phan-tich-nhan-vat-chi-pheo-trong-truyen-ngan-cung-ten-cua-nam-cao-12515-2.jpg

Phân tích nhân vật Chí Phèo trong truyện ngắn cùng tên của Nam Cao.

Nhân vật Chí Phèo trong truyện ngắn cùng tên của Nam Cao.

  • Mở bài:

“Chí Phèo” là tác phẩm xuất sắc nhất của nhà văn Nam Cao và của nền văn học hiện thực phê phán. Tác phẩm viết năm 1941, lúc đầu có tên là Cái lò gạch cũ. Nhà xuất bản Đời mới tự đổi tên thành “Đôi lứa xứng đôi”. Khi in trong tập “Luống cày” tác giả đổi tên thành “Chí Phèo”. Nội dung tác phẩm viết về người nông dân nghèo bị xã hội đẩy vào bước đường cùng, bị tước đoạt quyền làm người. Nhận vật Chí Phèo là một trong những điển hình nghệ thuật của nền văn học Việt Nam thế kỉ XX.

  • Thân bài:

Chí Phèo được miêu tả với một số phận bất hạnh, thật đáng thương. Mới sinh ra, Chí Phèo đã bị bỏ rơi trong cái lò gạch cũ, trong một đêm rét lạnh. May thay, có một anh nông dân, buổi sáng sớm đi đặt ống trúm bắt gặp và mang về nuôi. Tuổi thơ Chí Phèo không biết cha mẹ mình là ai, phải sống bơ vơ vất vưởng, ở hết nhà này đến nhà khác. Lớn lên, Chí đi ở cho nhà Bá Kiến, hắn không có tài sản gì.

Bản chất vốn có của Chí thật hiền lành như cục đất. Đó cũng là bản tính chân chất của người nông dân Việt Nam xưa nay. Hắn chăm chỉ lao động, tự sống bằng đôi tay cần mẫn của mình. Hắn còn có một tâm hồn tinh khôi, trong sáng như dòng nước mát. Hắn có ý thức sâu sắc về nhân phẩm của mình, giàu lòng tự trọng và cũng nuôi dưỡng một vài mơ ước. Chí Phèo đúng thực là một con người lương thiện. Có thể nói, lương thiện là giá trị cốt lõi mà nhà văn Nam Cao muốn khắc họa ở nhân vật Chí Phèo. Trước khi vào tù và biến đổi khốc liệt, Chí Phèo sống cuộc sống nghèo khó nhưng là cuộc sống của người nông dân chân chính, lương thiện.

Thế nhưng, hiền lành và lương thiện lại trở thành điểm yếu của nhân vật Chí Phèo trong cái xã hội đày rẫy những kẻ mưu mô, xảo quyệt, thẩm độc và cáo già ranh mãnh như Bá Kiến. Chỉ vì nỗi ghen tuông vu vơ, Bá Kiến đã đẩy Chí Phèo vào tù. Chí vào tù mà không biết mình bị tội tình gì. Chỉ biết, một buổi sáng, người ta đến bắt giải hắn lên tỉnh rồi bặt vô âm tính.

Khi ra tù, Chí trở thành một con người hoàn toàn khác từ hình dáng (nhân hình) cho đến phẩm chất (nhân tính). Diện mạo bên ngoài của Chí hoàn toàn thay đổi, khiến cho cả làng lúc đầu không ai biết hắn là ai. Nhà văn đã chú ý miêu tả ngoại hình của chí khi mới ngất ngưởng trở về làng: “Cái đầu thì trọc lốc, cái răng cạo trắng hớn, cái mặt thì đen mà rất cơng cơng. Hai mắt gườm gườm trông gớm chết! Hắn mặc quần nái đen với cái áo tây vàng. Cái ngực phanh, đầy những nét chạm trổ rồng phượng với một ông tướng cầm chuỳ, cả hai cánh tay cũng thế. Trông gớm chết!”. Chí phèo biến đổi ngoại hình thành quái dị, mang dáng dấp của một kẻ côn đồ và lưu manh. Điều đó tố cáo chế độ nhà tù tàn ác của bọn thực dân đã biến Chí Phèo thành con người mang gương mặt của con vật lạ, vằn dọc vằn ngang không thứ tự…

