Phân tích Chiều xuân của Anh Thơ

phan-tich-chieu-xuan-cua-anh-tho

Phân tích “Chiều xuân” của Anh Thơ.

I. Mở bài:

–  Anh Thơ (1921 – 2005) là một nữ thi sĩ tiêu biểu của phong trào thơ Việt Nam hiện đại với những tác phẩm thơ thiên về tả cảnh bình dị quen thuộc.

Chiều xuân trích từ tập thơ đầu tay “Bức tranh quê” in năm 1941.

II. Thân bài:

1. Vẻ đẹp bức tranh chiều xuân (Khổ thơ 1+2).

– Bến vắng chiều xuân (Khổ 1):

“Mưa đổ bụi êm êm trên bến vắng,
Đò biếng lười nằm mặc nước sông trôi;
Quán tranh đứng im lìm trong vắng lặng
Bên chòm xoan hoa tím rụng tơi bời”

+ “mưa bụi, con đò, nước sông trôi, quán tranh vắng, hoa xoan tím,…”.  Những hình ảnh quen thuộc đặc trưng cho miền quê Việt Nam: bến đò vắng khách, con đò nằm yên một chỗ, quán nhỏ, cây xoan đầy hoa tím…  Cảnh đẹp, êm ả, yên bình nhưng gợn buồn.

+ “Êm êm”: từ láy gợi tả hình ảnh những giọt mưa rơi nhẹ điểm xuyết cho khung cảnh, không ồn ào, vội vã hay nặng hạt mà có chút gì đó như chầm chậm theo từng khoảnh khắc thời gian.

+ “êm êm, biếng lười, im lìm, tơi bời”… : gợi tả sự vắng lặng của chiều quê.

Cuộc sống yên tĩnh có phần ngưng đọng: chiều mưa lạnh, bến sông ven làng tiêu điều, vắng vẻ; một bức tranh dường như thiếu sắc màu và ánh sáng.

– Đường đê chiều xuân (Khổ 2):

Ngoài đường đê cỏ non tràn biếc cỏ,
Đàn sáo đen sà xuống mổ vu vơ;
Mấy cánh bướm rập rờn trôi trước gió,
Những trâu bò thong thả cúi ăn mưa

+ “cỏ non tràn biếc cỏ, đàn sáo, cánh bướm, trâu bò,…” : những hình ảnh đặc trưng của mùa xuân đồng bằng Bắc Bộ.

“sà xuống mổ vu vơ, rập rờn, thong thả…” : Từ ngữ diễn tả hoạt động.

Bức tranh có sự chuyển đổi từ gam màu buồn sang sự sống, gam màu xanh “biếc” của cỏ, từ tĩnh sang động

Cảnh vật thân thương và bình yên quá đỗi, độc đáo và nên thơ, cảnh quen thuộc trở nên mới mẻ, sinh động, làm vơi đi nỗi cô đơn của bến vắng.

2. Không khí và nhịp sống thôn quê (Khổ thơ 3):

Trong đồng lúa xanh rờn và ướt lặng,
Lũ cò con chốc chốc vụt bay ra,
Làm giật mình một cô nàng yếm thắm
Cúi cuốc cào cỏ ruộng sắp ra hoa.

“Xanh rờn”: màu xanh nhẹ nhàng đầy sức sống của mùa xuân

“cô nàng, yếm thắm”: Cảnh sắc bớt vắng vẻ và trở nên ấm áp hơn.

“cúi, cuốc, cào, chốc chốc vụt qua” : Câu thơ tả động để nói đến cái tình, và nhấn mạnh nhịp sống bình yên của làng quê.

Nhịp sống khoan thai nơi đồng quê.

“sắp ra hoa” : Niềm tin của con người vào một tương lai tươi sáng.

– Không khí thơ mộng, êm đềm, tĩnh lặng thể hiện qua:

– Hình ảnh dân dã, hài hòa, êm dịu trong tổng thể bức tranh làng quê thanh bình.

– Từ ngữ gợi hình, gợi cảm: sử dụng hiệu quả biện pháp nhân hóa (đò biếng lười, quán tranh đứng im lìm…), cách diễn đạt độc đáo (cúi ăn mưa, cỏ non tràn biếc cỏ)…

– Bút pháp lấy động tả tĩnh: cái giật mình của cô gái khác đàn cò vút bay ra.

