Phân tích Lời tiễn dặn (Trích Tiễn dặn người yêu)

phan-tich-loi-tien-dan-trich-tien-dan-nguoi-yeu

Phân tích “Lời tiễn dặn” (trích truyện thơ “Tiễn dặn người yêu” của dân tộc Thái).

I. Mở bài.

Tiễn dặn người yêu là một trong những truyện thơ hay nhất của kho tàng truyện thơ dân gian các dân tộc ít người ở Việt Nam. Đây cùng là truyện thơ được dân tộc Thái hết sức yêu quý, say mê.

– Tác phẩm mang đậm yếu tố tự sự và trữ tình, thể hiện sinh động tình nghĩa thiết tha, thuỷ chung và khát vọng tự do của nam nữ thanh niên Thái qua hai nhân vật trung tâm là chàng trai và cù gái, là đoạn trích “Lời tiễn dặn” (Phần (1) và Phần (2).

II. Thân bài.

– Đoạn trích gồm hai lời tiễn dặn. Phần (1) là lời dặn dò của chàng trai khi anh chạy theo tiễn cô về tận nhà chồng. Phần (2) là lời khuyên đó, dặn dò của chàng trai khi chứng kiến cảnh cô bị nhà chồng đánh đập, hành hạ. Thương cô, anh càng khẳng định tình yêu tha thiết, bền chặt của mình.

1. Nỗi khổ đau của cô gái.

– Cô gái phải về nhà chồng nhưng chưa gặp người yêu để giã biệt. Hoàn cảnh ấy tạo ra tâm trạng bồn chồn, đau khổ, bất an. Hình ảnh cô cất bước theo chồng: vừa đi vừa ngoảnh lại, vừa đi vừa ngoái trông, lòng càng đau, cùng nhớ… đã phản ánh tâm trạng trên.

– Nhóm từ tới rừng ớt, tới rừng cà, tới rừng lá ngón kết hợp với động từ dại, ngóng trông khiến ta hình dung con đường đi xa ngái và trạng thái dùng dằng, bồn chồn của cô. Hình tượng ớt, cà, lá ngón tăng tiến dần, vừa thể hiện sắc thái văn hóa dân tộc, vừa là nỗi cay đắng, vò xé, thể hiện tâm trạng đau khổ, day dứt của cô gái.

– Tất cả cho thấy sự bế tắc, lo lắng, đau khổ của cô gái khi về nhà chồng. Nỗi đau khổ đó bắt nguồn từ cuộc hôn nhân không tự nguyện, không tình yêu, mà nguyên nhân sâu xa là do xã hội phong kiến Thái dã dành cho cha mẹ quyền định đoạt hôn nhân của con cái, đặc biệt là với con gái.

2. Tâm tình và lời tiễn dặn của chàng trai.

* Tâm trạng, tình cảm của chàng trai khi tiễn đưa người yêu về nhà chồng.

– Tình cảm tha thiết, quyến luyến, tình yêu sâu sắc của chàng trai:

+ Qua hành động chăm sóc ân cần, thiết tha.

+ Qua suy nghĩ, cảm xúc mãnh liệt: Muốn tiễn người yêu đến tận nhà chồng, tiếc nuối tình yêu quá ngắn ngủi.

Nhận thức được hoàn cảnh thực tại không thể gắn bó:

+ Tiễn người yêu nhưng trong lòng anh vẫn luôn luôn suy nghĩ: anh mới đành lòng quay lại mới chịu quay đi.

+ Tâm trạng của chàng trai rối bời, đầy mâu thuẫn khi phải từ biệt người yêu, tiễn cô về nhà chồng.

* Lời tiễn dặn của chàng trai trong phần (1).

– Lời dặn dò ở phần ( 1) cũng là lời hẹn ước của chàng trai.

+ Thời gian chờ đợi được tính bằng mùa vụ: đợi tới tháng năm lau nở, đợi mùa nước đổ cá về, đợi chim tăng ló gọi hè, …

+ Thời gian chờ đợi được tính bằng ca đời người: không lấy nhau mùa hạ, đợi lấy nhau mùa đông, không lấy nhau thời trẻ đợi lấy nhau khi góa bụa về già.

+ Chàng trai đã ước hẹn chờ đợi cô gái trong mọi thời gian, mọi tình huống. Bước đi của thời gian được diễn tả bằng những hình ảnh quen thuộc, bình thường, thuần phác của cuộc sống người dân tộc: tháng lau nở, nước đổ cá về, chim tăng ló gọi hè… Tất cả đã phần nào phác họa tình cảm chân thực, bền chặt của chàng trai dân tộc Thái.

+ Tuy nhiên, đợi có nghĩa la chấp nhận thực tại không thể gần gũi, gắn bó, nghĩa là chỉ còn hi vọng ở tương lai. Lời dặn đó thể hiện tình nghĩa thủy chung, tình yêu sâu sắc, vĩnh cửu của chàng trai, đồng thời cũng thể hiện thái độ bất lực, đành chấp nhận cuộc hôn nhân do cha mẹ hai bên định đoạt.

* Lời tiễn dặn của chàng trai trong phần (2).

– Nếu lời tiễn dặn ở phần (1) nổi bật một chữ đợi thì lời dặn dò ở phần (2) nổi bật chữ cùng với mong muốn thoát khỏi tập tục để gắn bó nhau: đôi ta cùng gỡ, ta vuốt lại quay guồng ta trôi nổi ao chùng, chùng một mái, song song, ta thương nhau, ta yêu nhau…

– Sự khác nhau của hai thái độ đó bắt nguồn từ khi chàng trai chứng kiến cảnh người yêu bị hành hạ. Anh cảm thông, săn sóc cô bằng lời lẽ và hành động chia sẻ hết mực yêu thương: dậy di em, đầu bù anh chải, tóc rối anh búi, làm ống thuốc em uống khỏi đau… Trong lời nói đó còn ẩn chứa nỗi xót xa, đau đớn dường như hơn cả nỗi đau mà cô gái phải chịu. Yếu tố tự sự đã kết hợp chặt chẽ với yếu tố trữ tình, lời gọi chứa đầy cảm xúc khiến câu chuyện có sức biểu cảm lớn.

– Cùng với tình cảm xót thương, anh muốn phá tung sợi dây trói buộc của tập tục Thái, là cùng người yêu sống chết bên nhau.
Từ hai lời tiễn dặn ở hai hoàn cảnh khác nhau nhưng cả hai phần đều thể hiện tình yêu sâu sắt thủy chung và quyết tâm vượt mọi trở ngại để gắn bó.

III. Kết bài.

– Những lời tiễn dặn tha thiết chính là những lời phản kháng tập tục hôn nhân dân tộc Thái ngày xưa. Nguyên nhân chia li và những nỗi đau khổ của chàng trai, cô gái trong truyện chính là do tập tục cha mẹ có quyền định đoạt duyên phận con cái. Vì vậy, những lời tiễn dặn đầy đau khổ của họ chính là những lời tố cáo, phản kháng tập tục hôn nhân đã bóp chết tình cảm yêu thương tự nhiên của con người, khiến cho họ phải suốt đời đau khổ.

– Những “lời tiễn dặn” cũng đồng thời thể hiện khát vọng tự do, khát vọng được giải phóng, được sống trong tình yêu của các chàng trai, cô gái ngày xưa.

Dàn bài chi tiết:

I. Mở bài:

Tiễn dặn người yêu (Xống chụ xon xao) là một truyện thơ nổi tiếng của dân tộc Thái. Câu chuyện kể về sự trắc trở trong tình yêu và hôn nhân của đôi bạn tình người Thái. Hai người tuy làm bạn với nhau từ nhỏ. Lớn lên lại yêu thương gắn bó nhưng lại không lấy được nhau vì gia cảnh của bạn trai quá nghèo hèn. Chị bị cha mẹ gả cho một nhà giàu rồi tiếp tục Chị lại bị bán vào cửa quan. Cuối cùng tàn tạ, chị bị đem ra chợ bán. Lúc ấy đâu ngờ, Anh đã “mua” được chị với giá chỉ bằng một cuộn dong. Cuối cùng họ nhận ra nhau rồi về sống với nhau cho trọn lời ước cũ: “Không lấy được nhau mùa hạ, sẽ lấy nhau mùa đông. Không lấy nhau thời trẻ, ta sẽ lấy nhau khi goá mụa về già”.

Lời tiễn dặn” là đoạn trích miêu tả rất rõ tâm trạng của Anh trên đường tiễn Chị về nhà chồng và phải chứng kiến cảnh khi ở nhà chồng, Chị bị chính người chồng đánh đập.

II. Thân bài:

1. Tâm trạng của người con trai trên đường tiễn dặn.

– Phải tiễn người yêu về với nhà chồng, lòng người con trai vô cùng đau xót. Thế nhưng trên đường đưa tiễn, anh gọi chị là “người đẹp anh yêu”, khẳng định tình yêu trong anh vẫn còn thắm thiết. Nhưng cũng có lúc, tình cảm của Anh mâu thuẫn với hiện thực khách quan là cô gái đang “cất bước theo chồng” (thậm chí đã có con với chồng).

– Lúc tiễn đưa, người con trai có những cử chỉ, hành động dường như muốn níu kéo cho dài ra giây phút được ở thêm bên cô gái. Anh phải được dặn cô gái đôi câu thì mới “đành lòng” quay gót. Anh muốn ngồi lại bên cô gái, âu yếu cô gái để “ủ lấy hương người” cho mai sau “khi chết”, lửa xác (của mình) vẫn đượm hơi người thương yêu. Anh nựng con cô gái mà như nựng chính con mình. Cách ứng xử ấy nói lên tình thương yêu vô bờ mà người con trai dành cho người yêu.

– Như vậy, lúc tiễn đưa, người con trai sống trong tâm trạng dằn vặt, day dứt khổ đau. Phải chăng chính vì thế mà hai câu thơ cuối đoạn như là một sự phá phách. Nó khẳng định cái ý chí quyết tâm đoàn tụ của cả hai người.

2. Tâm trạng của cô gái lúc bước chân về nhà chồng.

– Đoạn thơ là lời của người con trai, vì thế tâm trạng của cô gái chỉ là gián tiếp. Tuy được biểu hiện qua ánh mắt và suy nghĩ của của anh, thế nhưng, chúng ta vẫn có thể nhận ra, chị dường như cũng muốn níu kéo cho dài ra những giây phút cuối cùng ở bên anh. Cô gái chân bước đi mà đầu “còn ngoảnh lại” mắt còn “ngoái trông anh”, chân bước càng xa thì lòng càng đau đớn,… chính từ các tâm trạng ấy mà cứ mỗi lần qua một cánh rừng chị đều lấy đó là cái cớ để mà dừng lại đợi chờ anh.

