Ôn tập cuối Học kì 2 (Ngữ văn 11, tập 2, Chân trời sáng tạo)

chieu-suong-bui-hien-bai-6-ngu-van-11-tap-2-chan-troi-sang-tao

Ôn tập cuối Học kì 2
(Ngữ văn 11, tập 2, Chân trời sáng tạo)

Câu 1 (trang 105, SGK Ngữ Văn 11, tập hai): Kẻ vào vở hai cột A, B theo mẫu dưới đây, sau đó nối tên thể loại ở cột A với đặc điểm phù hợp được nêu ở cột B; giải thích lí do bạn tạo ra các đường nối giữa hai cột A và B.

 

A.Thể loại/

   Kiểu văn bản

B. Đặc điểm
Truyện thơ Nôm

bình dân

– Những sáng tác không có cốt truyện; giàu tính trữ tình và tính nhạc;…
 

Truyện ngắn

– Những sáng tác tự sự hư cấu có dung lượng nhỏ, thường phù hợp để đọc hết trong một lần; quy mô hạn chế, số lượng nhân vật và sự kiện ít, chỉ tập trung miêu tả một khía cạnh hoặc trạng thái cụ thể của đời sống xã hội…
 

Truyện thơ Nôm

bác học

– Những tác phẩm do các tác giả là trí thức Nho học (thường có tên tuổi, lai lịch rõ ràng) sáng tác, lưu hành rộng rãi nhưng chủ yếu vẫn trong giới trí thức tinh hoa, có nội dung phản ánh số phận và nhu cầu của giới trí thức, có chất lượng nghệ thuật cao;…
 

Truyện thơ

dân gian

– Những sáng tác trung gian giữa truyện và kí; kết hợp hư cấu và phi hư cấu;…
Thơ có yếu tố

tượng trưng

– Những sáng tác dưới hình thức văn vắn, thường xoay quanh đề tài tình yêu, hôn nhân; kết hợp tự sự với trữ tình, rất gần gũi với ca dao, dân ca; phát triển nhiều ở các dân tộc miền núi;…
Truyện kí – Những tác phẩm diễn tả thế giới nội tâm của chủ thể trữ tình thông qua những chi tiết, hình ảnh cụ thể, gợi cảm, kết hợp sự cảm nhận của nhiều giác quan; nhiều khi còn còn đi sâu vào những vấn đề triết học….

Trả lời:

Truyện thơ Nôm bình dân – Những sáng tác (thường là khuyết danh) chủ yếu lưu hành trong dân gian, nội dung phản ánh cuộc sống và khát vọng của người dân tầng lớp dưới, ngôn ngữ giản dị gần với lời ăn tiếng nói hằng ngày của nhân dân.
Truyện ngắn – Những sáng tác tự sự hư cấu có dung lượng nhỏ, thường phù hợp để đọc hết trong một lần; quy mô hạn chế, số lượng nhân vật và sự kiện ít, chỉ tập trung miêu tả một khía cạnh hoặc trạng thái cụ thể của đời sống xã hội…
Truyện thơ Nôm bác học – Những tác phẩm do các tác giả là trí thức Nho học (thường có tên tuổi, lai lịch rõ ràng) sáng tác, lưu hành rộng rãi nhưng chủ yếu vẫn trong giới trí thức tinh hoa, có nội dung phản ánh số phận và nhu cầu của giới trí thức, có chất lượng nghệ thuật cao…
Truyện thơ dân gian – Những sáng tác dưới hình thức văn vắn, thường xoay quanh đề tài tình yêu, hôn nhân; kết hợp tự sự với trữ tình, rất gần gũi với ca dao, dân ca; phát triển nhiều ở các dân tộc miền núi;…
Thơ có yếu tố tượng trưng – Những tác phẩm diễn tả thế giới nội tâm của chủ thể trữ tình thông qua những chi tiết, hình ảnh cụ thể, gợi cảm, kết hợp sự cảm nhận của nhiều giác quan; nhiều khi còn còn đi sâu vào những vấn đề triết học….
Truyện kí – Những sáng tác trung gian giữa truyện và kí; kết hợp hư cấu và phi hư cấu;…

Câu 2 (trang 105, SGK Ngữ Văn 11, tập hai): Nêu một số điểm khác biệt giữa truyện thơ dân gian và truyện thơ Nôm, minh họa bằng các dẫn chứng lấy từ các văn bản đã học.