Hành động của Chí cũng hoàn toàn thay đổi: “Về hôm trước, hôm sau đã thấy ngồi ở chợ uống rượu với thịt chó suốt từ trưa đến xế chiều”. Hành vi này quả thật không bình thường đối với một người bình thường. Hắn về và gây “ấn tượng” với tiếng chửi điển hình của kẻ “bất cần đời”. Quả thực, tiếng chửi của Chí Phèo là một “đặc sản lạ” mà Nam Cao đã tài tình sáng tạo ra. Hắn luôn trong trạng thái say khướt và cất tiếng chửi, không ai lên tiếng chỉ có tiếng sủa của ba con chó và một thằng say rượu. Rõ ràng, hắn khát khao được giao tiếp nhưng không ai đáp lời. Bực quá hắn chửi. Hắn cô đơn, đau đớn khi không được xã hội thừa nhận là một con người.

Chí Phèo nhận rõ chính Bá Kiến là kẻ đã khiến cuộc đời hắn vào tù ra tội. Thế nên, Chí đã tìm đến nhà Bá Kiến thách thức. Đến nhà Bá Kiến lần thứ nhất: hắn chửi, rạch mặt ăn vạ, liều chết. Rõ ràng, hắn mang tính cách của một tên du côn. Sau khi đến nhà Bá Kiến lần thứ hai để xin đi ở tù vì quá buồn chán, Chí bị Bá Kiến lợi dụng và trở thành tay sai đắc lực cho hắn.

Đúng là như vậy, sau khi bị Bá Kiến biến thành tay Chí Phèo trở thành kẻ chuyên đâm thuê, chém mướn, rạch mặt ăn vạ. Không mua được rượu vì chủ quán không bán chịu, Chí Phèo liền đốt quán ngay. Người dân làng Vũ Đại coi Chí Phèo là một “con quỷ” không hơn không kém. Không ai coi Chí là một con người. Thấy Chí Phèo, người ta tránh như gặp phải một con quỷ. Chí Phèo vẫn triền miên trong cơn say. Say trong lúc ăn, say trong lúc ngủ… Đắm chìm trong cơn say, Chí Phèo mất dần ý niệm về thời gian, tuổi tác, triền miên trong những cơn say. Hắn tiếp tay cho kẻ ác “phá tan biết bao cơ nghiệp làm đổ máu và nước mắt của biết bao người dân lương thiện…”.  Chí ngập sâu trong vũng bùn tội lỗi, bị xói mòn về nhân phẩm, trượt dài trên con dốc của sự tha hóa, tha hóa một cách triệt để. Từ một anh canh điền hiền lành, lương thiện, qua bàn tay của bọn cường hào ác bá và nhà tù thực dân, Chí đã biến thành kẻ lưu manh, côn đồ, tha hóa. Qua quá trình đi đến con đường tha hóa của nhân vật Chí Phèo, Nam Cao muốn phản ánh một hiện tượng phổ biến đã trở thành quy luật trong xã hội cũ: chừng nào còn có áp bức, bóc lột thì chừng ấy còn có những người dân lương thiện bị đẩy vào con đường cùng trở thành kẻ lưu manh, tha hóa. Đó là giá trị hiện thực sâu sắc của tác phẩm này.

Tưởng chừng như hắn cứ sống như thế cho đến cuối đời. Nào ngờ, Thị Nở xuất hiện đã mở ra một hi vọng mới cho cuộc đời hắn. Khi gặp Thị Nở, Chí Phèo mới thức tỉnh muốn được làm người lương thiện. Thị Nở đã ngoài 30 tuổi, dở hơi và lại xấu “ma chê quỷ hờn”. Thị Nở quan tâm đến Chí Phèo, nấu cháo hành cho Chí ăn khi hắn bị ốm. Sự quan tâm ấy đã thức tỉnh Chí Phèo.