3. Tâm trạng của người con trai lúc ở nhà chồng của người con gái.

– Văn bản này đã lược đi đoạn mà cô gái bị chồng đánh ngã lăn ra bên miệng cối gạo, bên “máng lợn vầy”. Đoạn trích bắt đầu từ hành động chạy lại nâng đỡ chị dậy, phủi áo, chải tóc cho chị của anh. Sau đó, Anh còn đi chặt tre về làm ống lam thuốc cho chị “ uống khỏi đau “. Những hành động ấy rõ ràng biểu lộ niềm xót xa thương cảm của anh đối với nỗi đau của chị. Một sự cảm thông, đó là điều mà chị đang rất cần trong hoàn cảnh ấy.

– Từ nỗi xót xa, trong lòng Anh bỗng bật lên ý chí quyết tâm đưa Chị về đoàn tụ với mình. Từ câu thơ “Tơ rối đôi ta cùng gỡ” đến hết đoạn chính là những câu thơ thể hiện cho cái ý chí và quyết tâm ấy.

4. Đặc sắc nghệ thuật.

– Đoạn trích có sử dụng rất nhiều câu thơ có sự trùng điệp từ, kiểu câu. Thể hiện nghệ thuật bằng cách sử dụng nhiều câu thơ với nhiều hình ảnh so sánh tương đồng, những hình ảnh ẩn dụ liên tiếp hay lớp lớp những câu có một cấu trúc cú pháp chung, tác giả dân gian muốn nhấn mạnh sự thuỷ chung son sắt trong tình yêu của đôi bạn trẻ. Nó cũng đồng thời khẳng định cái ý chí và ước mơ đoàn tụ không gì lay chuyển nổi của Anh và Chị. Chọn cách diễn đạt như vậy, tác giả dân gian đã mã hoá ngôn ngữ một cách thành công những cảm xúc đang trào dâng mãnh liệt trong lòng của những con người sống chất phác, mạnh mẽ giữa thiên nhiên núi rừng cường tráng.

III. Kết bài:

Bài văn tham khảo.

Bài văn 1:

  • Mở bài:

Truyện thơ Tiễn dặn người yêu (Xống chụ xon xao) kể về câu chuyện tình cảm động của đôi trai gái Thái cùng vói đau khổ cũng như khát vọng yêu đương của họ. Tiễn dặn người yêu là một trong những truyện thơ tiêu biểu và đặc sắc trong kho tàng văn học dân gian các dân tộc thiểu số, được bổ sung qua nhiều thế hệ người Thái. Người Thái coi đây là cuốn sách quý nhất trong mọi cuốn sách quý vì nó thể hiện rõ nét cuộc sống và tâm hồn Thái. Đoạn trích Lời tiễn dặn’ được lựa chọn để đọc thêm rất tiêu biểu cho nội dung Cách miêu tả trong đoạn trích cho thấy rõ người con gái đã cố trì hoãn thời gian trên đường cất bước về nhà chồng.

  • Thân bài:

Truyện thơ Tiễn dặn người yêu gồm 1846 câu thơ, trong đó chỉ có gần 400 câu tiễn dặn. Đoạn trích được lựa chọn để đọc thêm rất tiêu biểu cho nội dung Cách miêu tả trong đoạn trích cho thấy rõ người con gái đã cố trì hoãn thời gian trên đường cất bước về nhà chồng. Mỗi cánh rùng nàng đi qua đều là một không gian biểu cảm tạo ra cái cớ để mong có cơ hội gặp người yêu :

Em tới rừng ớt ngắt lá ớt ngồi chờ,
Tới rừng cà ngắt lá cà ngồi đợi,
Tới rừng lá ngón ngóng trông.

Từ đầu đoạn trích, liên tiếp các từ ngoảnh lại, ngoái trông, đau nhớ, ngồi chờ, ngồi đợi,… được sử dụng dồn dập, liên tiếp đã thể hiện rõ nỗi lòng đau khổ, nhớ thương, quyến luyến của cô gái. Điều đặc biệt là hình ảnh cô gái lại hiện lên qua cái nhìn, tâm trạng của chàng trai giống như qua một thước phim quay chậm đến từng chi tiết. Điều này chứng tỏ chàng trai đã âm thầm quan sát cô gái với tất cả sự trìu mến, xót thương. Họ đã hiểu nhau đến từng hành động và ý nghĩ. Không gian núi rừng bình dị, quen thuộc của đồng bào Thái được miêu tả trực tiếp như một tấm phông rộng lớn cùng chia sẻ, đồng cảm với lòng người. Chàng trai đã tới vì dường như họ đã ước hẹn với nhau và như lời chàng giãi bày :

Anh tới nơi, em bẻ lá xanh em ngồi ;
Được nhủ đôi câu, anh mới đành lòng quay lại,
Được dặn đôi lời, anh yêu em mới chịu quay đi.

Mở đầu đoạn trích, chàng trai đã âu yếm gọi cô gái là “người đẹp anh yêu”, “anh yêu em”. Cách xưng hô, cách gọi đậm chất trữ tình, đặc trưng cho lời ăn tiếng nói của đồng bào Thái và mang sắc thái trữ tình sâu sắc. Vẻ đẹp của người con gái Thái được miêu tả bàng một nét phác hoạ chính xác hết sức tài tình : “Xin hãy cho anh kề vóc mảnh” bởi ai đã từng tiếp xúc với người phụ nữ Thái hẳn sẽ ấn tượng với dáng vóc mảnh mai có phần kiêu sa của họ. Truyện thơ khác với các thể loại tự sự văn xuôi ở ưu thế tả người, tả cảnh, tả tình, ở phần khác của truyện thơ này có một số dòng miêu tả vẻ đẹp của người con gái : “Ngón tay thon lá hành – Đuôi mắt dài như mắt lá trầu xanh”. Chính đoạn thơ này đã trở thành điểm nhấn và là cảm hứng tạo nên đầu đề của truyện thơ Tiễn dặn người yêu. Vì chỉ ở thời điểm này, tình yêu mới bộc lộ được hết sắc độ của nó, với yêu thương, đớn đau, tuyệt vọng và quyết tâm không gì lay chuyển.

Mặc dù cô gái đã có con với người chồng mà cô không yêu nhưng điều đó khống làm giảm tình yêu, sự trân trọng của chàng trai dành cho cô. Anh vẫn nựng con của người yêu âu yếm như nựng con của chính mình :

Con nhỏ hãy đưa anh ẵm,
Bé xinh hãy đưa anh bồng,
Cho anh bế con dòng, đừng ngượng,
Nựng con rồng, con phượng, đừng buồn.

Có thể thấy sự nhân ái, lòng vị tha nồng ấm tình yêu trong trái tim người đàn ông Thái cao thượng. Tình yêu của chàng trai có độ bền vững qua thời gian, ngay cả khi cô đã tay bồng, tay mang. Kết thúc phần 1 vang lên điệp khúc tình yêu vói lời thề nguyền, ước hẹn:

Đôi ta yêu nhau, đợi tới tháng Năm lau nở,
Đợi mùa nước đỏ cá về,
Đợi chim tăng ló gọi hè.
Không lấy được nhau mùa hạ, ta sẽ lấy nhau mùa đông,
Không lấy được nhau thời trẻ, ta sẽ lấy nhau khi goá bụa về già.

Thời gian mùa hạ, mùa đông trong câu thơ trên mang ý nghĩa biểu tượng, tương đồng với tuổi thanh xuân sôi nổi, tươi đẹp thời trẻ và tuổi già tàn phai, héo úa (goá bụa về già). Lời thề nguyền của chàng trai thật chân thành, cụ thể. Trong nhiều đoạn khác của truyện thơ luôn vang lên điệp khúc thề nguyền cảm động như thế và hơn thế.

Cử chỉ, hành động và tâm trạng của chàng trai lúc ở nhà chồng của cô gái Chàng trai an ủi, động viên khi cô gái bị nhà chồng hành hạ, và một lần nữa khẳng định sự chung thuỷ son sắt trong tình yêu. Để giữ lời thề nguyền, quyết bảo vệ tình yêu và ước vọng được đoàn tụ cùng người yêu, nàng tuy về nhà chồng nhưng cố tình phản kháng lại sự xếp đặt của số mệnh, giả bộ ương bướng, ngớ ngẩn, vụng về để cho nhà chồng chán mình mà đuổi về bằng những việc làm : “Rửa bát xóc cả rổ – Rửa ốc rửa từng con”. Người phụ nữ về nhà chồng phải ăn cơm thừa canh cặn, phải làm việc cực nhọc lại bị hành hạ, ngược đãi đủ đường. Trước phần 2 của đoạn trích là cảnh cô gái bị nhà chồng đánh ngã lăn quay bên cối gạo. Đoạn đầu của phần 2 miêu tả những hành động, cử chỉ ân cần, chăm sóc, lo lắng thuốc thang của chàng trai dành cho cô gái. Lời nói của chàng thật dịu dàng, chan chứa xót thương :

Dậy đi em, dậy đi em ơi !
Dậy rũ áo kẻo bọ,
Dậy phủi áo kẻo lấm !
Đầu bù anh chải cho,
Tóc rối đưa anh búi hộ !
Anh chặt tre về đốt gióng đầu,
Chặt tre dày, anh hun gióng giữa,
Lam ống thuốc này em uống khỏi đau.

Tình yêu của chàng trai thật chân thành, dịu dàng, đằm thắm, không chỉ thể hiện ở những lời thề nguyền mà biểu hiện cụ thể qua hành động và lời nói ân cần, tha thiết khiến người nghe xiết bao cảm động. Những hình ảnh như : “Tơ rối đôi ta cùng gỡ – Tơ vò ta vuốt lại quay guồng” mang ẩn ý dẫu hoàn cảnh khó khăn thế nào nếu đồng lòng củng có thể giải quyết ổn thoả :

Quay lại guồng gỗ tốt cán thuôn,
Về với người ta thương thuở cũ.