– Nhịp sống nhẹ nhàng, chậm rãi, khoan thai thể hiện qua:

+ Hệ thống từ láy gợi cảm diễn tả trạng thái nhẹ nhàng, êm đềm của đối tượng.

+ Thiên nhiên và con người được miêu tả trong nhịp điệu chậm rãi, khoan thai.

III. Kết bài:

– Bài thơ “Chiều xuân” của Anh Thơ ngợi ca vẻ đẹp chiều xuân bình dị, đơn sơ mộc mạc của làng quê Bắc Bộ, qua đó thể hiện tình yêu làng quê, đất nước sâu sắc và thiết tha.

– tác giả sử dụng hình ảnh tiêu biểu cho sắc xuân, lựa chọn từ ngữ gợi hình, gợi âm thanh, miêu tả cái động để nói về cái tĩnh.

Bài văn tham khảo:

Bài tham khảo 1:

  • Mở bài:

Anh Thơ là một nhà thơ của quê hương với những hình ảnh về làng mạc, quê quán thân thương gần gũi. Bài thơ “Chiều xuân” trích trong tập “Bức tranh quê” là bài thơ tiêu biểu cho phong trào thơ mới. Bài thơ mang âm hưởng du dương, yên bình của vùng quê tĩnh lặng.

  • Mở bài:

Hiện lên trước mắt ta là bức tranh thứ nhất với cảnh sắc tĩnh mịc của bến sông vắng khách, con đò nằm im, quán tranh vắng vẻ bên chòm xoan rụng hoa tím lả lơi:

Mưa đổ bụi êm êm trên bến vắng,
Đò biếng lười nằm mặc nước sông trôi …
Quán tranh đứng im lìm trong vắng lặng
Bên chòm xoan hoa tím rụng tơi bời.

Tác giả không phải chỉ dùng con mắt để quan sát mà còn dùng tâm tình thi ca của mình để cảm nhận. Bức tranh hiện lên với một màu sắc ẩm đạm: Mưa đổ xuống bên bến vắng, con đò qua sông nay lại nằm im bất động, quan tranh không còn tấp nập người vào ra, tiếng nói, tiếng cười mà im lìm trong vắng lặng, hoa xoan rụng tả tơi trước thềm vương hơi sương lạnh của tàn đông. Tất cả hình ảnh hiện lên như một nỗi buồn thầm kín, sâu lắng khó nói nên lời.

Xua tan đi mạch cảm xúc đượm buồn, bức tranh thứ hai hiện với với cảnh vật vừa gần gũi, vừa xa lạ, vừa ảo, vừa thật tràn đầy sức sống:

Ngoài đường đê cỏ non tràn biếc cỏ,
Đàn sáo đen sà xuống mổ vu vơ;
Mấy cánh bướm rập rờn trôi trước gió,
Những trâu bò thong thả cúi ăn mưa.

Nhà thi sĩ cảm nhận hình ảnh đường đê thật thân thương với cỏ non tràn biếc đọng lạ những giọt mưa đầu mùa. Hòa vào màu xanh tươi mới của cỏ non, Đàn sáo đen và cánh bướm rập rờn đã tô điểm cho bức tranh xanh biếc ấy nhiều sắc màu rực rỡ. Từ màu xanh đó, tác giả liên tưởng đến một hình ảnh thú vị rằng những chú trâu bò đang thong thả cúi xuống ăn mưa, liên tưởng đó thật lãng mạng.

Cảnh vật thiên nhiên có đẹp đẽ đến đâu cũng không thể thiếu vắng đi nét độc đáo của con người. Bức tranh thứ 3 đã phát hiện ra vẻ đẹp yêu kiều của cô nàng yếm thăm thông qua cảnh sắc trữ trình của thiên nhiên:

Trong đồng lúa xanh rờn và ướt lặng,
Lũ cò con chốc chốc vụt bay ra.
Làm giật mình một cô nàng yếm thắm,
Cúi cuốc cào cỏ ruộng sắp ra hoa.

Khung cảnh hiện lên cứ ngỡ trong mơ mà lại rất thực. Thi sĩ đã tạo nên một cảnh tượng đầy nghệ thuật với hình ảnh giữa đồng lúa thơm dịu bát ngát, lũ cò con chốc chốc vụt bay ra làm lộ ra cô nàng yến thắm ngơ ngác, rối bời. Cô gái đó cúi cuốc cào cỏ, chăm chỉ lao động đã làm lay động tâm hồn thi sĩ. Hình ảnh cô gái đã khiến cho cảnh sắc thiên nhiên đã đẹp đẽ nay còn thơ mộng đến lạ thường.

