– Điều cực nhục và đau khổ nhất của Mị là nếu con nợ thông thường, dù khốn khổ đến mấy vẫn còn hi vọng một ngày nào đó thoát khỏi thân phận con nợ khi đã thanh toán đầy đủ cho chủ nợ. …Oái ăm ở chỗ, Mị là con nợ nhưng cũng là con dâu. Là con dâu, linh hồn Mị đã bị đem “trình ma” nhà thống lí rồi. Mị không thể chạy đâu cho thoát. Mị sẽ phải kéo lê cái thân phận khốn khổ của mình cho đến tàn đời.cái nguy cơ biến thành con nợ chung thân, Mị đã linh cảm từ trước.

– Mị bị đối xử như một nô lệ: bị bóc lột sức lao động, làm dù mọi việc “Tết xong thì lên núi hái thuốc phiện, giữa năm thì giặt đay, xe đay đến mùa thì đi nương bẻ bắp”, và dù làm viêc gì thì “lúc nào cũng gài một bó đay trong cánh tay để tước thành sợi”; Mị phải làm việc suốt ngày đêm, suốt năm , suốt đời như thế “Con ngựa, con trâu làm còn có lúc, đêm nó được đứng gãi chân đứng nhai cỏ, đàn bà con gái nhà này thì vùi vào việc làm cả đêm cả ngày”.

– Mị sống trong tăm tối, tủi nhục:

+ Cuộc sống khắc khổ đày đọa tâm hồn Mị đến mức chai sạn đi: “Buồn rười rượi, cúi mặt, không nghĩ ngợi nữa ……”.

+ Mị không còn ý thức về quyền làm người của mình nữa: “Lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”.

+ Dần dần, Mị chấp nhận cuộc sống của mình: “Ở lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi”.

+ Mị phó mặc cho hoàn cảnh, và cam chịu, một cuộc sống vô nghĩa:  “Mị tưởng mình như là trâu, như là ngựa”, chỉ “cúi mặt không nghĩ ngợi”, “chỉ nhớ đi, nhớ lại những việc giống nhau”. “Tết xong thì lên núi hái thuốc phiện…cả ngày”

→ Mị trở thành nô lệ bị đày đọa, bị chúng hạ, bị tước hết mọi quyền sống đến mức bị tê liệt về tinh thần chỉ biết thở dài và buông xuôi mặc cho số phận.

* Bình luận:

– Nơi ở (nơi lui ra, lui vào) của Mị là “một căn buồng kín mít chỉ có một cái cửa sổ, một lỗ vuông bằng bàn tay. Lúc nào trông ra cũng chỉ thấy trăng trắng, không biết là sương hay là nắng” . Căn buồng Mị nằm như một nhà tù rùng rợn giam hãm, hủy diệt sức sống, tâm hồn Mị. Chính cái nhà ngục tinh thần này đã biến cô Mị tài hoa, xinh đẹp thành một cái xác biết đi không hơn không kém.

– Mị nhiều lần bị A Sử đánh đập tàn nhẫn: bị trói đứng vào cột nhà không cho đi chơi tết , bị đập vào mặt khi xoa thuốc cho chồng , bị đánh ngã dúi vào bếp lửa. Mị trở nên câm lặng, sống âm thầm cô độc, Mị không nói , “lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”, chỉ biết tìm sự ấm áp bên bếp lửa.

– Mị bị áp chế cả về thể xác lẫn tinh thần. Mị là con dâu nhưng thực chất là con nợ. Con nợ vẫn còn hi vọng một ngày nào đó hết nợ sẽ thoát khỏi nhà thống lí. Còn Mị là con nợ nhưng lại là con dâu. Mị đã bị cúng trình ma nhà thống lí, Mị không có con đường nào khác ngoài việc kéo lê thân phận khốn khổ của mình “đợi ngày rũ xương ở đây thôi”. Thần quyền và cừng quyền buộc Mị phải an phận cho số kiếp. Đó là nỗi thống khổ về tinh thần của đồng bào miền núi.