Trả lời:

Truyện thơ dân gian và truyện thơ Nôm là hai thể loại văn học truyền thống của Việt Nam. Chúng có một số điểm khác biệt:

– Truyện thơ dân gian thường được viết bằng ngôn ngữ thông thường, dễ hiểu và phổ biến trong dân gian, trong khi truyện thơ Nôm được viết bằng chữ Nôm, sử dụng từ vựng phong phú hơn và phức tạp hơn.

– Truyện thơ dân gian thường có hình thức đơn giản, thường chỉ bao gồm một số câu thơ ngắn, không có cốt truyện dài, trong khi truyện thơ Nôm thường có cấu trúc phức tạp hơn, có thể bao gồm nhiều câu thơ, tạo thành cốt truyện dài hơn.

– Truyện thơ dân gian thường kể về các chuyện tình cảm, tâm linh, tình bạn, trong khi truyện thơ Nôm thường kể về các chủ đề lịch sử, nhân vật lịch sử, văn hóa và tín ngưỡng dân gian.

– Truyện thơ dân gian thường được sử dụng để giải trí, thư giãn trong các dịp hội hè, lễ hội dân gian, trong khi truyện thơ Nôm có tính giáo dục, truyền bá các giá trị lịch sử, văn hóa của dân tộc.

Câu 3 (trang 106, SGK Ngữ Văn 11, tập hai): Nêu một số điểm nổi bật về con người, cuộc đời và sự nghiệp văn chương của Nguyễn Du. Theo bạn, với Truyện Kiều, Nguyễn Du đã có những đóng góp gì trong việc phát triển thể loại truyện thơ Nôm của dân tộc?

Trả lời:

– Nguyễn Du sinh ra trong một gia đình quan lại trọng yếu của triều đình nhà Nguyễn. Ông được đào tạo bài bản, có học thức sâu rộng về triết học, văn chương và nhạc lý. Cuộc đời của Nguyễn Du gắn liền với sự nghiệp công văn, ông đã giữ nhiều chức vụ quan trọng trong triều đình nhà Nguyễn và tham gia vào nhiều hoạt động xã hội, đặc biệt là các hoạt động văn hóa. Tác phẩm nổi tiếng nhất của Nguyễn Du là Truyện Kiều, một tác phẩm truyện thơ dài và sâu sắc về cuộc đời nữ tài tử Kiều và những biến cố đầy đau khổ mà cô phải trải qua. Truyện Kiều được coi là một trong những tác phẩm văn học kinh điển của Việt Nam và được đánh giá là có sức ảnh hưởng lớn đến văn học Việt Nam sau này. Nguyễn Du cũng đã viết nhiều tác phẩm khác, tuy nhiên Truyện Kiều là tác phẩm duy nhất được Nguyễn Du viết bằng chữ Nôm.

– Với Truyện Kiều, Nguyễn Du đã đưa thể loại truyện thơ Nôm lên một tầm cao mới. Tác phẩm của ông kết hợp giữa văn học phương Đông và phương Tây, từ đó tạo ra một thể loại mới mang tính cách riêng biệt và độc đáo. Truyện Kiều đã trở thành bản mẫu cho các tác phẩm truyện thơ Nôm sau này và là một trong những tác phẩm tiên phong trong việc phát triển văn học dân tộc Việt Nam.
Câu 4 (trang 106, SGK Ngữ Văn 11, tập hai): Bạn hiểu thế nào là yếu tố tượng trưng trong thơ trữ tình? Theo bạn, đoạn thơ sau có yếu tố tượng trưng không? Dựa vào những dấu hiệu nào để khẳng định như vậy?

Này lắng nghe em khúc nhạc thơm
Say người như rượu tối tân hôn;
Như hương thấm tận qua xương tuỷ,
Âm điệu, thần tiên, thấm tận hồn.
Hãy tự buông cho khúc nhạc hường
Dẫn vào thế giới của Du Dương
Ngừng hơi thở lại, xem trong ấy
Hiển hiện hoa và phảng phất hương…

Trả lời:

– Theo em, yếu tố tượng trưng trong thơ trữ tình là việc sử dụng hình ảnh, tả cảm xúc mang ý nghĩa trừu tượng bằng những hình ảnh, cảm xúc cụ thể kết hợp cùng việc sử dụng những phép tu từ, để truyền tải nội dung sâu sắc hơn.