Khi Thị Nở mang cháo hành tới, Chí Phèo cảm nhận được cái dịu dàng của thị Nở. Bưng bát cháo hành thị Nở đưa cho, “hắn thấy mắt mình hình như ươn ướt. Bởi vì lần này là lần thứ nhất hắn được một người đàn bà cho. Xưa nay, nào hắn có thấy tự nhiên ai cho cái gì. Hắn vẫn phải dọa nạt hay giật cướp hắn mới có cái để ăn. “Hắn nhìn bát cháo hành bốc khói mà bâng khuâng”. Bát cháo hành giản dị trong cảm nhận của Chí là thứ rất ngon, đó là chi tiết khiến hắn lần đầu tiên và cũng là duy nhất cảm thấy được quan tâm, nó đánh thức nhân tính bấy lâu nay bị vùi lấp trong Chí. Cháo hành – món ăn bình dị nhưng là phương thuốc nhiệm màu bởi nó chứa chan tình đời, tình người. Thị Nở đối với hắn thật thân thiện chứ không phải là sự sợ hãi, kinh tởm hay lảng tránh mà mọi người vẫn dành cho hắn từng ngày. Bát cháo hành bốc khói gợi nhiều cảm xúc trong Chí. Trong lòng hắn vui, buồn, ăn năn, cứ hỗn độn. Chí nói với Thị Nở những lời chân thành, giản dị, cử chỉ, điệu bộ đáng yêu. Giờ đây, Chí thèm sống cuộc đời lương thiện ghê gớm. Chí đặt tất cả niềm hi vọng và Thị Nở. Thị sẽ là nhịp cầu nối hắn với cuộc sống lương thiện.

Nhờ sự quan tâm của thị Nở và bát cháo hành thần diệu, vừa giải cảm vừa giải độc trong Chí, khiến Chí thực sự thức tỉnh và muốn trở về cuộc đời lương thiện. Bản chất của Chí Phèo chưa hoàn toàn mất đi mà chỉ ngủ quên trong lốt quỷ. Thị Nở như một cơn gió thần thổi vào làm thức tỉnh bản chất lương thiện trong Chí. Tình yêu có sức mạnh cảm hóa con người.

Hình ảnh bát cháo hành của Thị Nở có giá trị đặc sắc. Bát cháo hành thể hiện tình yêu thương của Thị Nở dành cho Chí phèo. Đó là hương vị của hạnh phúc, tình yêu muộn màng mà Chí Phèo được hưởng. Bát cháo hành là liều thuốc giải cảm và giải độc tâm hồn Chí: gây ngạc nhiên, xúc động mạnh, khiến nhân vật ăn năn, suy nghĩ về tình trạng thê thảm hiện tại của mình. Nó khơi dậy niềm khao khát được làm hoà với mọi người, hi vọng vào một cơ hội được trở về với cuộc sống lương thiện. Như vậy, bát cháo hành đã đánh thức nhân tính bị vùi lấp lâu nay ở Chí Phèo. Đây là chi tiết rất quan trọng thúc đẩy sự phát triển của cốt truyện, khắc họa sâu sắc nét tính cách, tâm lí và bi kịch của nhân vật, đồng thời góp phần thể hiện sinh động tư tưởng Nam Cao: tin tưởng vào sức mạnh cảm hoá của tình người. Đoạn văn miêu tả Chí Phèo thức tỉnh là một đoạn tuyệt bút đầy chất thơ và vút lên tư tưởng nhân đạo của tác giả.