– Mị bị đày đọa lao động khổ sai ở nhà thông lí, lẽ cố nhiên là rất cực nhục, nhưng một sự cầu lưu vĩnh viễn về tinh thần mới thực sự đáng sợ. Nó sẽ làm cho cô sống mà như chết, hay nói chính xác hơn là buộc cô phải chấp nhận tồn tại với trạng thái gần như đã chết trong lúc đang sống . Có có thể thoát ra khỏi tình thế tuyệt vọng ấy không, khi cô đã mất tri giác về cuộc sống.

→ Có thể nói những hiểu biết và sự đồng cảm của Tô Hoài đối với cuộc sống của đồng bào miền núi đã khiến các trang viết của ông thật chân thực và xúc động. Bằng những chi tiết chọn lọc nhà văn đã giúp người đọc thấu hiểu thân phận khổ đau, tủi nhục của Mị khi làm dâu gạt nợ nhà thống lí Pá Tra. Số phận éo le, đau khổ và tủi nhục: bị tước mất quyền sống, sống cũng như chết, sống vô nghĩa → Mị là điển hình cho thân phận của phụ nữ miền núi trong xã hội thời bấy giờ.

c. Sức sống tiềm tàng mãnh liệt của Mị.

* Khi mới về làm dâu nhà thống lí:

– Mị ý thức được số kiếp làm “con trâu, con ngựa” trong nhà thống lí của mình nên “hàng tháng trời đêm nào Mị cũng khóc“. Đó là những giọt nước mắt đau đớn, tủi hận, khóc thương cho chính bản thân mình.

– Mị trốn về nhà “vĩnh biệt cha” để chết bằng lá ngón. Đây là sự phản kháng thật tiêu cực, nhưng nó là cách chống đối lại thân phận nô lệ, không chấp nhận cuộc đời mà hạnh phúc bị tước đoạt một cách tàn nhẫn của Mị.

– Nhưng vì thương cha Mị bỏ ý định tự tử và quay về nhà Thống Lí. Để rồi “ở lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi” cô không còn nghĩ đến cái chết. Tâm hồn chai sạn, Mị sống câm lặng trong nhà thống lí.

* Khi mùa xuân đến, khát vọng tự do, hạnh phúc trong Mị được khơi dậy mạnh mẽ:

– Khung cảnh ngày Tết “cỏ gianh vàng ửng”, “những chiếc váy hoa đem ra phơi trên mỏm đá xòe như con bướm sặc sỡ”, tiếng “cười ầm” của đám trẻ đợi Tết chơi quay, chơi pao trên sân chơi trước nhà, đặc biệt “Tiếng sáo rủ bạn đi chơi”, lấp ló ở ngoài đầu núi đã làm cho Mị thấy “thiết tha bổi hổi”, Mị ngồi “nhẩm thầm bài hát” của người đang thổi. Có lẽ cuộc sống đang bừng tĩnh trong Mị, lòng ham sống của Mị đang trỗi dậy.

– Tiếng sáo gọi bạn tình đã tác động mãnh liệt đến tâm hồn Mị, như ngọn gió thổi bừng lên ngọn lửa tưởng đã tắt lịm, tạo cho Mị có cái gan để Mị có những suy nghĩ và hành động khác thường.

+ Ngày Tết Mị cũng uống rượu. Mị “lén lấy hũ rượu, cứ uống ực từng bát”. Cách uống rượu của Mị như thế cô đang uống đi bao cay đắng, tủi nhục của phần đời đã qua, uống luôn cả cái khát khao phần đời chưa tới.

+ Ngồi trong nhà thống lí những tiếng sáo gọi bạn ở đầu làng đã đánh thức kí ức thời con gái “Mị thổi sáo giỏi”, “thổi lá cũng hay như thổi sáo. Có biết bao nhiêu người mê, ngày đêm thổi sáo đi theo Mị”.