– Đoạn thơ trên có yếu tố tượng trưng. Cả đoạn thơ được sử dụng để tả cảm xúc tình yêu đang vô cùng sâu nặng và ám ảnh tác giả. Đoạn thơ sử dụng hình ảnh khúc nhạc để tượng trưng cho cảm xúc tình yêu, khi đó “Khúc nhạc” là một hình ảnh trừu tượng được sử dụng để truyền tải những cảm xúc sâu sắc về tình yêu. Bên cạnh đó, các từ như “âm điệu”, “thần tiên” được hiểu là các từ tượng trưng cho sự mộng mơ, sầu muộn và tâm trạng đầy cảm xúc. Từ “thần tiên” được sử dụng như một cách nói hoa mỹ và nhấn mạnh sự tuyệt vời của chính cảm xúc tình yêu.

Câu 5 (trang 106, SGK Ngữ Văn 11, tập hai): Nêu một số điểm khác biệt chính giữa truyện và truyện kí.

Trả lời:

– Một số điểm khác biệt chính giữa truyện và truyện kí:

+ Truyện thường được viết theo dạng truyền thống, được chia thành nhiều chương, có những nhân vật chính, phối hợp để kể một câu chuyện có nội dung và hành động. Truyện kí tập trung chủ yếu vào việc mô tả thông tin, những sự kiện thực tế, hoàn cảnh, nhân vật thực tế.

+ Ngôn ngữ của truyện thường phong phú, sáng tạo và có thể bao gồm nhiều phong cách và giọng điệu khác nhau. Ngược lại, truyện kí thường được viết bằng ngôn ngữ chắc chắn và tài liệu trung thực, sự miêu tả được giữ nguyên một cách đơn giản và chặt chẽ.

+ Truyện thường tập trung vào những nhân vật riêng biệt, có sự phân biệt rõ ràng giữa những nhân vật chính và phụ thông qua tính cách và hành động của họ. Trong khi đó, truyện kí thường tập trung vào những nhân vật, chính trị gia, nhà ngoại giao, nhà văn, nghệ sĩ có ảnh hưởng trong lịch sử hoặc đời sống xã hội.

+ Truyện thường được đánh giá về khía cạnh văn học, với các yếu tố như cốt truyện, phát triển nhân vật, lối viết và sự tưởng tượng. Truyện kí được đánh giá dựa trên tính chân thật, độ trung thực của bức hình về sự kiện, nhân vật được miêu tả.

→  Truyện và truyện kí là hai thể loại văn học khác nhau, mỗi loại có mục đích, hình thức, ngôn ngữ, nhân vật và khía cạnh văn học khác nhau.

Câu 6 (trang 106, SGK Ngữ Văn 11, tập hai): Nhận xét về cách sử dụng ngôi kể, điểm nhìn trong tác phẩm Tôi đã học tập như thế nào? (M.Go-rơ-ki) hoặc Xà bông “Con Vịt” (Trần Bảo Định)

Trả lời:

– Trong  tác phẩm Tôi đã học tập như thế nào? (M.Go-rơ-ki), tác giả đã sử dụng ngôi kể thứ nhất, điểm nhìn xuất phát từ nhân vật “tôi” (nhân vật Pê-xcốp). Việc sử dụng ngôi kể này giúp độc giả có được cái nhìn trực tiếp và chân thực về suy nghĩ, cảm xúc, trải nghiệm của nhân vật “tôi” trong quá trình học tập.Tác giả sử dụng ngôn ngữ đơn giản, trực quan, dễ hiểu, không quá cầu kỳ nhưng vẫn đầy đủ và chính xác để truyền tải thông tin một cách rõ ràng. Sự thẳng thắn, thực tế trong cách viết của tác giả giúp cho người đọc dễ dàng đồng cảm và cảm nhận được những hoàn cảnh, trải nghiệm mà tác giả trải qua.