Trong thơ ca dân gian của người Thái, người Mông hay nhắc đến cái chết. Đó là một thủ pháp nghệ thuật để biểu hiện ý chí quyết bảo vệ tình yêu đến cùng. Cái chết là giới hạn cuối cùng của thử thách, nhưng “cái chết” cũng chỉ là cách biểu hiện quyết tâm (thực chất người trong cuộc không nghĩ đến cái chết và quả thực trong truyện này hai người đã quyết sống một cách mạnh mẽ và họ đã tìm lại được tình yêu):

Chết ba năm hình còn treo đó;
Chết thành sông, vục nước uống mát lòng,
Chết thành đất, mọc dây trầu xanh thắm,
Chết thành bèo, ta trôi nổi ao chung,
Chết thành muôi, ta múc xuống cùng bát,
Chết thành hồn, chung một mái, song song.

Phương pháp so sánh được sử dụng đậm nét trong phần kết của đoạn trích. Hình ảnh so sánh được chọn lọc đa dạng, biểu hiện phong tục, bản sắc văn hoá tinh thần, cảnh sắc thiên nhiên dân tộc Thái:

Đôi ta yêu nhau, tình Lú – Ủa mặn nồng,
Lời đã trao thương không lạc mất;
Như bán trâu ngoài chợ,
Như thu lúa muôn bông.
Lòng ta thương nhau trăm lớp nghìn trùng,
Bền chắc như vàng, như đá.

Toàn bộ đoạn trích là lời tiễn dặn người yêu, hành động chăm sóc ân cần, xót xa thương cảm và âm vang điệp khúc nguyện thề giữ trọn tình yêu. Kết thúc truyện thơ Tiễn dặn người yêu là một kết thúc có hậu theo truyền thống của văn học dân gian: ước mơ thành sự thật. Hai người đoàn tụ, làm lại cuộc đời trong tĩnh yêu bất diệt. Chàng trai đã giữ đúng lời nguyện ước của mình “Không lấy được nhau thời trẻ, ta sẽ lấy nhau khi goá bụa về già”. Con người đã vượt lên trên số phận khắc nghiệt bởi những hành động tích cực đáng trân trọng, bởi lòng chung thuỷ, sự cao thượng và sức mạnh tình yêu chân chính.

Lời tiễn dặn của chàng trai thể hiện một tình yêu lãng mạn, thấm đượm vẻ đẹp huyền bí và hấp dẫn của phong tục, tín ngưỡng và hơn hết thảy là tâm hồn người đàn ông Thái đem đến cho khổ thơ một ấn tượng đặc biệt khó quên. Người Thái có tục hoả táng, muốn cho thân xác cháy đượm, linh hồn được siêu thoát, cần có hơi hương của người thân yêu nhất. Bởi thế, mặc dù nhận thức được hoàn cảnh, chàng vẫn gắn bó thuỷ chung. Chàng muốn gần “kề vóc mảnh”, được có hơi hương người yêu trong phút chia tay bịn rịn này để nếu có chết hồn cũng không bị cô đơn :

Xin hãy cho anh kề vóc mảnh,
Quấn quanh vai ủ lấy hương người,
Cho mai sau lửa xác đượm hơi,
Một lát bên em thay lời tiễn dặn!

Sự kết hợp hài hoà giữa yếu tố tự sự và yếu tố trữ tình. Hình ảnh cô gái được hiện lên rõ nét qua quan sát và tâm trạng của chàng trai trên đường tiễn dặn (thái độ chăm sóc ân cần của chàng trai với cô gái ở nhà chồng (ở phần 2) được khắc hoạ rõ nét. Sự đan xen giữa kể sự kiện và miêu tả cảnh vật, tâm trạng nhân vật là ưu thế nổi bật của truyện thơ.

Các cấu trúc câu lặp lại, lối sử dụng điệp từ, lấy thiên nhiên làm đối tượng biểu đạt là đặc điểm nghệ thuật nổi bật trong đoạn trích. Truyện thơ của dân tộc Thái sử dụng phương pháp trùng điệp như một phương pháp phổ biến, đặc thù. Một hành động, một tâm trạng ít khi chỉ được diễn tả bằng một hình ảnh mà luôn có sự lặp lại của nhiều hình ảnh theo một cấu trúc ngữ pháp nhằm khắc hoạ sâu sắc nội dung diễn tả. Điều đó tạo tính chất phô diễn, giãi bày đậm chất trữ tình đồng thời tạo sự cân đối, nhịp nhàng, hài hoà về nhạc điệu.

Vừa đi vừa ngoảnh lại,
Vừa đi vừa ngoái trông,
Chân bước xa lòng càng đau nhớ.
Em tới rừng ớt ngắt lá ớt ngồi chờ,
Tới rừng cà ngắt lá cà ngồi đợi,
Tới rừng lá ngón ngóng trông.

Lấy thiên nhiên để so sánh, để giãi bày tâm trạng, nên thiên nhiên thân thuộc của núi rừng Tây Bắc tràn vào lời ca: Rừng cà, rừng ớt, tháng Năm lau nở, nước đỏ cá về, như bán trâu ngoài chợ, như thu lúa muôn bông,… Đại từ nhân xưng “người đẹp anh yêu”, “anh yêu em”, “đôi ta yêu nhau”; các hô ngữ, mệnh lệnh thức “xin hãy”, “dậy đi em”, “hỡi gốc dưa yêu”,… tăng tính trữ tình.

  • Kết bài:

Lời tiễn dặn khẳng định tình yêu chân thành, sâu sắc bền bỉ của chàng trai đối với cô gái dù ở bất cứ hoàn cảnh nào. Đoạn thơ cũng đồng thời là lời phản kháng mạnh mẽ của hai nhân vật trong tác phẩm nói riêng, và của các cặp đôi dân tộc Thái khi xưa luôn khát vọng tự do yêu đương, sống hạnh phúc với người mình yêu thương.

Bài làm 2:

  • Mở bài:

Tiễn dặn người yêu nguyên văn tiếng Thái là Xống chụ xon xao một trong những truyện thơ hay nhất của kho tàng truyện thơ dân gian các dân tộc thiểu số ở Việt Nam, cũng là truyện thơ được người Thái hết sức yêu mến, say mê, coi là niềm tự hào của dân tộc Thái. Người Thái có câu: “Hát Tiễn dặn lên, gà ấp phải bỏ ổ, cô gái quên hái rau, anh đi cày quên cày” để diễn tả sức hấp dẫn của tác phẩm.

  • Thân bài:

Tiễn dặn người yêu là câu chuyện tình thơ mộng và đầy nước mắt của một đôi trai gái dân tộc Thái. Họ sinh ra và lớn lên trong hai gia đình cùng cảnh nghèo. Họ thân thiết, quấn quýt bên nhau từ khi còn nhỏ, ai cũng nghĩ rằng họ sẽ là một đôi hạnh phúc:

Đôi ta gặp nhau nơi sàn hoa,
Tâm tình bên bếp lửa,
Chuyện nối chuyện qua mau,
Đêm tiếp đêm mặn mù…
Đôi ta ngồi khuông tận khi trời sủng,
Đeo mộng về nhà lúc xế vầng trăng…

Cô gái càng lớn càng xinh đẹp. Cha mẹ cô tham giàu nhận sính lễ, ép gả cô cho chàng trai lạ, khiến đôi trẻ phải chia lìa. Người yêu cô đau khổ và phẫn uất quyết ra đi làm giàu, hi vọng sẽ về kịp trước khi người kia hết hạn rể ngoài, chàng sẽ giành lại người yêu. Theo phong tục hôn nhân của người Thái xưa, trước khi kết hôn người con trai phải đến nhà vợ ở rể. Khoảng một đến ba năm đầu anh đi làm cho nhà vợ nhưng phải ở đằng quản (một phía đầu nhà, chỉ dành cho khách và đàn ông trong nhà), ăn riêng mâm, được coi như khách ở chơi. Sau thời gian thử thách trên, nhà gái mới chính thức cho anh làm rể trong, được làm lễ chung chăn gối. Thời hạn rể trong cũng khoảng từ một đến ba năm, theo yêu cầu của nhà gái. Hết hạn ở rể, vợ chồng được nhà vợ chia của cho ra ở riêng hoặc về ở nhà chồng. Cô gái đã chờ người yêu hết thời hạn rể ngoài, lại hết cả thời hạn rể trong. Năm cuối cùng đã hết, cô phải đi về nhà chồng. Đúng lúc đó thi người yêu cô trở về, nhimg tất cả đã trở nên quá muộn : “Lời tình tự lắng sâu trong dạ – Yêu em , anh tiễn đưa em về tới tận nhà”. Trên đường xa dằng dặc, anh vừa an ủi cô vừa dặn dò tỉ mỉ từng nết ăn nết ở sao cho đẹp lòng gia đình nhà chồng:

Bậc thang cuối nhà chồng chớ ngồi,
Ghế chị chồng ngồi chớ đụng,
Giữ gạo đừng chửi lợn,
Chăn lợn đừng chửi gù…

Anh săn sóc cô như một người anh, đỡ đần an ủi khi cô bị nhà chồng hắt hủi, đánh đập. Anh cũng dặn dò cô về mối tình thuỷ chung khăng khít của mình: “Không lấy được nhau mùa hạ, ta sẽ lấy nhau mùa đông – Không lấy được nhau thời trẻ, ta sẽ lấy nhau khi goá bụa về già”. Cũng chính vì những lời dặn dò yêu thương vô cùng kì lạ và cảm động đó mà truyện thơ có tên Tiễn dặn người yêu.

Chứng kiến những bất công và sự hành hạ dã man của gia đình nhà chồng với cô, anh đau xót hơn cả chính mình bị hành hạ. Từ chỗ dặn cồ phải làm một người dâu hiền thảo, đến lúc đó anh lại dặn cô:

Rửa ốc rửa từng con,
Rửa bát xóc cả rổ
Rửa muôi gõ miệng nồi…

Bị đánh đập, hành hạ, quá đau khổ và thất vọng, cô trở nên vụng dại, ngẩn ngơ. Nhà chồng liền mang cô về trả cho cha mẹ. Vừa về nhà, cha mẹ vội bán đứt cô cho một người đàn ông khác. Lần này về nhà chồng, cô lại càng tỏ ra vụng về, bướng bỉnh hơn: “Đêm ngủ những chê đệm, tỉnh dậy lại nhiếc chồng – Chải tóc thì chải ngược, ngồi ghế lật ngửa ghế…”. Nhà chồng không chịu được bèn đem cô ra chợ bán. Nhưng từ sáng tới chiều chẳng có ai ngó ngàng, họ đành đổi cô lấy bó lá dong. Người đổi cô về lại chính là người yêu cũ. Lúc này anh đã có nhà cao cửa rộng, vợ con để huề, không nhận ra người yêu trẻ đẹp xưa trong hình hài tàn tạ. Đau khổ, cô mang đàn môi (kỉ vật xưa anh tặng) ra thổi. Nhận ra cô qua tiếng đàn mội, vui mừng khôn xiết, anh chia tài sản gia đình cho vợ cũ ra ở riêng, rồi sống hạnh phúc cùng cô.