+ Mị sống dậy với tâm hồn đầy khát khao “thấy phơi phới” trở lại, Mị thấy “vui sướng như những đêm tết ngày trước”. Điều đó đã khiến Mị ý thức về mình “Mị trẻ lắm. Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi” để nhận ra tuổi xuân của mình đang bị vùi dập, cuộc hôn nhân của mình không hạnh phúc “A Sử với Mị không có lòng mà vẫn phải ở với nhau”. Để rồi Mị lại nghĩ đến việc ăn lá ngón cho chết đi “nếu có nắm lá ngón trong tay lúc này, Mị sẽ ăn cho chết ngay, chứ không buồn nhớ lại nữa. Nhớ lại, chỉ thấy nước mắt ứa ra”.

+ Hành động “lấy ống mỡ, xắn một miếng bỏ thêm vào đĩa đèn cho sáng” giàu sức gợi, Mị muốn thắp lên ánh sáng cho căn phòng bấy lâu chỉ là bóng tối hay Mị muốn thắp lên ánh sáng cho cuộc đời tăm tối của mình.

+ Lòng ham sống, khát vọng sống trỗi dậy mạnh mẽ trong Mị. Tiếng sáo “rập rờn” trong đầu đã thôi thúc Mị quyết tâm thực hiện ý định “Mị muốn đi chơi”, “Mị quấn lại tóc, Mị với tay lấy cái váy hoa vắt ở phía trong vách” để chuẩn bị đi chơi.

– Nhưng khát vọng sống vừa hồi sinh của Mị đã bị vùi dập một cách tàn nhẫn. A Sử trói đứng Mị vào cột nhà thật dã man. A Sử chỉ có thể trói được thể xác Mị vào cột nhà, còn tâm hồn Mị “vẫn nghe tiếng sáo đưa Mị đi theo những cuộc chơi, những đám chơi”. Sức mạnh bạo tàn của giai cấp thống trị làm sao có thể trói được tâm hồn Mị, một khi ý thức và khao khát hạnh phúc trỗi dậy? Nhưng âm thanh “Tiếng chân ngựa đạp vào vách” đã kéo Mị trở về với thực tại phũ phàng tay chân đang bị “dây trói siết lại, đau dứt từng mảnh thịt”. Hai âm thanh tiếng sáo và tiếng chân ngựa đạp vào vách đã tạo nên sự đối lập giữa khát vọng tự do mãnh liệt và hiện thực phũ phàng, cay đắng khiến cho nỗi đau số phận ở Mị càng thêm phần dữ dội khi cô nhận ra “… mình không bằng con ngựa”. Suốt đêm bị trói đứng, Mị lúc mê, lúc tỉnh, Mị sống trong sự giằng xẻ giữa khát khao cuộc sống tự do và thực tại nghiệt ngã cho đến khi tỉnh hẳn, Mị nhớ tới câu chuyện người đàn bà ngày trước bị trói đến chết trong nhà thống lí. Mị sợ quá, cựa quậy xem mình còn sống hay chết.

Ngòi bút phân tích tâm lí của nhà văn thật tinh tế sâu sắc. ông len lỏi vào từng mạch vi bên trong nội tâm để miêu tả sự uyển chuyển tinh vi của tâm hồn Mị. Người đọc như đang chứng kiến từng bước sự hồi sinh trong tâm hồn Mị. Diễn biến tâm trạng của Mị cho ta thấy niềm khao khát tự do, hạnh phúc mãnh liệt của người lao động miền núi. Mặc dù bị thực tại bóp nghẹt nhưng niềm khao khát ấy vẫn tiềm tàng mạnh mẽ. để khi có cơ hội lên bùng lên mãnh liệt hơn.

* Đêm mùa đông Mị cứu A Phủ, sức phản kháng mạnh mẽ, quyết liệt:

– A Phủ một thanh niên khỏe mạnh, tài giỏi nhưng không thể lấy nổi vợ vì mồ côi cha mẹ, nhà nghèo, không có ruộng, không có bạc. Vì đánh A Sử bị thương nên bị bắt và bị phạt vạ. A Phủ không có tiền phạt vạ nên phải trợ thành nô lệ trả nợ cho nhà thống lí. A Phủ đi chăn bò, vì mải mê bẫy nhím, để hổ vồ mất một con bò mà bị cha con thống lí trói đứng vào cột đã mấy ngày đêm.