– Tác phẩm cũng thể hiện được điểm nhìn khách quan của nhân vật Pê-xcốp đối với vấn đề học tập, cách tiếp cận và đối diện với khó khăn trong quá trình học. Đồng thời, nhân vật cũng chia sẻ về những kinh nghiệm học tập của mình, giúp cho người đọc có thể nắm bắt và áp dụng vào quá trình học tập của mình.

Câu 7 (trang 106, SGK Ngữ Văn 11, tập hai): Theo bạn, nhìn từ mối quan hệ với tác giả, người kể chuyện trong truyện ngắn khác với người kể chuyện trong truyện kí như thế nào? Chia sẻ cảm nhận hoặc ấn tượng sâu sắc nhất của bạn khi đọc một trong ba truyện ngắn Chiều sương (Bùi Hiển), Muối của rừng (Nguyễn Huy Thiệp), Kiến và người (Trần Duy Phiên)

Trả lời:

– Theo em, người kể chuyện trong truyện ngắn và người kể chuyện trong truyện kí có những khác biệt nhất định. Trong truyện ngắn, người kể chuyện thường không chỉ đơn thuần là một nhân vật, mà còn là người hùng của chính câu chuyện, họ thường trực tiếp tham gia vào tình huống và diễn biến của câu chuyện. Trong khi đó, trong truyện ký, người kể chuyện thường chứng kiến, quan sát và dẫn chứng những sự kiện và diễn biến một cách khách quan hơn.

– Sau khi đọc xong truyện ngắn Muối của rừng (Nguyễn Huy Thiệp), em đã có những ấn tượng sâu sắc, khó phai về thông điệp mà tác giả muốn gửi gắm tới người đọc. Tác giả đã khơi dậy lòng trắc ẩn, tình yêu thiên nhiên và sự hòa hợp giữa con người với thiên nhiên. Tác phẩm đậm tính nhân văn xoay quanh nhân vật Diểu-người đàn ông chuyên đi săn thú rừng. Tác giả đã thành công trong việc miêu tả diễn biến tâm lý phức tạp của ông Diểu từ khi nhìn thấy con mồi cho tới lúc chứng kiến tình cảm giữa cặp khỉ hoang cùng ánh mắt cầu xin của chúng. Đó là một cuộc chiến âm thầm nhưng không kém phần dữ dội, quyết liệt giữa con người với thiên nhiên và quan trọng hơn là trong chính nội tâm con người. Với bản tính kiêu hãnh, thống soái, đầy danh vọng, đố kỵ, khi đối mặt với thiên nhiên loài vật hồn nhiên, trong trẻo, đầy tính nhân bản, con người đã hoàn toàn bị đẩy vào một tình thế thảm bại, bi hài khó tránh khỏi. Thông qua tác phẩm này, nhà văn đề cao sự vị tha, hướng thiện của con người cùng vẻ đẹp của thiên nhiên, tạo hóa. Ngẫm nghĩ kỹ hơn, ta còn nhận thấy cái triết lý nhân sinh mà nhà văn gửi gắm, đó là: con người chỉ chiến thắng, chỉ nắm giữ được cái thiện – thứ mà con người luôn phấn đấu để kiếm tìm, khi biết tự thức tỉnh và buông bỏ theo triết lý đạo Phật.

Câu 8 (trang 106, SGK Ngữ Văn 11, tập hai): Lập bảng so sánh và chỉ ra những điểm tương đồng, khác biệt về yêu cầu trong cách viết giữa hai kiểu văn bản:

– Văn bản nghị luận về một vấn đề xã hội trong tác phẩm văn học và văn bản nghị luận về một tác phẩm văn học.

– Báo cáo nghiên cứu về một vấn đề tự nhiên hoặc xã hội và thuyết minh có lồng ghép một hay nhiều yếu tố như miêu tả, tự sự, biểu cảm, nghị luận.

Trả lời:

Văn bản nghị luận về một vấn đề xã hội trong tác phẩm văn học và văn bản nghị luận về một tác phẩm văn học.

 

 Văn bản nghị luận về một vấn đề xã hội trong tác phẩm văn học

 Văn bản nghị luận về một tác phẩm văn học

Điểm giống

– Đều có mục đích thuyết phục và đưa ra các lập luận để giải thích quan điểm của tác giả hoặc giá trị của tác phẩm.