Câu chuyện thương tâm của đôi bạn tình người Thái đã kết thúc có hậu. Sau bao đau khổ, cuối cùng những người yêu nhau đã được về đoàn tụ bên nhau. Kết thúc đó chính là niềm an ủi và làm nên sức hấp dẫn của Tiễn dặn người yêu đối với bao chàng trai cô gái Thái các thế hệ.

Đoạn trích Lời tiễn dặn đã thể hiện được một phần chủ đề và cái hay, cái đẹp của truyện thơ về cả nội dung và nghệ thuật. Đó là tâm trạng đau khổ của cô gái khi phải về nhà chồng. Cô gái ước hẹn sẽ chờ người yêu trở về, nhưng người kia đã hết hạn rể ngoài lại đủ công rể trong mà người yêu đâu không thấy. Cô đành phải theo chồng về nhà. Những câu thơ mở đầu đoạn trích giới thiệu hoàn cảnh của cô:

Vừa đi vừa ngoảnh lại,
Vừa đi vừa ngoái trông,
Chân bước xa lòng càng đau, nhớ…

Phải về nhà chồng nhưng chưa gặp được người yêu để nói lời giã biệt, nên “Chân bước xa lòng càng đau, nhớ”. Hoàn cảnh ấy tạo ra tâm trạng bồn chồn, đau khổ, không yên. Hình ảnh cô vừa đi vừa ngoảnh lại, vừa đi vừa ngoái trông, lòng càng đau, nhớ… đã thể hiện tâm trạng trên. Các điệp ngữ vừa đi vừa ngoái, vừa đi vừa ngoảnh chỉ tâm thế của người đi chẳng để vào việc đi mà đang để ở phía sau, ở quá khứ thơ mộng đã dần trở thành kỉ niệm. Hơn nữa, cụm từ tới rừng ớt, tới rừng cà, tới rừng lá ngón kết hợp với động từ chờ, đợi, ngóng trông khiến ta hình dung con đường đi xa ngái và trạng thái dùng dằng, bồn chồn, chờ đợi “Bước đi một bước giây giây lại dừng” của cô. Rừng ớt, rừng cà (dại), rừng lá ngón là những hình ảnh thiên nhiên cụ thể, những loại cây cỏ đặc biệt của rừng núi được thể hiện tăng tiến dần, làm cho lời thơ mang bản sắc văn hoá các dân tộc miền núi và mang tính ước lệ cao về những nỗi cay đắng vô tận, trạng thái tâm lí đau khổ, day dứt chất chứa trong lòng nhân vật. Cùng với trạng thái đầy đau khổ đó, dường như cô lo âu, dự cảm được điều không may mắn đang chờ đợi mình ở phía trước, ở gia đình nhà chồng.

Ở đây, cảnh đã góp phần thể hiện tình, cảnh chính là tình, làm nền để cho tình cảm, nỗi niềm được bộc lộ sinh động và sâu sắc. Cả cảnh và tình đều thể hiện sự lo lắng, đau khổ, bế tắc của cô gái khi về nhà chồng. Cùng với cảnh, trong truyện thơ nhiều lần còn có hình ảnh nước mắt của cô gái, lần nào nước mắt cũng chảy dài, chảy nhiều như sông như suối:

Nước mắt rỏ hai dòng,
Rỏ ba dòng,
Dòng rơi đằng trước đủ tràn nam máng,
Dòng rơi đẳng sau đủ cho em rửa mặt ủn cơm…

Nỗi đau khổ đó bắt nguồn từ cuộc hôn nhân không tự nguyện, không có tình yêu của cô, mà nguyên nhân sâu xa là do xã hội phong kiến dân tộc Thái đã dành cho cha mẹ quyền định đoạt hôn nhân của con cái, đặc biệt là con gái. Cho nên nỗi đau khổ của cô cũng là nỗi khổ đau chung của những người phụ nữ Thái trong xã hội cũ.

Đó là tâm trạng, tình cảm của chàng trai khi tiễn người yêu về nhà chồng

Ra đi với hi vọng làm giàu, trở về chuộc lại người yêu, nhưng khi trở về chàng trai mới biết mình đã quá trễ tràng “đành nhìn em yêu bước về nhà chồng”. Tâm trạng đầu tiên ào đến trong lòng anh là sự đau khổ, tiếc nuối khôn nguôi. Nuối tiếc mà không thể níu kéo người yêu, chỉ đành đi theo cô về tận nhà chồng. Tâm trạng đó thể hiện qua lời nói đầy cảm động:

Được nhủ đôi câu anh mới đành lòng quay lại
Được dặn đôi lời, anh yêu em mới chịu quay đi.

Dù đã muộn rồi, dù có phải xa em anh cũng muốn được nói đôi lời mới yên lòng chia biệt. Tâm trạng đó còn được thể hiện qua niềm ao ước tội nghiệp, mang tình cảm tha thiết, quyến luyến, tình yêu sâu sắc của anh. Theo phong tục của người Thái, khi một người thân yêu mất đi, người ta đốt theo mấy sợi tóc hay những vật dụng thân thiết của người sống để lửa thiêu xác thêm đượm. Anh ao ước được “kề vóc mảnh – Quấn quanh vai ủ lấy hương người – Cho mai sau lửa xác đượm hơi…”. Anh muốn giữ lại hơi hướng của người yêu cho đến chết, để những kỉ niệm yêu thương giữa hai người sẽ cùng anh lên giàn thiêu. Tinh yêu sâu sắc ấy còn thể hiện ở hành động săn sóc thiết tha của anh. Anh tiễn người yêu đến tận nhà chồng, bồng bế, chăm sóc con nhỏ của cô suốt dọc đường đi như đứa con bé bỏng của chính mình. Anh muốn được “Một lát bên em thay lời tiễn dặn !” và dường như thay cho cả quãng đời cô đơn còn lại của mình… Tâm trạng ấy còn là sự bàng hoàng, không thể tin rằng tình yêu của anh quá ngắn ngủi “chưa trọn một ngày, chưa đầy một khắc” đã phải chia li. Thời gian ở đây là thời gian tâm lí, thời gian cảm thức, không còn là thời gian thực tế nữa. Từ láy chưa trọn, chưa đầy biểu hiện sự dở dang, như càng làm rõ hơn sự bàng hoàng, tiếc nuối của chàng trai. Tất cả những cảm nghĩ, hành động ấy đều là minh chứng sinh động cho tình yêu sôi nổi, tha thiết, chân thành và bộc trực của anh. Ta cũng hiểu thêm thế giới tâm hồn, tình cảm vừa phong phú, vừa thuần phác của các chàng trai dân tộc Thái trong tình yêu.

Mặc dù quyến luyến, nuối tiếc người yêu, nhưng sâu xa trong lòng anh vẫn hiểu “Của không mua, lẽ đâu được giữ liền tay”, anh không có thời gian rể ngoài cũng chẳng có thời gian rể trong, không có “gói trầu mang đến gửi” để được nhà gái công nhận thì làm sao có thể giữ được người yêu, làm sao hai người có thể nên vợ nên chồng. Tiếc nuối, quyến luyến và cũng có lúc từng muốn “Không lấy được em anh làm loạn giữa phủ – Không lấy được em anh làm loạn giữa mường” nhưng lòng anh vẫn luôn canh cánh lời tự nhắc “anh đành lòng quay lại”, “anh mới chịu quay đi”,… Anh vẫn như nghe văng vẳng đâu đây tiếng nói khách quan, nghiêm khắc của tập tục, tiếng nhắc nhở của thực tại tỉnh táo, nhắc anh hãy thoả hiệp với số phận, thuận theo tập tục. Anh đau khổ, nuối tiếc nhưng đành tiễn người yêu ra đi. Điệp từ quay đi, quay lụi được lặp lại nhiều lần cho thấy lí trí mách bảo chàng trai phải hiểu hoàn cảnh không thể thay đổi của hai người, đồng thời tình cảm nuối tiếc tình yêu, luyến tiếc người yêu cũng thật là sâu nặng khiến anh không đành dứt.

Tâm trạng rối bời, đầy mâu thuẫn đó là của một người vừa có tình yêu tha thiết, thuỷ chung vừa có tâm hồn trong sáng, lành mạnh; vừa hít thở không khí thấm đẫm luật lệ nghiêm khắc của cộng đồng, vừa khao khát một tình yêu tự do.

Đâu phải ngẫu nhiên, trong 1846 câu thơ của tác phẩm Tiễn dặn người yêu chí’ có hơn bốn trăm câu tiễn dặn nhưng nội dung đó lại được lấy để đặt tên cho cả truyện thơ này. Bởi chủ đề tiễn dặn đã thấm đẫm trong từng câu của truyện thơ và lời tiễn dặn là lời hay nhấí, cảm động và thể hiện sâu sắc nhất màu sắc văn hoá dân tộc Thái. Trong truyện thơ có hai lần chàng trai tiễn biệt và dặn dò cô gái: Lần đầu trên đường anh tiễn cô về nhà chồng và lần thứ hai khi anh phải chứng kiến cảnh nhà chồng đánh đập, hành hạ cô.

Hai lời tiễn dặn trong hai hoàn cảnh khác nhau, vì vậy mỗi lời mang một sắc thái riêng của tình cảm và tâm trạng nhân vật. Lời tiễn dặn ờ phần đầu nổi bật một chữ đợi và lời tiễn dặn ở phần sau là một chữ cùng. Lời dặn dò đó cũng là lời hẹn ước của chàng trai.