– Ban đầu, nhìn thấy A Phủ bị trói đứng vào cột, Mị “vẫn thản nhiên thổi lửa, hơ tay”, “nếu A Phủ là cái xác chết đứng đấy, cũng thế thôi”. Có lẽ cuộc sống đau khổ làm cho cô Mị tài hoa, xinh đẹp ngày nào đã lãnh đạm, tê liệt cảm xúc, không quan tâm đến những gì xung quanh mình. Vả lại những thân phận nô lệ bị trói đứng cho đến chết trong nhà này dường như không phải mới xảy ra.

– Nhưng đêm hôm sau, khi ánh lửa vừa mới nhen lên, Mị “lé mắt trong sang” nhìn thấy “một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hỏm má đã xám đen lại” Mị nhớ lại tình cảnh mình bị trói đứng một năm về trước, nước mắt chảy xuống miệng, xuống cổ không thể lau đi được. Mị đang xót thương thân mình. Rồi Mị thương người cùng cảnh ngộ “cơ chừng chỉ đến đêm mai là người kia chết, chết đau, chết đói, chết rét… Người kia việc gì phải thế”. Mị nhận rõ bản chất độc ác của Pá Tra “trời ơi, nó bắt trói đứng người ta đến chết… chúng nó thật độc ác”. Mị xúc động, thương mình và thương người cùng cảnh ngộ, đồng cảm với nỗi đau của A Phủ

– Sự phản kháng mãnh liệt, quyết liệt, táo bạo nhất của Mị thể hiện ở hành động cắt dây trói giải thoát cho A Phủ. Mị rón rén bước lại, “rút con dao nhỏ cắt lúa, cắt nút dây mây”, cởi trói cho A Phủ. Rõ ràng, khi lòng thương người lớn hơn lòng thương thân người ta có thể hi sinh bản thân mình. Thế nhưng khi A Phủ đi rồi, bản năng tự vệ đến với Mị “Mị đứng lặng trong bóng tối rồi cũng vụt chạy ra”. Mị đã chạy theo A Phủ với lời giải thích đơn giản “ở đây thì chết mất” “hai người lẳng lặng đỡ nhau lao chạy xuống dốc núi”. Cởi trói cho A Phủ, thực chất là Mị đang cởi bỏ xiềng xích đè lên trên cuộc đời của mình và hành động chạy theo A Phủ là Mị đang chạy theo tiếng gọi của cuộc sống. Tình thương, sự đồng cảm giai cấp và niềm khát khao tự do mãnh liệt… đã thôi thúc Mị có một quyết định táo bạo cắt dây trói cứu A Phủ và tự giải thoát cuộc đời mình.

Diễn biến tâm trạng của Mị khá phức tập nhưng hợp lí. Người đọc được thuyết phục hoàn toàn trước những suy nghĩ và hành động của cô. Sức sống tiềm tàng trong tâm hồn cô đã trỗi dậy mãnh liệt. Hành động cắt đứt dây trói cho A Phủ rồi trốn theo A Phủ để tự cứu mình là hành động tất yếu của những con người luôn bị chế độ thống trị áp bức bất công. Đó cũng chính là vẻ đẹp tâm hồn, sức sống mạnh mẽ, khả năng cách mạng của người lao động Tây Bắc.

2. Nhân vật A Phủ.

a. Số phận A Phủ:

– Lúc còn nhỏ:

+ Vốn là một đứa trẻ mồ côi.

+ Khi làng đói đã đem A Phủ đi đổi lúa.

+ Mười tuổi nhưng gan bướng, không thích ở dưới cánh đồng thấp, A Phủ trèn lưu lạc đến Hồng Ngài.

– Khi lớn lên:

+ A Phủ trở thành một chàng trai khoẻ mạnh “chạy nhanh như ngựa”, “biết đúc lưỡi cày, biết đúc cuốc lại cày giỏi và đi săn bò tót rất bạo”.

+ Nhiều cô gái trong làng mê nhưng A Phủ không lấy được vợ vì A Phủ không có bố mẹ, không có ruộng, không có bạc, nghèo, làm thuê và tục lệ cưới xin ngặt.