– Đều cần sử dụng các phương tiện văn học, lý luận và bằng chứng để chứng minh và tỏ rõ quan điểm.

-Cần sử dụng một cách suy nghĩ logic và có một cấu trúc rõ ràng để thuyết phục đọc giả

Điểm khác

– Thuyết phục người đọc đồng ý với quan điểm của tác giả về vấn đề xã hội

– Đưa ra các lập luận về những vấn đề có liên quan đến tác phẩm văn học và vấn đề xã hội

– Sử dụng lý lẽ và bằng chứng để tỏ rõ quan điểm

– Thuyết phục người đọc đồng ý với giá trị của tác phẩm

– Đưa ra các lập luận về giá trị văn học và cách tác giả sử dụng các phương tiện văn học

– Sử dụng các phân tích cụ thể để chỉ ra giá trị của tác phẩm

 Báo cáo nghiên cứu về một vấn đề tự nhiên hoặc xã hội và thuyết minh có lồng ghép một hay nhiều yếu tố như miêu tả, tự sự, biểu cảm, nghị luận.

 

Báo cáo nghiên cứu về một vấn đề tự nhiên hoặc xã hội

  Thuyết minh có lồng ghép một hay nhiều yếu tố như miêu tả, tự sự, biểu cảm, nghị luận

Điểm giống

– Đều đề cập đến vấn đề cụ thể

– Có tính khách quan, sử dụng ngôn ngữ trang trọng, chuyên môn.

– Yêu cầu sử dụng các thông tin đáng tin cậy để hỗ trợ cho các yếu tố như tự sự, biểu cảm và nghị luận.

Điểm khác

– Yêu cầu sử dụng phương pháp nghiên cứu khoa học, các dữ liệu thống kê, số liệu

– Sử dụng cấu trúc lời văn khoa học, trang trọng

– Có sự tập trung vào việc đưa ra kết quả nghiên cứu

– Không cần sử dụng phương pháp nghiên cứu khoa học, các dữ liệu thống kê, số liệu

– Không nhất thiết sử dụng cấu trúc lời văn khoa học, trang trọng

Câu 9 (trang 106, SGK Ngữ Văn 11, tập hai): Lập bảng tổng hợp những điểm đáng lưu ý về các tri thức tiếng Việt liên quan đến:

– Đặc điểm, tác dụng của một số hiện tượng phá vỡ những quy tắc ngôn ngữ thông thường;

– Đặc điểm và tác dụng của biện pháp tu từ đối;

– Đặc điểm và tác dụng của biện pháp tu từ lặp cấu trúc;

– Cách nhận biết và cách sửa một số kiểu lỗi về thành phần câu.

Trả lời:

Tri thức Tiếng Việt

Điểm đáng lưu ý

Hiện tượng phá vỡ quy tắc ngôn ngữ thông thường – Hiện tượng đảo trật tự từ ngữ: dùng mới mục đích nhấn mạnh, tăng sức biểu cảm cho sự diễn đạt.

– Hiện tượng mở rộng khả năng kết hợp của từ: từ ngữ được cung cấp thêm những khả năng kết hợp mới tạo ra những kết hợp từ vô cùng độc đáo, nhằm tăng hiệu quả diễn đạt.

– Hiện tượng tách biệt: tách các thành phần câu thành những câu độc lập với dụng ý nhấn mạnh hoặc bộc lộ cảm xúc.

Biện pháp tu từ đối – Thường được dùng trong thơ, văn xuôi ở cấp độ câu, đoạn văn hoặc văn bản.

– Tác dụng tạo sự cân xứng về ý nghĩa và nhạc điệu, tạo nên cái đẹp hài hòa theo quan niệm truyền thống của người Việt Nam. Đồng thời có tác dụng giúp miêu tả sự việc, cảnh vật một cách cô đúc, khái quát mà không cần liệt kê, kể lể dài dòng.

Biện pháp tu từ lặp cấu trúc – Là biện pháp tổ chức những vế câu hoặc những câu có cùng một kết cấu ngữ pháp, nhằm nhấn mạnh ý tưởng và tạo sự nhịp nhàng, cân đối cho văn bản.
Cách nhận biết và sửa lỗi thành phần câu – Lỗi thiếu thành phần câu.