Trên đường tiễn người yêu về nhà chồng, chàng trai dặn dò cô hết lời hết lẽ. Nhưng những lời dặn dò được nhắc đi nhắc lại nhiều nhất chính là “đôi ta yêu nhau”, “đợi nhau”. Thời gian chờ đợi được tính bằng mùa vụ của cây cối, của tự nhiên : đợi đến tháng năm lau nở, đợi mùa nước đỏ cá về, đợi chim tăng ỉó hót gọi hè,… Bước đi của thời gian không tính bằng ngày, giờ mà được diễn tả bằng những hình ảnh không gian quen thuộc, bình thường, thuần phác, gắn bó với cuộc sống dân tộc : tháng lau nở, đợi mùa nước đỏ cá về, chim tăng ló hót gọi hè,… những hình ảnh quen thuộc đó đã phần nào phác hoạ tình cảm chân thực, mộc mạc, bền chắc của chàng trai. Không những thế, thời gian chờ đợi còn được tính bằng cả đời người : không lấy được nhau mùa hạ, đợi lấy nhau mùa đông ; không lấy được nhau thời trẻ, đợi lấy nhau khi goá bụa về già… Mùa hạ, mùa đông là ẩn dụ chỉ thời gian của tuổi trẻ và tuổi già, ẩn dụ về thời gian trôi chảy, đổi thay. Đông qua, hè tới rồi lại đông qua… đời người là những mùa hè, mùa đông đó. Nhưng dù hè hay đông, dù trẻ hay già, thời gian có đổi thay thì có một điều không hề thay đổi, đó là tình yêu của hai người. Nhắc đến sự biến đổi của thời gian, của mùa vụ, của muôn vật ở đây lại là để làm rõ thêm một sự đối lập, làm chắc chắn thêm một tình cảm không gì có thể íhay đổi, đó là tình yêu của anh đối với cô.

Tuy nhiên, “đợi” có nghĩa là chấp nhận thực tại không thể gần gũi, gắn bó; “đợi” nghĩa là chỉ còn hi vọng ở tương lai. Lời dặn dò đó thể hiện tình nghĩa thuỷ chung, tình yêu sâu sắc, bất tử của chàng trai, đồng thời cũng thể hiện thái độ bất ỉực, đành chấp nhận tập tục, chấp nhận cuộc hôn nhân do cha mẹ hai bên định đoạt.

Theo phong tục chất phác và giàu nhân văn của người Thái, nếu hai người yêu nhau mà không lấy được nhau, họ sẽ thành anh em bè bạn, gần thì thỉnh thoảng thăm nhau, xa xôi thì hằng năm có những phiên “chợ tình”, họ tìm về chơi chợ, gặp gỡ chia sẻ vui buồn cùng nhau, rồi ai nấy lại quay về chăm lo cho gia đinh, con cái, cho cuộc sống năm này sang năm khác không mấy an nhàn của mình. Chàng trai trong truyện thơ tiễn người yêu về tận nhà chồng, ở lại đó một thời gian, dặn dò cô “hết lời hết lẽ” để mong cô thành người dâu thảo theo chuẩn mực của người phụ nữ Thái:

Bậc thang cuối nhà chồng chớ ngồi,
Ghế chị chồng ngồi chớ đụng,
Giã gạo đừng chửi lợn,
Chưn lợn đừng chửi gà…

Anh dặn dò cô ứng xử theo những phong tục giàu nhân văn đó của dân tộc, điều này càng chứng tỏ anh chu đáo và có tình cảm rất lành mạnh trong sáng, không vì mất người yêu mà “giận cá chém thớt”. Nhưng trong thời gian ở đó, anh chứng kiến cảnh cô bị gia đình chồng hành hạ, bị coi rẻ, bắt làm quần quật mà chẳng cho ăn, bị đánh ngã dúi dụi:

Em ngã lãn chiêng cạnh miệng cối lợn dũi,
Em ngã lăn đùng liền bên máng lợn vầy,
Ngã không kịp chống kịp gượng.

Dường như sự hành hạ về cả thể xác lẫn tinh thần khiến cô gái vốn xinh đẹp “Ngón tay thon lá hành, đôi mắt đẹp dài như lá trầu xanh…”, có tình yêu trong sáng, hồn hậu đã thành con người khác, câm lặng, vô cảm dưới những trận đòn roi, hắt hủi ở mọi nơi mọi lúc của chồng và gia đình chồng. Tinh cảnh đáng thương đó là tiếng kêu cứu không lời về quyền sống của người phụ nữ, gợi nỗi thương cảm xót xa đối với người nghe.

Còn chàng trai, anh bị đặt vào hoàn cảnh thật trớ trêu, đau khổ. Yêu mà không thể lấy được nhau, hơn nữa, yêu mà phải bó tay nhìn người yêu bị đánh đập, hành hạ. Thương cô, anh càng săn sóc cô hơn bằng lời lẽ và cả bằng hành động sẻ chia : dậy đi em, đầu bù anh chải cho, tốc rối anh búi hộ, lam ống thuốc em uống khỏi đau,… Trong lời nói đầy săn sóc ân cần đó còn ẩn chứa nỗi xót xa, đau đớn dường như hơn cả nỗi đau mà cô gái phải chịu. Yếu tố tự sự đã kết hợp chặt chẽ với yếu tố trữ tình, lời yêu thương chứa đầy cảm xúc khiến câu chuyện có sức biểu cảm lớn. Lời truyện thơ Tiễn dặn người yêu (xống chụ xon xao) mượn rất nhiều từ kho tàng ca dao dân tộc Thái với những câu hát “Tản chụ xống xương” (lời yêu thương hát tiễn người yêu) và “Tản chụ xiết xương” (lời yêu thương dành cho người yêu).

Những hình ảnh và lời thơ ấy ỉàm cho ngôn ngữ truyện thơ gần gũi, quen thuộc với sinh hoạt dân gian đồng thời rất đậm tính chất trữ tình. Lời chàng trai cũng là lời truyện thơ, lời các tác giả dân gian Thái, thấm nhuần tình cảm nhân đạo, đầy yêu thương, thông cảm với số phận của cô gái cũng như của những người phụ nữ Thái xưa.

Đó cũng là tình cảm dẫn đến lời tiễn dặn của chàng trai ở phần hai của đoạn trích. Nếu lời tiễn dặn ở phần đầu nổi bật một chữ ĐỢI, thì lời tiễn dặn ở phần sau nổi bật chữ cùng với mong muốn cùng nhau thoát khỏi tập tục để gắn bó.

Cùng với tình cảm xót thương, anh muốn phá tung sợi dây trói buộc của tập tục, để cùng người yêu sống chết bên nhau.

“Chết ba năm hình còn treo đó
Chết thành sông, vục nước uống mát lòng,
Chết thành đất, mọc dây trầu xanh thắm,
Chết thành bèo, ta trôi nổi ao chung,
Chết thành muôi, ta múc xuống cùng bát”.

Hình ảnh cái chết được lặp lại sáu lần, cũng là sáu lần anh khẳng định sự gắn bó. Không thể sống xa nhau, hãy sống cùng nhau cho đến chết, dù phải chết cũng nguyện được chết cùng nhau. Cái chết là sự thử thách tột cùng đối với con người, những tình yêu nhỏ bé, vị kỉ không thể vượt qua cái chết, nhưng tình yêu mãnh liệt và trong sáng của anh vượt qua cả thử thách đó. Nói đến cái chết chính là nói đến khát vọng mãnh liệt được sống cùng nhau. Điệp từ chết được lặp đi lặp lại nhiều lần, vừa là lời dặn dò người yêu không quên mối tình cũ, vừa thể hiện thái độ dứt khoát của chàng trai cùng sống chết bên cô. Tuy hai lời tiễn dặn ở hai hoàn cảnh khác nhau, nhưng cả hai lời đều thể hiện tình yêu sâu sắc, thuỷ chung và quyết tâm vượt mọi trở ngai để gắn bó.

Nguyên nhân sâu xa của sự chia li và những nỗi đau khổ của chàng trai, cô gái trong truyện thơ chính là tập tục hôn nhân gả bán, cha mẹ có quyền định đoạt duyên phận cho con cái. Vì vậy, những lời tiễn dặn đầy đau khổ của họ cũng là những lời tô cáo, phản kháng tập tục hôn nhân Thái xưa, tập tục đã bóp chết tình cảm yêu thương tự nhiên của con người, khiến cho họ phải suốt đời đau khổ.

Trong lời tiễn dặn có một mong muốn được nhắc lại nhiều lần, đó là mong được “cùng chết” với người yêu của chàng trai. Điều đó chứng minh cho tình yêu nồng nàn, mãnh liệt của anh, cũng chính là thái độ phản kháng lại hoàn cảnh. Xã hội không đê cho những người yêu nhau được sống bên nhau, họ chỉ còn hi vọng được chết cùng nhau, đó là một xã hội bất công, vô lí, cần phải thay đổi.

Chàng trai đã có lúc từng mong ước “Ta ước cánh ta như cánh ve vằng – Bay muôn phương tìm xem thử mệnh nàng – Mệnh nàng xa ta một sải hay xa ta một với – Xa một sải ta với liền một với – Xa một với ta với liền một gang – Xa một gang đôi mệnh dính liền”; cũng có lúc anh phẫn nộ: “Không lấy được em anh làm loạn giữa phủ – Không lấy được em anh làm loạn giữa mường”, nhưng mong ước mãnh liệt và thái độ phẫn nộ ấy lẻ loi, yếu ớt giữa cộng đồng. Anh vẫn phải chấp nhận tập tục, sống theo hoàn cảnh, vẫn phải tiễn người yêu về nhà chồng rồi quay về lấy một người vợ khác, chỉ còn hi vọng “sẽ lấy nhau khi goá bụa về già”. Khát vọng tự do yêu đương, mong muốn tha thiết được sống chết với người yêu đành gửi vào những lời tiễn dặn. Vì vậy, lời chàng trai tiễn dặn người yêu cũng đồng thời thể hiện khát vọng tự do yêu đương, khát vọng được giải phóng, được sống trong hôn nhân hạnh phúc của các chàng trai cô gái Thái:

Yêu nhau, yêu trọn đời gỗ cứng,
Yêu nhau, yêu trọn kiếp đến già,
Ta yêu nhau tàn đời gió, không rung không chuyển,
Người xiểm xui, không ngoảnh không nghe.

Câu thơ gọn, chắc, nghệ thuật sử dụng từ láy có tác dụng khẳng định khát vọng tự do yêu đương và quyết tâm trước sau như một, không gì thay đổi của chàng trai. Khát vọng đó như được khắc vào gỗ, tạc vào đá.

Để tăng thêm khát vọng tự do yêu đương và tình yêu tha thiết, thuỷ chung của chàng trai, cô gái Thái, đoạn trích còn mượn rất nhiều hình ảnh thiên nhiên. Thiên nhiên đó vừa là những hình ảnh quen thuộc đối với nếp cảm, nếp nghĩ của người Thái, vừa góp phần thể hiện tâm tư, tình cảm, hoàn cảnh và tâm trạng của nhân vật truyện thơ. Hình ảnh so sánh tình yêu với độ bền vững của tự nhiên : vàng, đá, gió, trọn đời gổ cứng,… khiến cho tình yêu trở nên trường tồn, vĩnh cửu. Hình ảnh thiên nhiên và hình ảnh tình yêu hợp lại, đối sánh, cùng tôn nhau lên làm thành vẻ đẹp đặc biệt của lời thơ. Sự bền vững của tình yêu được đem so sánh với sự trường tồn của thiên nhiên và ngược lại, sự trường tồn vô cảm của thiên nhiên được tình yêu thổi vào chất thơ mộng, thành ra có hồn, trở nên hữu tình.