→ Số phận bất hạnh, bi thảm, không may mắn.

b. Tính cách A Phủ:

– Cuộc sống núi rừng hoang dã, cảnh làm thuê ở đợ cực nhọc, vất vả đã hun đúc nên cá tính gan góc, mạnh mẽ và táo bạo của A Phủ.

– Hành động đánh A Sử:

+ “Lũ phá đám ta đêm qua đây rồi. A Phủ đâu? A Phủ đánh chết nó đi”. Một người to lớn chạy vụt qua ném con quay rất to vào mặt A Sử. Con quay gỗ ngát lăng vào giữa mặt. Nó vừa kịp bưng tay lên. A Phủ đã xộc tới, nắm cái vòng cổ, kéo dập đầu xuống, xé vai áo, đánh tới tấp” → hàng loạt các dộng từ miêu tả dộng tác nhanh, gấp → cho thấy sức mạnh và tính cách con người A Phủ qua hành động.

– Tính tình đơn giản, không nghĩ đến hậu quả khi đánh A Sự. Khi làm người ở trừ nợ, làm phăng phăng mọi việc thống lí giao. Khi rừng đói, mải lo bẫy nhím, để hổ vồ mất bò, A Phủ điểm nhiên vác nửa con bò hổ ăn dở về, mượn súng thống lí đi bắt hổ để đền bò. Kể cả khi lấy cọc và dây mây, rồi đóng cọc để thống lí trói đứng mình, A Phủ vẫn thản nhiên.

– Trong lúc xử kiện:

+ Bị bắt về nhà thống lí Pá Tra xử lí, bị đánh đập một cách tàn nhẫn: Khi bị đánh: “im như đá”; bị trói:“mắt trừng trừng” → gan góc chịu đựng.

– Về làm công gạt nợ:

+ Trở thành con ở đời đời, kiếp kiếp cho nhà thống lí Pá Tra: “đốt rừng, cày nương….”, “chăn bò” → phải làm việc quần quật không lúc nghỉ ngơi

+ Để hổ ăn mất bò nhưng không hề lo sợ, thản nhiên tin vào cái lý của mình → A Phủ bị trói đứng suốt mấy ngày đêm.

+ Được Mị giải thoát: khuỵ xuống (hợp lý) nhưng đã quật sức vùng lên, chạy.. Chính sức sống tiềm ẩn trong con người, lòng khát khao được sống đã chiến thắng nỗi đau thể xác.

Với góc nhìn từ bên ngoài, nhà văn đã xây dựng thành công hình tượng nhân vật A Phủ: một con người có tính cách gan góc, mạnh mẽ, pha chút ngang tàng, táo bạo mà cũng chất phác, tự tin. Anh cũng là nạn nhân của bọn chúa đất quan lại thống trị tàn bạo, độc ác. Trong anh cũng tiềm ẩn một sức mạnh phản kháng dữ dội → một hình tượng điển hình của người dân miền núi vùng Tây Bắc bị áp bức, bóc lột.

+ Nếu nhà văn nhìn Mị ở góc nhìn từ bên trong, thì đến nhân vật A Phủ nhà lại nhìn từ góc nhìn bên ngoài để thấy tính cách mạng mẽ pha chút ngang tàng ở nhân vật A Phủ. Đây là nét đặc sắc về bút pháp nghệ thuật của tác giả không phải ai cũng làm được

+ Ngoài ra cũng cần kể đến: nghệ thuật miêu tả phong tục tập quán rất đặc sắc; miêu tả thiên nhiên miền núi hùng vĩ, thơ mộng, giàu chất thơ; con người hồn nhiên, ngay thẳng nghệ thuật trần thuật uyển chuyển, linh hoạt (chủ yếu theo trình tự thời gian, đôi lúc đan xen hồi ức một cách tự nhiên, có lúc pha trộn quá khứ với hiện tại ). Đây chính là yếu tố cốt lõi làm nên sự thành công của tác phẩm.