Với Chí Phèo, năm ngày sống với thị Nở là năm ngày hạnh phúc của đời Chí. Hạnh phúc ấy quá ngắn ngủi so với cuộc đời một con người. Đó cũng là những ngày Chí Phèo không say. Chính thị Nở đã làm cho Chí Phèo thức tỉnh. Tính lương thiện trong Chí Phèo không hề mất đi mà chỉ ngủ mê trong cái vỏ bề ngoài của một con quỷ dữ. Bản chất ấy khi có được tình người sẽ thức tỉnh. Tình yêu, sự quan tâm của thị Nở sẽ là cơn gió lành thổi bùng lên đốm lứa thiên lương còn âm ỉ trong Chí Phèo. Chính thị Nở đã suy nghĩ về Chí Phèo: “Ôi sao mà hắn hiền, ai dám bảo đó là cái thằng Chí Phèo vẫn đập đầu, rạch mặt mà đâm chém người”. Bản tính thiên lương của Chí Phèo được miêu tả khá thành công trong buổi sáng hôm sau khi Chí tỉnh dậy. “Hắn bâng khuâng như tỉnh dậy sau một cơn mê rất dài”, “Tiếng chim hót ngoài kia vui vẻ quá! Có tiếng cười nói của những người đi chợ. Anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá. Những tiếng quen thuộc ấy hôm nào chả có. Nhưng hôm nay hắn mới nghe thấy”. Những ngày trước đây làm sao Chí Phèo có thể nghe được những âm thanh của cuộc sống vì trước khi gặp thị Nở, cuộc sống của Chí Phèo là những cơn say dài bất tận. Ăn trong lúc say, ngủ trong lúc say, hung dữ trong lúc say, chửi trong lúc say… Vì thế mà hắn phải thốt lên: “Chao ôi là buồn!”, “Hắn lại nao nao buồn”, “hình như có một thời hắn đã ao ước có một gia đình nho nhỏ. Chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải. Chúng lại bỏ một con lợn nuôi để làm vốn liếng. Khá giả thì mua dăm ba sào ruộng làm”. Một ước muốn thật chính đáng và giản dị, đời thường.

Tình yêu, sự quan tâm chăm chút của thị Nở đã thức tỉnh Chí Phèo, làm bùng lên đốm sáng lương tri còn sót lại trong Chí. Chí Phèo khát vọng được quay trở về với cuộc sống lương thiện, được hoà mình trong xã hội loài người mà thị Nở sẽ là cây cầu nối. Đột ngột, bà cô thị Nở ngăn cấm không cho cháu mình lấy Chí Phèo. Chí Phèo rơi vào bi kịch khốc liệt lần thứ hai: Bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người. Lời của bà cô Thị Nở ngăn cấm Thị Nở lấy Chí phèo đốt cháy mọi hi vọng khiến Chí Phèo rơi vào bóng tối tuyệt vọng đến cùng cực. Hắn hiểu rõ đó là cơ hội duy nhất. Sự việc ấy khiến Chí Phèo đã nghĩ ngợi rất nhiều. Hắn chợt hiểu ra nhiều điều rồi hắn ngẩn người, ngẩn mặt nhận ra sự thật phũ phàng: Định kiến tàn nhẫn của xa hội không chấp nhận cho Chí Phèo hoàn lương và cũng không chấp nhận hắn trở lại làm người lương thiện. Hắn thấy sắp xa cách thị Nở, xa cách cuộc sống ước mơ. Hắn vội đuổi theo Thị Nở, cố níu kéo nhịp cầu lương thiện. Trong hắn vẫn còn nhiều lắm khát khao cháy bỏng cuộc sống lương thiện và yên bình. Thế nhưng, những câu nói tỉnh bơ của Thị Nở đã cắt đứt sợ dây ràng buộc mỏng manh giữa hắn và cuộc đời. Đau đớn tột cùng, Chí lại tìm đến với rượu. Hắn đi uống rượu để say, để quên. Nhưng đến khi tỉnh ra, hắn thêm thấm thía nỗi đau của một người bị hắt hủi nên “ôm mặt khóc rưng rức”. Rượu cũng không thể giúp Chí quên đi bản thân mình được. Hắn vẫn sống. Nghĩa là hắn vẫn bị cuộc đời ruồng bỏ. Chí Phèo không còn đường để trở về làm người lương thiện được nữa.

Có nhiều nguyên nhân dẫn đến bi kịch tình yêu Chí Phèo – Thị Nở. Nguyên nhân trực tiếp là thị Nở và bà cô của thị. Nhưng nguyên nhân sâu xa chính là do xã hội phong kiến tàn ác, bất công đã biến Chí thành một “con quỷ dữ” của làng Vũ Đại. Lúc bế tắc và tuyệt vọng, Chí Phèo tìm đến rượu. Nhưng lần này, càng uống, Chí Phèo càng tỉnh ra. “Hắn ôm mặt khóc rưng rức”. Điều đó chứng tỏ rằng Chí Phèo luôn khát khao được trở về làm người lương thiện. Khi không còn tình yêu, không còn con đường trở về làm người lương thiện, Chí Phèo quyết trả hận. Và thảm kịch đã xảy ra.