Tinh yêu vững như vàng như đá, như gỗ cứng, tàn đời gió không rung chuyển đôi thay,… Tình yêu đó tha thiết mà khônỉĩ bi luỵ, tiềm ẩn sự cứng cỏi, bản lĩnh mà không phô trương, mòn sáo.

Thiên nhiên trong đoạn trích khônơ chí thể hiện tâm trạng, tình cảm nhân vật mà còn thấm đẫm màu sắc dân tộc Thái. Suối, thác, rừng cà, rừng ỉ ủ ngón, mùa nước lũ, chim tăng ló gọi hè,… là những hình ảnh chỉ gắn liến với không gian miền núi, thể hiện tư duy hồn nhiên, độc đáo của đổng bào dân tộc thiểu số. Cách mượn thiên nhiên để diễn tả thời gian, diễn đạt tình cảm cũng rất đặc sắc : đợi đến thủng năm lau nở, đợi mùa nước đỏ cú về…, chết thành sông, chết thành đứt, chết thành bèo, bền chắc như vàng như đá, yêu trọn đời gỗ cứng…, tàn đời gió không rung không chuyển,… Lối diễn đạt này dường như chỉ có trong văn thơ các dân tộc thiểu số. Thiên nhiên ấy vừa hùng vĩ, vừa mộc mạc và giàu chất thơ, chất nhạc, tạo không khí vừa đặc sắc vừa thơ mộng cho truyện.

Kết thúc truyện thơ Tiễn dặn người yêu là sự trở về đoàn tụ trong hạnh phúc của chàng trai, cô gái sau bao trắc trở, sau thời gian lưu lạc đầy khổ đau. Đó chính là thắng lợi của tình yêu chung thuỷ, của tự do, đối lập với những luật lệ khắt khe, hà khắc trói buộc con người. Những kết thúc có hậu như vậy trong truyện thơ các dân tộc và truyện thơ Thái không nhiều, nhưng nó đã lạo được niềm tin tường, lạc quan, tiếp thêm sức mạnh cho những đôi lứa yêu nhau vượt qua trở ngại đê được sống hạnh phúc. Kết thúc đó đã rọi chiếu ánh sáng hi vọng và niềm tin vào cuộc sống vốn ảm đạm của đồng bào dân tộc Thái xưa. Đó là lí do khiến truyện thơ Tiễn dận người yêu được người Thái các thế hệ yêu quý và tự hào.

  • Kết bài:

Toàn bộ đoạn trích là lời tiễn dặn người yêu, hành động chăm sóc ân cần, xót xa thương cảm và âm vang điệp khúc nguyện thề giữ trọn tình yêu. Kết thúc truyện thơ Tiễn dặn người yêu là một kết thúc có hậu theo truyền thống của vân học dân gian: ước mơ thành sự thật. Hai người đoàn tụ, làm lại cuộc đời trong tĩnh yêu bất diệt. Chàng trai đã giũ đúng lời nguyện ước của mình “Không lấy được nhau thời trẻ, ta sẽ lấy nhau khi goá bụa về già”. Con người đã vượt lên trên số phận khắc nghiệt bởi những hành động tích cực đáng trân trọng, bởi lòng chung thuỷ, sự cao thượng và sức mạnh tình yêu chân chính

Bài làm 3:

  • Mở bài:

Tình yêu – một đề tài từng làm rung động trái tim biết bao người và ngân lên thành biết bao lời thơ nhân loại. Mỗi một nhà thơ tìm đến một cách biểu hiện khác nhau: một tình yêu mang yếu tố triết lý trong thơ Tago, một tình yêu nồng nàn đắm say trong thơ Puskin, một tình yêu rạo rực tràn đầy cảm xúc trong thơ Xuân Diệu và “Tiễn dặn người yêu” cũng là một trong số đó, tác phẩm nổi bật về phong cách sáng tác truyện thơ kết hợp rất nổi tiếng của dân tộc Thái. Những trắc trở trong tình yêu, trong hôn nhân đôi khi như thử thách nằm trên con đường dài dẫn đến hạnh phúc, mà chính những con người trong cuộc mới cảm nhận hết, đặc biệt tâm trạng từ phía người con trai – vế chủ động trong một cuộc tình mang đầy sâu sắc, da diết, được miêu tả rõ qua đoạn trích “Lời tiễn dặn”.

  • Thân bài:

Truyện thơ là những truyện dài kể bằng thơ, có sự kết hợp ăn ý, hài hòa giữa hai yếu tố tự sự và trữ tình. Một trong hai chủ đề nổi bật của thể loại này là khát vọng tự do yêu đương và hạnh phúc lứa đôi. “Tiễn dặn người yêu” là truyện thơ của dân tộc Thái gồm 1846 câu thơ là lời của nhân vật trong cuộc kể lại câu chuyện tình yêu, hôn nhân của vợ chồng mình. Cốt truyện diễn ra theo ba chặng: Yêu nhau tha thiết – chia lìa, đau khổ – đoàn tụ hạnh phúc. Đoạn trích này đặc biệt hoàn toàn là lời của chàng trai, cùng tâm trạng đau đớn trên đường tiễn cô gái về nhà chồng, phải chứng kiến cảnh cô bị chính người chồng đánh đập, hình ảnh cô gái hiện lên gián tiếp trong lời nói chân thành của anh.

Điều đau khổ nhất trong tình yêu đó là người mình yêu ở cạnh bên mà không thể chạm vào, muốn quan tâm mà không thể nào quan tâm được. Đó là khi ở gần bên nhau, mà tồn tại một vách ngăn khoảng cách, mà bản thân của mỗi người không có cách nào để có thể vượt qua. Đó cũng chính là tâm trạng, nỗi khổ tâm của cô gái trong truyện, bịn rịn, lưu luyến, không muốn xa rời người yêu:

“Vừa đi vừa ngoảnh lại,
Vừa đi vừa ngoái trông,
Chân bước xa lòng càng đau nhớ.
Em tới rừng ớt ngắt lá ớt ngồi chờ,
Tới rừng cà ngắt lá cà ngồi đợi,
Tới rừng lá ngón ngóng trông”.

Những hành động liên tiếp diễn ra “ngoảnh lại, ngoái trông” đã bộc lộ rõ nàng đang chờ đợi được gặp mặt chàng trước khi trở thành vợ của một người khác. Cấu trúc thơ “vừa đi vừa…” được lặp lại hai lần khiến người đọc liên tưởng đến sự day dứt, nặng nề trong bước chân của cô gái. Tình yêu ấy như đang níu đôi chân cô lại, không thể dứt khoát được do bị sức nặng trong lòng đè nén. Kèm theo đó, là một loạt hành động tiếp theo (ngắt lá ớt, ngắt lá cà) với mục đích duy nhất chỉ là muốn chờ đợi người yêu. Các từ ngữ được dùng với độ dày đặc, lặp đi lặp lại như biểu hiện tính đau khổ, nỗi lòng nhớ thương của cô gái, mãi mong người yêu nhưng chẳng thấy anh. Qua mỗi cánh rừng đều dừng lại để ngắt lá, người con gái muốn níu kéo thời gian dài ra, khát khao muốn được gặp lại người yêu thêm chút nữa. Những hành động diễn ra một cách vô định, thể hiện rõ tâm trạng đau khổ, nỗi lòng xót xa, quyến luyến không muốn rời xa, kết thúc mối tình tuyệt đẹp của mình. Cách mô tả đó chứng tỏ chàng trai rất thấu hiểu tình cảm của cô gái. Hai người có chung một cảm nhận khi phải xa nhau: bịn rịn, quyến luyến , đau khổ khi phải chia lìa.

Trong giây phút ấy, phải chăng nhờ tiếng gọi của hai trái tim đồng điệu mà chàng trai đã cảm nhận được người yêu đang cần mình, như hai người đã hẹn nhau từ trước, chàng trai đã tới những nơi người yêu mình từng đi qua:

“Anh tới nơi, em bẻ lá xanh em ngồi;
Được nhủ đôi câu, anh mới đành lòng quay lại,
Được dặn đôi lời, anh yêu em mới chịu quay đi”

Lời tiễn dặn nghe sao mà da diết, day dứt quá. Lúc tiễn đưa này, anh – người đàn ông dân tộc Thái ấy, với những cử chỉ thân mật, tình cảm tuyệt vời, trước người con gái mình yêu, hoàn cảnh éo le hiện tại, anh cũng như chị, cũng muốn níu kéo thời gian giây phút ngắn ngủi được ở bên chị. Ngôn ngữ xưng hô của người Thái nghe sao mà ngọt ngào quá. Anh xưng “anh yêu em ý nói anh yêu của em” và anh cũng gọi chị là “người đẹp anh yêu” ngay từ câu thứ hai của bài thơ, thể hiện tình yêu anh dành cho chị vẫn còn nguyên vẹn, vẫn mặn nồng, sâu sắc dù cho giờ đây chị đã cất bước theo chồng.

Không ít người sống phụ thuộc trong tình cảm, thậm chí “hòa tan” cả vào người mà họ yêu. Họ luôn muốn lúc nào người ấy cũng phải đâu đó bên cạnh mình và nghĩ về mình. Và người Thái cũng thế nên mới có một phong tục như sau:

“Xin hãy cho anh kề vóc mảnh,
Quấn quanh vai ủ lấy hương người,
Cho mai sau lửa xác đượm hơi
Một lát bên em thay lời tiễn dặn!”

Theo phong tục hỏa táng của người dân tộc Thái xưa, khi con người chết đi linh hồn muốn siêu thoát cần có hương của người mà mình yêu thương nhất. Vì thế, chàng trai nghĩ rằng không lấy được người mình yêu coi như rằng cả đời này sẽ không có ai yêu, vì vậy trong giây phút này, khi chàng còn gần nàng thì muốn được quấn lấy, gần sát nàng để mong còn lưu luyến hương thơm của người yêu để sau khi chết sẽ không trở thành kẻ cô đơn, lạc lõng.