Ba bức tranh hiện lên trong bài thơ tuy là ba khung cảnh khác nhau nhưng đều nói lên cái trữ tình trong lòng của thi sĩ. Anh Thơ đã khéo léo sử dụng những từ ngữ độc đáo, mới lạ làm nổi bật lên khung cảnh buổi chiều xuân thanh bình hòa hợp với tình cảm sâu sắc với quê hương trong lòng tác giả cũng như trong lòng mỗi con người.

  • Kết bài:

Ba bức tranh hiện lên trong bài thơ tuy là ba khung cảnh khác nhau nhưng đều nói lên cái trữ tình trong lòng của thi sĩ. Anh Thơ đã khéo léo sử dụng những từ ngữ độc đáo, mới lạ làm nổi bật lên khung cảnh buổi chiều xuân thanh bình hòa hợp với tình cảm sâu sắc với quê hương trong lòng tác giả cũng như trong lòng mỗi con người.

Bài tham khảo 2:

  • Mở bài:

Anh Thơ là nữ thi sĩ tiêu biểu của thơ Việt Nam hiện đại. Bà có sở trường viết về cảnh sắc nông thôn, gợi được không khí và nhịp điệu sống ở miền Bắc. Ham văn chương, chịu khó đọc sách, Anh Thơ tìm đến văn chương như một cách tự giải thoát và khẳng định mình. Tập thơ “Bức tranh quê” đầu tiên ra đời chan chứa những gì mộc mạc và dung dị. Đặc biệt qua bài thơ “Chiều xuân”, với giọng điệu thơ rất dịu dàng, ngôn ngữ thơ giản dị, trong sáng, tác phẩm đã vẽ nên một bức tranh về cảnh mây trời tắt nắng trong sắc xuân tươi đẹp.

  • Thân bài:

Bài thơ “Chiều xuân” được rút từ Bức tranh quê, tập thơ đầu tay của Anh Thơ gồm 41 bài viết về cảnh nông thôn bình dị, quen thuộc. Một số bài trong tập thơ làm xúc động lòng người đọc bởi những nét vẽ chân thực, tinh tế, thấm đượm tình quê đằm thắm và có chút tâm sự bâng khuâng, u buồn của “cái tôi” thơ mới.

Bài thơ với ba khổ thơ như vẽ nên ba bức tranh về chiều xuân yên ả, thanh bình. Những bức tranh nhỏ ghép lại thành một bức họa lớn về bức tranh thiên nhiên nơi đồng quê miền Bắc nước ta. Khổ thơ thứ nhất tương ứng với bức tranh thứ nhất, tả cảnh một chiều mưa bụi với những hình ảnh thân thuộc, “bến sông vắng khách”, “quán tranh” và “chòm xoan đầy hoa tím”:

“Mưa đổ bụi êm êm trên bến vắng,
Đò biếng lười nằm mặc nước trôi sông;
Quán tranh đứng im lìm trong vắng lặng
Bên chòm xoan hoa tím rụng tơi bời”

Nhà thơ đã dùng cả tâm hồn nhạy cảm của mình để cảm nhận cảnh vật, trong một buổi chiều mưa lạnh nên cảnh vật trở nên tiêu điều, vắng vẻ và có phần xơ xác. Bao trùm cả bức tranh là một vẻ tĩnh lặng gần như là hoàn toàn, nhưng vẫn có sự hoạt động của cảnh vật dù chỉ là sự hoạt động rất nhẹ: “mưa đổ bụi êm êm trên bến vắng”, các cảnh vật còn lại dường như chỉ lặng im, con đò thì “nằm mặc nước sông trôi”, còn quán tranh thì “đứng im lìm”.

Con đò hàng ngày tất bật chở khách thì hôm nay trở nên “biếng lười”, như tỏ vẻ mệt mỏi. Quán tranh trong buổi chiều mưa bụi cũng trở nên vắng lạnh vì thiếu đi sự nhộn nhịp tấp nập tiếng cười, tiếng trò chuyện của khách. Những cơn mưa dù nhỏ, nhẹ nhưng khi kèm theo những cơn gió gió còn vướng hơi lạnh của những ngày cuối mùa đông cũng đủ sức làm cho những chòm hoa xoan tím rụng “tơi bời”.