Không còn cơ hội để có cuộc sống hạnh phúc, Chí Phèo quyết trừng phạt kẻ đã dám từ chối hắn, dám làm cho hắn đâu khổ. Không ai khác đó chính là Thị Nở và bà cô của thị. Chí uống rượu rồi vác dao đi. Chí định dạy cho bà cô một bài học như cách Chí đã từng dạy những kẻ chống đối khác. Hắn quyết định đến nhà bà cô thị Nở “để đâm chết cả nhà nó, đâm chết cái con khọm già nhà nó”. Chí Phèo ra đi với một con dao cầm trong tay và một sự căm thù sâu sắc. Thế nhưng, run rủi thay, như một thói quen, cũng có thể là Chí đã nhận ra kẻ đã gieo rắc khổ đau lên cuộc đời Chí, bước chân kẻ say đảo hướng đến nhà Bá Kiến: “hắn không rẽ vào nhà thị Nở mà thẳng đường đến nhà Bá Kiến và nói thẳng với Bá Kiến; “Tao muốn làm người lương thiện”, “Ai cho tao lương thiện?” Chí Phèo giết Bá Kiến và tự kết liễu đời mình.

Hành động giết Bá Kiến chứng tỏ Chí phèo đã thực sự nhận ra kẻ thù, mâu thuẫn gay gắt chỉ có thể giải quyết bằng sự sống còn. Hai cái chết thể hiện mâu thuẫn đối kháng gay gắt trong xã hội có giai cấp. Đó là mâu thuẫn giữa người nông dân với giai cấp phong kiến mà đại diện là bọn địa chủ, cường hào, ác bá ở nông thôn. Hành động Chí Phèo tự kết liễu cuộc đời mình sau khi đã đâm chết kẻ thù số một của mình chứng tả hắn ý thức được nhân phẩm muốn trở về nhưng không được xã hội chấp nhận. Chí Phèo chết để bảo vệ nhân phẩm. Chết trên đường trở về hoàn lương. Cái chết không lối thoát. Đó cũng là số phận bi thảm của người nông dân trước cách mạng qua đó tác giả muốn lên án, tố cáo xã hội thực dân, phong kiến đương thời.

Chí Phèo chết ngay trước ngưỡng cửa bước vào cuộc sống lương thiện. Đó là bi kịch của Chí Phèo cũng là bi kịch của của những người nông dân bị bần cùng, bị lưu manh hoá. Quả thực, Chí Phèo không có lối trở về. Đứng trước hai con đường, Chí Phèo chỉ được chọn một mà thôi. Thứ nhất, Chí Phèo tiếp tục trở về sống cuộc sống của một “con quỷ dữ’. Hai là, Chí Phèo chết để giữ lại phần hiền lương còn sót trong tâm hồn. Chí Phèo đã chọn con đường thứ hai. Chí Phèo đã chết vì ý thức về nhân phẩm đã trở về trong anh. Anh không thể chấp nhận cuộc sống thú vật được nữa. Chí Phèo đã chết quằn quại trên vũng máu trong niềm đau thương vô hạn vì khát khao được làm người lương thiện đã bị từ chối một cách lạnh lùng. Lời nói cuối cùng của Chí Phèo vừa đanh thép vừa chất chứa phẫn nộ: “Ai cho tao lương thiện?”. Phải chăng câu nói ấy đã được đặt ra một cách bức thiết khi tác phẩm ra đời. Làm thế nào, bằng con đường nào để người nông dân không rơi vào tấn bi kịch như Chí Phèo.