Ai mà không mong sau khi lấy được người mình yêu thì có thể cùng nhau xây dựng một tổ ấm viên mãn, hạnh phúc bên bạn đời. Thế nhưng, có mấy người đàn ông nào được như anh, vì yêu chị mà tấm lòng vị tha, bao dung của anh đã vượt cả giới hạn thông thường:

“Con nhỏ hãy đưa anh ẵm,
Bé xinh hãy đưa anh bồng,
Cho anh bế con dòng, đừng ngượng,
Nựng con rồng, con phượng, đừng buồn”.

Biết bao nhiêu lý do thực tại như đang chống lại tình yêu của anh, nhưng tình yêu của chàng trai đối với cô gái không hề thuyên giảm, không những chỉ yêu mình chị, còn dành cả tình yêu luôn cả đứa con riêng của cô gái. Đó là cách thể hiện tình yêu cao cả, anh yêu tất cả những gì thuộc về cô gái và sẵn sàng chia sẻ những khó khăn trong sinh hoạt đời thường. Chàng trai này cũng giống với nhân vật trong ca dao người Việt:

“Con mình những trấu cùng tro
Ta đi gánh nước rửa cho con mình”

Những tình cảm chân thành, cao đẹp đó càng là cái cớ để họ đến với nhau. Và lời thề nguyền được bộc bạch đầy quyết tâm với người con gái anh yêu, với tình yêu sắt đá của hai người:

“Đôi ta yêu nhau, đợi tới tháng Năm lau nở,
Đợi mùa nước đỏ cá về,
Đợi chim tăng ló hót gọi hè.
Không lấy được nhau mùa hạ, ta sẽ lấy nhau mùa đông,
Không lấy được nhau thời trẻ, ta sẽ lấy nhau khi goá bụa về già”.

Chàng trai một lần nữa nhấn mạnh hoàn cảnh chia ly đau khổ của mình. Sau những tháng ngày phiêu bạt làm việc để có thể kiếm tiền trở về quê hương, điều anh mong muốn nhất chính là lấy người mình yêu. Tuy nhiên hiện thực nghiệt ngã đã khiến họ mới gặp gỡ đã đến hồi chia xa. Chàng trai đã tạc lên trời đất và khắc ghi trong lòng mình lời thề tình yêu son sắt. Đoạn thơ đã trở thành một trong những lời bày tỏ tình yêu hay nhất trong văn học Việt Nam.Chàng trai quyết tâm chờ đợi, không quản sự cách trở của thời gian và không gian. Họ đợi nhau từ mùa lau nở, mùa lũ về lại đến mùa hè chim tăng ló hót. Tiếp đến là cột mốc từ “thời trẻ đến khi “góa bụa về già”. Đối với chàng trai việc đến với nhau không bao giờ là muộn, vì thế nếu tuổi thanh xuân không được ở bên nhau thì khi “Đầu bạc răng long” ta sẽ đoàn tụ. Bên cạnh đó, tác giả dân gian đã sử dụng nghệ thuật điệp cấu trúc “Không lấy được nhau…ta sẽ lấy nhau…” khẳng định sự quyết tâm đến cùng, sẽ tìm mọi cách để được ở bên người anh yêu.

Trong tình yêu không phải bao giờ cũng đong đầy cảm xúc yêu đương, nồng cháy, thiết tha mà đằng sau nỗi yêu thương, mong nhớ, gần gũi là sự biệt ly, chia cách. Và ở đây, đó chính là nỗi đau khổ, luôn giằng xé trong tâm tư của chàng trai khi chứng kiến cô gái bị đánh đập, hành hạ:

“Dậy đi em, dậy đi em ơi!
Dậy rũ áo kẻo bọ,
Dậy phủi áo kẻo lấm!
Đầu bù anh chải cho,
Tóc rối đưa anh búi hộ!
Anh chặt tre về đốt gióng đầu,
Chặt tre dày, anh hun gióng giữa,
Lam ống thuốc này em uống khỏi đau”

Vì muốn một lòng chung thủy son sắt với người yêu, nên có lẽ cô gái đã phản kháng. Cô bị đánh đập, hành hạ, và bị đối xử như người ở trong nhà. Tất cả những việc cô làm, chàng trai đều hiểu hết, giờ đây trong chàng là một nỗi xót xa, bất lực cùng cực. Điệp ngữ “Dậy đi em” cho thấy giọng điệu tha thiết, nhẹ nhàng, đong đầy tình cảm trong lời nói của chàng trai. Các động từ “rũ”, “phủi”, “chải”, “búi” thể hiện sự tận tâm của anh khi chăm sóc người mình yêu. Tình yêu không dừng lại ở những nhớ nhung, những lời hò hẹn mà được chứng minh bằng hành động cụ thể. Ta thấy trong lời thơ trạng thái xót xa, cay đắng của đôi lứa yêu nhau mà không đến được với nhau.

Anh vực cô dậy không chỉ về thể xác, còn về cả tinh thần, giúp cô có ý chí, nghị lực để sống tiếp quãng đường khó khăn này, anh muốn nói với cô rằng dù cho có chuyện gì xảy ra thì cô sẽ không một mình, luôn có anh ở bên cô cùng cô vượt qua mọi sóng gió:

“Tơ rối đôi ta cùng gỡ,
Tơ vò ta vuốt lại quay guồng;
Quay lại guồng gỗ tốt cán thuôn,
Về với người ta thương thuở cũ”

Những hình ảnh “Tơ rối ta cùng gỡ”, “Tơ vò ta vuốt lại” là minh chứng cho câu hứa chàng sẽ cùng người yêu đối mặt mọi sóng gió, luôn là chỗ dựa vững chắc cho cô mỗi khi gặp trắc trở. Nhưng sức chịu đựng của con người là có giới hạn, tức nước thì vỡ bờ. Thực tế quá cay đắng, chàng trai quyết tâm muốn phá vỡ mọi quy tắc, giành lại người yêu được thể hiện qua những hình ảnh về cái chết:

“Chết ba năm hình còn treo đó;
Chết thành sông, vục nước uống mát lòng,
Chết thành đất, mọc dây trầu xanh thắm,
Chết thành bèo, ta trôi nổi ao chung,
Chết thành muôi, ta múc xuống cùng bát,
Chết thành hồn, chung một mái, song song”.

Nhân vật trữ tình nhắc đến cái chết không nhằm thể hiện sự bi lụy, bế tắc. Trái lại, chàng trai khẳng định sức sống mãnh liệt của tình yêu. Nó không những phá vỡ giới hạn của không gian hay thời gian mà còn vượt qua cả bờ cõi sinh – tử. Điệp từ “Chết thành…” cho thấy khát vọng chung thủy đến cùng. Hóa thành sông, họ sẽ là dòng nước mát. Hóa thành đất, đất sẽ nuôi lớn dây trầu xanh. Hóa thành phận bèo trôi nổi, bèo vẫn ở chung một vùng. Và hóa thành muôi, muôi cũng múc chung một bát. Tác giả dân gian sử dụng một loạt các hình ảnh giản dị, quen thuộc mà giàu sức gợi, thể hiện sâu sắc niềm tin của con người vào tình yêu. Sử dụng hình ảnh cái chết, chỉ để càng khẳng định sức sống mãnh liệt, muốn đoàn tụ bên nhau của hai người đã làm ta liên tưởng đến những vần thơ của Xuân Diệu:

“Phút gần gũi cũng như giờ chia biệt
Tưởng trăng tàn, hoa tạ với hồn tiêu,
Vì mấy khi yêu mà chắc được yêu!
Yêu, là chết ở trong lòng một ít.”

Có người nói: Tình yêu là một loại trách nhiệm. Trách nhiệm này, trải dài suốt một đời. Trong biển người mênh mông vô tận, có thể gặp một người chính là nhân duyên, nên khi quyết định gắn kết thì đừng tùy tiện buông tay. Và liệu rằng kiên trì mài giũa tình yêu cùng với niềm tin tưởng tuyệt đối sẽ đem đến niềm tin về cái kết có hậu như một câu chuyện cổ tích ngọt ngào?

“Đôi ta yêu nhau, tình Lú – Ủa mặn nồng,
Lời đã trao thương không lạc mất;
Như bán trâu ngoài chợ,
Như thu lúa muôn bông.
Lòng ta thương nhau trăm lớp nghìn trùng,
Bền chắc như vàng, như đá.
Yêu nhau, yêu trọn đời gỗ cứng,
Yêu nhau, yêu trọn kiếp đến già,
Ta yêu nhau tàn đời gió, không rung không chuyển,
Người xiểm xui, không ngoảnh không nghe”

Bằng biện pháp tu từ so sánh, tác giả đã khiến cho ta thêm biết được các phong tục, tập quán vô cùng đặc sắc của người Thái, và những câu chuyện tình yêu ngọt ngào của các cặp đôi dân tộc Thái. Sau bao sóng gió, nỗ lực giành lấy hạnh phúc, cuối cùng hai người đã đoàn tụ, được sống bên nhau trọn vẹn. Sức mạnh tình yêu chân chính sẽ khiến cho họ có một kết thúc vô cùng có hậu. Tình yêu của họ cũng giống như Khun Lú – Nàng Ủa, dù xa nhau nhưng tình yêu mãi mãi vẫn còn.

  • Kết bài:

Cái kết của họ chính là niềm tin vào một tình yêu chân chính. Nó có thể khiến những điều tưởng chừng không thể thành có thể. Họ sẽ cùng nhau vượt qua mọi gian nan, biến cố của cuộc đời này để nhận lại những gì xứng đáng nhất. Câu chuyện của hai người là một bằng chứng sống của niềm tin vào tình yêu chân chính trong xã hội xưa khắc nghiệt. Lời tiễn dặn cũng mang ý nghĩa sâu xa là sự tố cáo lên những cổ hủ, tập quán lạc hậu của người dân, đã làm họ dần mất dần đi sự tự do trong tình yêu, mất tính phản kháng. Đồng thời tác giả bày tỏ tiếng nói, khát vọng được tự do yêu đương, tự quyết định bạn đời, cuộc sống hôn nhân của các cặp đôi người Thái.

Bài làm 4:

Tiễn dặn người yêu (Xống chụ xon xao) kể về câu chuyện tình cảm động của đôi trai gái Thái cùng vói đau khổ cũng như khát vọng yêu đương của họ. Tiễn dặn người yêu là một trong những truyện thơ tiêu biểu và đặc sắc trong kho tàng văn học dân gian các dân tộc thiểu số, được bổ sung qua nhiều thế hệ người Thái. Người Thái coi đây là cuốn sách quý nhất trong mọi cuốn sách quý vì nó thể hiện rõ nét cuộc sống và tâm hồn Thái.