– Thiếu thành phần vị ngữ.

– Thiếu cả thành phần chủ ngữ và vị ngữ.

– Không phân định rõ các thành phần câu.

– Sắp xếp sai trật tự thành phần câu.

Câu 10 (trang 106, SGK Ngữ Văn 11, tập hai). Viết đoạn văn (khoảng 200 – 300 chữ) về một trong hai nội dung sau:

– Con người sẽ được gì, mất gì khi trở thành bạn với muôn loài?

– Phải chăng “cái tôi” là một thế giới?

Trả lời:

Bài tham khảo 1:

Phải chăng “cái tôi” là một thế giới?

“Cái tôi” là một khái niệm trừu tượng, nhưng lại có ảnh hưởng lớn đến cuộc sống và suy nghĩ của con người. Nhiều người cho rằng “cái tôi” đại diện cho bản thân của mình, tuy nhiên, không phải ai cũng hiểu rõ “cái tôi” thực sự là gì và nó có ảnh hưởng ra sao đến cuộc sống của họ. Đôi khi, khi con người quá lạc quan vào “cái tôi”, họ trở nên ích kỷ và không thể chấp nhận ý kiến của người khác. Một số người còn sử dụng “cái tôi” để bảo vệ mình khỏi sự tổn thương, khiến cho họ không bao giờ muốn làm chuyện gì đó có thể đem lại rủi ro cho bản thân mình. Tuy nhiên, nếu được sử dụng đúng cách, “cái tôi” cũng có thể giúp con người tự tin và đạt được mục tiêu trong cuộc sống. Sự tự tin và tin vào khả năng của bản thân là cần thiết để có thể đối mặt với những khó khăn và thử thách trong cuộc sống. Vì vậy, phải chăng “cái tôi” là một thế giới? Có lẽ đúng hơn nếu nó được xem là một phần của con người, một phần của sự tự tin và sự tự giác của họ. Tuy nhiên, chúng ta cũng cần hiểu rõ rằng “cái tôi” không thể đại diện cho tất cả mọi thứ, và chúng ta cần phải học cách chấp nhận ý kiến của người khác và hoạt động trong một môi trường xã hội, trong đó mỗi người đều có một vị trí và trách nhiệm của riêng mình. 

Bài tham khảo 2:

Con người sẽ được gì, mất gì khi trở thành bạn với muôn loài?

Khi trở thành bạn với muôn loài, con người sẽ được hưởng nhiều lợi ích về mặt tâm linh, đồng thời cũng phải đối mặt với nhiều thách thức và nguy hiểm không mong muốn. Trở thành bạn với muôn loài sẽ giúp cho con người có sự gần gũi hơn với thiên nhiên và nhận ra giá trị của sự sống. Quan sát và tương tác với động vật, cây cối, và địa hình tự nhiên sẽ giúp cho con người nhận thức về đời sống bền vững và cân bằng hệ sinh thái. Ngoài ra, trở thành bạn với muôn loài cũng giúp cho con người xây dựng được một tinh thần phi định kiến và kết nối với mọi loài, đồng thời giúp con người khám phá thêm những kiến thức mới về cách sống và tồn tại của các loài khác. Tuy nhiên, việc trở thành bạn với muôn loài cũng có mặt trái. Con người sẽ phải đối mặt với những thách thức và nguy hiểm mới mà họ chưa từng trải qua. Điều này còn phụ thuộc vào tình trạng quản lý và chăm sóc thiên nhiên tại địa phương. Đây là một thử thách về mặt vật lý và tinh thần, và nếu không thích nghi tốt, sẽ có rủi ro về sức khỏe và an toàn. Tóm lại, trở thành bạn với muôn loài là một trải nghiệm đáng giá, giúp con người hiểu hơn về sự sống và giữ vững được mối liên kết giữa con người và tự nhiên, tuy nhiên, điều này cũng đòi hỏi sự chấp nhận những thách thức và nguy hiểm mới.

Hãy bình luận đầu tiên

Để lại một phản hồi

Thư điện tử của bạn sẽ không được hiện thị công khai.