Đoạn kết và hình ảnh cái lò gạch cũ mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc. Sau khi Chí Phèo chết, ở phần kết thúc tác phẩm, Thị Nở lại xuất hiện. Thị “nhớ lại lúc ăn nằm với hắn… rồi nhìn nhanh xuống bụng”, “Đột nhiên thị thấy thoáng hiện ra một cái lò gạch cũ bỏ không, xa nhà cửa và vắng bóng người lại qua…”. Cử chỉ và ý nghĩ của thị khiến người ta nghĩ tới: sẽ lại có một Chí Phèo con ra đời (…). Hình ảnh “cái lò gạch cũ” xuất hiện trong ý nghĩ của Thị ở đây nằm trong ý đồ nghệ thuật của nhà văn: Một kiểu kết cấu tác phẩm đầu cuối tương ứng – kết cấu vòng tròn. Mâu thuẫn giai cấp giữa nông dân và địa chủ cường hoà một lần nữa được nhấn mạnh tô đậm. Bá Kiến chết thì có Lý Cường, Chí Phèo chết thì có một Chí Phèo con sẽ xuất hiện. Mâu thuẫn giữa nông dân và địa chủ cường hào khi âm ỉ, khi bùng lên dữ dội, song không thể giải quyết. Vấn đề những con người lao động lương thiện bị xã hội đẩy vào con đường lưu manh cùng quẫn quay lại chống trả với xã hội bằng chính sự lưu manh của mình là vấn đề thuộc về bản chất, là quy luật tất yếu khi xã hội thực dân phong kiến cò tồn tại. Hình ảnh “cái lò gạch cũ” nằm trong ý đồ nghệ thuật và là một sáng tạo nghệ thuật đặc sắc của nhà văn Nam Cao.Với hình ảnh này, chủ đề của thiên truyện được khơi thêm những chiều sâu mới.

Nam Cao đã xây dựng thành công nhân vật điển hình. Bút pháp miêu tả tâm lí nhân vật sắc sảo bậc thầy. Kết cấu truyện mới mẻ, biến chuyển linh hoạt, bất ngờ. Nghệ thuật kể hấp dẫn, lôi cuốn vừa lạng lùng vừa ấm áp tình người. Giọng điệu linh hoạt, phong phú. Ngôn ngữ đa thanh, đa nghĩa, độc thoại nội tâm kết hợp khéo léo với văn tự sự tạo hiệu quả cho việc đi sâu phân tích tâm lí nhân vật, giàu hình ảnh, gần với lời ăn, tiếng nói hàng ngày. Qua truyện ngắn “Chí Phèo”, Nam Cao khái quát một hiện tượng xã hội ở nông thôn Việt Nam trước cách mạng: một bộ phận nông dân lao động lương thiện bị đẩy vào con đường tha hoá, lưu manh hoá. Nhà văn đã kết án đanh thép cái xã hội tàn bạo tàn phá cả thế xác lẫn tâm hồn người nông dân lao động, đồng thời khẳng định bản chất lương thiện của họ, ngay khi họ bị vùi dập mất cả nhân hình, nhân tính.

  • Kết bài:

Truyện ngắn Chí Phèo” mang giá trị nhân đạo sâu sắc, thể hiện tấm lòng yêu thương trân trọng của Nam Cao đối với những người khốn khổ; đồng thời là lời kết tội đanh thép xã hội thực dân – phong kiến đẩy con người vào bi kịch cùng cực, bế tắc, tuyệt vọng. Cái chết của nhân vật Chí Phèo chính là sự chiến thắng của lương tâm. Chí Phèo gắng gượng về với xã hội con người, chỉ cần mở cửa là trở về nhưng nó lại đóng sầm lại trước mặt Chí. Nếu Chí không chết, Chí lại sẽ trở về cuộc sống của loài quỷ dữ. Chí chết trên ngưỡng cửa trở về với xã hội loài người. Sự thức tỉnh khiến y nhận ra được giá trị của sự lương thiện, thà chọn cái chết còn hơn là quay về cuộc sống loài quỷ, loài thú như trước đây. Tuy chỉ sống có năm ngày ngắn ngủi nhưng Chí Phèo đã trải qua những hạnh phúc và khỏi đau, đã sống và chết như một con người.

Phân tích truyện ngắn Chí Phèo của Nam Cao

30 bình luận trong “Phân tích nhân vật Chí Phèo trong truyện ngắn cùng tên của Nam Cao.”

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Lên đầu trang