Truyện thơ Tiễn dặn người yêu gồm 1846 câu thơ, trong đó chỉ có gần 400 câu tiễn dặn. Đoạn trích được lựa chọn để đọc thêm rất tiêu biểu cho nội dung Cách miêu tả trong đoạn trích cho thấy rõ người con gái đã cố trì hoãn thời gian trên đường cất bước về nhà chồng. Mỗi cánh rùng nàng đi qua đều là một không gian biểu cảm tạo ra cái cớ để mong có cơ hội gặp người yêu:

Em tới rừng ớt ngắt lá ớt ngồi chờ,
Tới rừng cà ngắt lá cà ngồi đợi,
Tới rừng lá ngón ngóng trông.

Từ đầu đoạn trích, liên tiếp các từ ngoảnh lại, ngoái trông, đau nhớ, ngồi chờ, ngồi đợi,… được sử dụng dồn dập, liên tiếp đã thể hiện rõ nỗi lòng đau khổ, nhớ thương, quyến luyến của cô gái. Điều đặc biệt là hình ảnh cô gái lại hiện lên qua cái nhìn, tâm trạng của chàng trai giống như qua một thước phim quay chậm đến từng chi tiết. Điều này chứng tỏ chàng trai đã âm thầm quan sát cô gái với tất cả sự trìu mến, xót thương. Họ đã hiểu nhau đến từng hành động và ý nghĩ. Không gian núi rừng bình dị, quen thuộc của đồng bào Thái được miêu tả trực tiếp như một tấm phông rộng lớn cùng chia sẻ, đồng cảm với lòng người. Chàng trai đã tới vì dường như họ đã ước hẹn với nhau và như lời chàng giãi bày:

Anh tới nơi, em bẻ lá xanh em ngồi;
Được nhủ đôi câu, anh mới đành lòng quay lại,
Được dặn đôi lời, anh yêu em mới chịu quay đi.

Lời tiễn dặn của chàng trai thể hiện một tình yêu lãng mạn, thấm đượm vẻ đẹp huyền bí và hấp dẫn của phong tục, tín ngưỡng và hơn hết thảy là tâm hồn người đàn ông Thái đem đến cho khổ thơ một ấn tượng đặc biệt khó quên. Người Thái có tục hoả táng, muốn cho thân xác cháy đượm, linh hồn được siêu thoát, cần có hơi hương của người thân yêu nhất. Bởi thế, mặc dù nhận thức được hoàn cảnh, chàng vẫn gắn bó thuỷ chung. Chàng muốn gần “kề vóc mảnh”, được có hơi hương người yêu trong phút chia tay bịn rịn này để nếu có chết hồn cũng không bị cô đơn:

Xin hãy cho anh kề vóc mảnh,
Quấn quanh vai ủ lấy hương người,
Cho mai sau lửa xác đượm hơi,
Một lát bên em thay lời tiễn dặn!

Mở đầu đoạn trích, chàng trai đã âu yếm gọi cô gái là “người đẹp anh yêu”, “anh yêu em”. Cách xưng hô, cách gọi đậm chất trữ tình, đặc trưng cho lời ăn tiếng nói của đồng bào Thái và mang sắc thái trữ tình sâu sắc. Vẻ đẹp của người con gái Thái được miêu tả bàng một nét phác hoạ chính xác hết sức tài tình: “Xin hãy cho anh kề vóc mảnh” bởi ai đã từng tiếp xúc với người phụ nữ Thái hẳn sẽ ấn tượng với dáng vóc mảnh mai có phần kiêu sa của họ. Truyện thơ khác với các thể loại tự sự văn xuôi ở ưu thế tả người, tả cảnh, tả tình, ơ phần khác của truyện thơ này có một số dòng miêu tả vẻ đẹp của người con gái: “Ngón tay thon lá hành – Đuôi mắt dài như mắt lá trầu xanh”. Chính đoạn thơ này đã trở thành điểm nhấn và là cảm hứng tạo nên đầu đề của truyện thơ Tiễn dặn người yêu. Vì chỉ ở thời điểm này, tình yêu mới bộc lộ được hết sắc độ của nó, với yêu thương, đớn đau, tuyệt vọng và quyết tâm không gì lay chuyển. Mặc dù cô gái đã có con với người chồng mà cô không yêu nhưng điều đó khống làm giảm tình yêu, sự trân trọng của chàng trai dành cho cô. Anh vẫn nựng con của người yêu âu yếm như nựng con của chính mình:

Con nhỏ hãy đưa anh ẵm,
Bé xinh hãy đưa anh bồng,
Cho anh bế con dòng, đừng ngượng,
Nựng con rồng, con phượng, đừng buồn.

Có thể thấy sự nhân ái, lòng vị tha nồng ấm tình yêu trong trái tim người đàn ông Thái cao thượng. Tình yêu của chàng trai có độ bền vững qua thời gian, ngay cả khi cô đã tay bồng, tay mang. Kết thúc phần 1 vang lên điệp khúc tình yêu vói lời thề nguyền, ước hẹn:

Đôi ta yêu nhau, đợi tới tháng Năm lau nở,
Đợi mùa nước đỏ cá về,
Đợi chim tăng ló gọi hè.
Không lấy được nhau mùa hạ, ta sẽ lấy nhau mùa đông,
Không lấy được nhau thời trẻ, ta sẽ lấy nhau khi goá bụa về già.

Thời gian mùa hạ, mùa đông trong câu thơ trên mang ý nghĩa biểu tượng, tương đồng với tuổi thanh xuân sôi nổi, tươi đẹp thời trẻ và tuổi già tàn phai, héo úa (goá bụa về già). Lời thề nguyền của chàng trai thật chân thành, cụ thể. Trong nhiều đoạn khác của truyện thơ luôn vang lên điệp khúc thề nguyền cảm động như thế và hơn thế. Cử chỉ, hành động và tâm trạng của chàng trai lúc ở nhà chồng của cô gái Chàng trai an ủi, động viên khi cô gái bị nhà chồng hành hạ, và một lần nữa khẳng định sự chung thuỷ son sắt trong tình yêu. Để giữ lời thề nguyền, quyết bảo vệ tình yêu và ước vọng được đoàn tụ cùng người yêu, nàng tuy về nhà chồng nhưng cố tình phản kháng lại sự xếp đặt của số mệnh, giả bộ ương bướng, ngớ ngẩn, vụng về để cho nhà chồng chán mình mà đuổi về bàng những việc làm: “Rửa bát xóc cả rổ – Rửa ốc rửa từng con”. Người phụ nữ về nhà chồng phải ăn cơm thừa canh cặn, phải làm việc cực nhọc lại bị hành hạ, ngược đãi đủ đường. Trước phần 2 của đoạn trích là cảnh cô gái bị nhà chồng đánh ngã lăn quay bên cối gạo. Đoạn đầu của phần 2 miêu tả những hành động, cử chỉ ân cần, chăm sóc, lo lắng thuốc thang của chàng trai dành cho cô gái. Lời nói của chàng thật dịu dàng, chan chứa xót thương:

Dậy đi em, dậy đi em ơi !
Dậy rũ áo kẻo bọ,
Dậy phủi áo kẻo lấm !
Đầu bù anh chải cho,
Tóc rối đưa anh búi hộ !
Anh chặt tre về đốt gióng đầu,
Chặt tre dày, anh hun gióng giữa,
Lam ống thuốc này em uống khỏi đau.

Tình yêu của chàng trai thật chân thành, dịu dàng, đằm thắm, không chỉ thể hiện ở những lời thề nguyền mà biểu hiện cụ thể qua hành động và lời nói ân cần, tha thiết khiến người nghe xiết bao cảm động. Những hình ảnh như : “Tơ rối đôi ta cùng gỡ – Tơ vò ta vuốt lại quay guồng” mang ẩn ý dẫu hoàn cảnh khó khăn thế nào nếu đồng lòng củng có thể giải quyết ổn thoả:

Quay lại guồng gỗ tốt cán thuôn,
Về với người ta thương thuở cũ.

Trong thơ ca dân gian của người Thái, người Mông hay nhắc đến cái chết. Đó là một thủ pháp nghệ thuật để biểu hiện ý chí quyết bảo vệ tình yêu đến cùng. Cái chết là giới hạn cuối cùng của thử thách, nhưng “cái chết” cũng chỉ là cách biểu hiện quyết tâm (thực chất người trong cuộc không nghĩ đến cái chết và quả thực trong truyện này hai người đã quyết sống một cách mạnh mẽ và họ đã tìm lại được tình yêu):

Chết ba năm hình còn treo đó;
Chết thành sông, vục nước uống mát lòng,
Chết thành đất, mọc dây trầu xanh thắm,
Chết thành bèo, ta trôi nổi ao chung,
Chết thành muôi, ta múc xuống cùng bát,
Chết thành hồn, chung một mái, song song.

Phương pháp so sánh được sử dụng đậm nét trong phần kết của đoạn trích. Hình ảnh so sánh được chọn lọc đa dạng, biểu hiện phong tục, bản sắc văn hoá tinh thần, cảnh sắc thiên nhiên dân tộc Thái:

Đôi ta yêu nhau, tình Lú – Ủa mặn nồng,
Lời đã trao thương không lạc mất;
Như bán trâu ngoài chợ,
Như thu lúa muôn bông.
Lòng ta thương nhau trăm lớp nghìn trùng,
Bền chắc như vàng, như đá.

Toàn bộ đoạn trích là lời tiễn dặn người yêu, hành động chăm sóc ân cần, xót xa thương cảm và âm vang điệp khúc nguyện thề giữ trọn tình yêu. Kết thúc truyện thơ Tiễn dặn người yêu là một kết thúc có hậu theo truyền thống của vân học dân gian: ước mơ thành sự thật. Hai người đoàn tụ, làm lại cuộc đời trong tĩnh yêu bất diệt. Chàng trai đã giũ đúng lời nguyện ước của mình “Không lấy được nhau thời trẻ, ta sẽ lấy nhau khi goá bụa về già”. Con người đã vượt lên trên số phận khắc nghiệt bởi những hành động tích cực đáng trân trọng, bởi lòng chung thuỷ, sự cao thượng và sức mạnh tình yêu chân chính.

Xem thêm:

Hãy bình luận đầu tiên

Để lại một phản hồi

Thư điện tử của bạn sẽ không được hiện thị công khai.