Nhưng có lẽ chính sự tĩnh lặng này đã làm cho bức tranh buổi chiều xuân có chiều sâu của nó, tất cả cảnh vật đều như ẩn chứa một nỗi buồn sâu kín. Tiếp đến là khổ thơ thứ hai với bức tranh thứ hai, nếu như ở bức tranh thứ nhất là bức tranh về cảnh vật tĩnh lặng thì ở bức tranh thứ hai dường như đã có sự sống, hoạt động của các loài động vật:

“Ngoài đường đê cỏ non tràn biếc cỏ,
Đàn sáo đen sà xuống mổ vu vơ;
Mấy cánh bướm rập rờn trôi trước gió,
Những trâu bò thong thả cúi ăn mưa”

Con đê ven làng là hình ảnh thân thuộc mà có lẽ ở vùng quê nào cũng có, mùa xuân là mùa của hoa lá, cỏ cây bắt đầu sinh sôi nảy nở, chính vì vậy mà con đường ven đê cỏ non tràn biếc cỏ, câu thơ thể hiện sự tươi mát, xanh non của cảnh vật tràn ngập sức sống của mùa xuân, hai từ cỏ như mở ra trước mắt ta một không gian ngập tràn màu xanh làm tâm hồn ta mênh mang, rộng mở.

Trên cái nền xanh tươi ấy là hình ảnh “đàn sáo đen”, là “mấy cánh bướm” và “những trâu bò”, tất cả như một sự điểm xuyết làm cho bức tranh thiên nhiên trở nên sinh động hơn.

Trong bức tranh này các hoạt động cũng trở nên rộn ràng, tấp nập hơn chứ không nhỏ, nhẹ như bức tranh thứ nhất, đàn sáo đen sà xuống mặt đất mổ nhưng chỉ là mổ vu vơ, trước cơn gió xuân ta cảm giác như những cánh bướm không bay mà là đang “trôi’ theo làn gió, đặc biệt là hình ảnh trâu bò “cúi ăn mưa”, tại sao không phải là ăn cỏ mà lại là “ăn mưa”.

“Trong đồng hoa lúa xanh rờn và ướt lặng,
Lũ cò con chốc chốc vụt bay ra,
Làm giật mình một cô nàng yếm thắm.
Cúi cuốc cào cỏ ruộng sắp ra hoa”

So với cảnh đầu bài thơ, ở đây không gian đã hoạt động hơn, đã có con người làm lụng và cảm xúc, ruộng lúa sắp ra hoa thay vì hoa xoan rụng, cảnh sắc bớt vắng vẻ, bài thơ có được cái ấm áp của đời thường.

Màu đỏ của chiếc yếm thắm được đặt trong một khuôn tranh có màu xanh của lúa, màu trắng của cò trở nên đối chọi mà vẫn hết sức hòa hợp. Bức tranh chiều xuân trên cánh đồng lúa vì vậy mà trở nên tươi sáng hơn, giàu sức sống hơn, ấm áp hơn. Xua tan đi tất cả những giá lạnh, buồn bã, quạnh hiu của buổi chiều xuân ở những khổ thơ trên.

  • Kết bài:

Cả bài thơ chỉ vỏn vẹn có 3 khổ thơ, mỗi khổ là một bức tranh xuân hợp lại, tạo nên cảnh xuân buổi chiều êm ả, bình yên và tĩnh lặng. Qua thủ pháp lấy động tả tĩnh cảnh sắc tươi tắn, con người mộng mơ, với sự quan sát tinh tế của người con gái phải yêu quê hương tha thiết thì ngòi bút của nhà văn Anh Thơ mới dựng lên được một cảnh chiều mưa xuân đẹp đến như thế. “Chiều xuân” của Anh Thơ là một bản nhạc đầy thương yêu và tự hào dành cho quê hương mà thi sĩ gửi đến cho chúng ta, bồi đắp và nuôi dưỡng trong tâm hồn mỗi người những tình cảm đẹp đẽ cho cảnh vật bình dị của làng quê Việt.

Hãy bình luận đầu tiên

Để lại một phản hồi

Thư điện tử của bạn sẽ không được hiện thị công khai.