Sở trường quan sát và khả năng nhạy bén trong việc nắm bắt cá tính con người là hai yếu tố đã giúp nhà văn chỉ với mất nét đơn sơ mà tạo dựng thành công một hình tượng đặc sắc. Phản ánh số phận đau thương của A Phủ và Mị, Tô Hoài đã tố cáo tội ác của bọn chúa đất dã man tàn bạo, đồng thời khẳng định những phẩm chất tốt đẹp của người nghèo miền núi. Sự vùng dậy của Mị và A Phủ tuy chỉ là sự vùng dậy tự phát nhưng cũng là cơ sở để sau này khi được giác ngộ cách mạng, họ đã đi theo Đảng để giải phóng cho mình và cho cả quê hương đất nước.

III. Tổng kết.

1. Nội dung:

* Giá trị hiện thực:

– Phản ánh khá chân thật số phận bi thảm của tầng lớp nhân dân miền núi dưới ách áp bức, bóc lột của bọn phong kiến thực dân. Đồng thời nói lên sức sống tiềm ẩn của họ.

– Bộ mặt của chế độ phong kiến miền núi: khắc nghiệt, tàn ác với những cảnh tượng hãi hùng như địa ngục giữa trần gian.

– Phơi bày tội ác của bọn thực dân Pháp.

– Những trang viết bi thảm về cuộc sống bi thảm của người dân miền núi.

* Giá trị nhân đạo:

– Niềm cảm thông, thương xót những con người bất hạnh, bị chà đạp, bị lăng nhục bởi xã hội hoặc một tầng lớp thống trị nào đó.

– Thái độ thấu hiểu, trân trọng, ngợi ca những đức tính cao quý của con người trong nghịch cảnh, đồng thời đề cao những khát vọng chính đáng của con người.

– Chỉ ra con đường giải phóng người lao động có cuộc đời tăm tối và số phận thê thảm.

– Phê phán gay gắt bộ mặt tàn ác ,bất nhân của bọn thống trị phong kiến miền núi.

2. Nghệ thuật:

–  Nghệ thuật miêu tả phong tục tập quán của Tô Hoài rất đặc sắc với những nét riêng (cảnh xử kiện, không khí lễ hội mùa xuân, những trò chơi dân gian, tục cướp vợ, cảnh cắt máu ăn thề…).

–  Nghệ thuật miêu tả thiên nhiên miền núi với những chi tiết, hình ảnh thấm đượm chất thơ: Cảnh thiên nhiên thơ mộng được miêu tả bằng ngôn ngữ giàu chất thơ và chất tạo hình (cảnh mùa xuân về trên núi Hồng Ngài). Cảnh miền núi với những nét sinh hoạt phong tục riêng, sinh động (Cảnh đêm tình mùa xuân, cảnh cúng trình ma, cảnh xử kiện).

–  Nghệ thuật kể chuyện tự nhiên, sinh động, hấp dẫn. Cách giới thiệu nhân vật đầy bất ngờ, tự nhiên mà ấn tượng. Cách dẫn dắt tình tiết khéo làm cho mạch truyện phát triển và vận động liên tục, biến đổi hấp dẫn mà không rối, không trùng lặp. Truyện có kết cấu, bố cục chặt chẽ, hợp lí; dẫn dắt những tình tiết đan xen kết hợp một cách khéo léo tạo sức lôi cuốn.

– Nghệ thuật xây dựng nhân vật cũng rất thành công. Nhà văn ít tả hành động mà chủ yếu khắc họa tâm tư, nhiều khi mới chỉ là các ý nghĩ chập chờn trong tiềm thức nhân vật. Mỗi nhân vật được sử dụng bút pháp khác nhau để khắc họa tính cách khác nhau trong khi họ có số phận giống nhau. Tác giả tả ngoại hình, tả tâm lí với dòng kí ức chập chờn, những suy nghĩ thầm lặng để khắc họa nỗi đau khổ và sức sống của Mị, còn A Phủ thì tả ngoại hình, hành động và những mẫu đối thoại ngắn để thấy tính cách giản đơn.

–  Ngôn ngữ sinh động, tinh tế, chọn lộc và sáng tạo, mang đậm màu sắc miền núi. Giọng điệu trần thuật có sự pha trộn giữa giọng người kể với giọng nhân vật nên tạo ra chất trữ tình.

Phân tích truyện ngắn Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Lên đầu trang