»» Nội dung bài viết:
Phân tích nhân vật Vũ Nương trong Chuyện người con gái Nam Xương của Nguyễn Dữ
- Mở bài:
Nguyễn Du đã từng than thở trước cuộc đời rằng:
“Đớn đau thay phận đàn bà
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung”
(Truyện Kiều – Nguyễn Du)
Đem lời thơ ấy vào cuộc đời của nhân vật Vũ Nương trong Chuyện người con gái Nam Xương của Nguyễn Dữ, ta càng thương hơn cuộc đời và số phận hẩm hiu của kiếp người phụ nữ trong xã hội phong kiến bất công, tàn bạo. Nàng là một phụ nữ đảm đang, hiếu nghĩa, chung thủy, son sắc đến thế mà hạnh phúc đối với nàng chỉ hư ảo, bấp bênh, vô định như chiếc bóng nhập nhoạng ở trên tường.
- Thân bài:
Đọc chuyện ta thấy Vũ Nương đúng thực là một người phụ nữ mẫu mực mà xã hội phong kiến cần có với những phẩm chất đáng quý. Nàng không chỉ “thùy mị nết na” mà còn có “tư dung tốt đẹp” hơn người, trong đạo vợ chồng, nàng hết sức khôn khéo; lúc nào cũng chú trọng “giữ gìn khuôn phép”, “không từng lúc nào vợ chồng phải đến thất hòa”. Với hai phẩm chất quan trọng nhất của người phụ nữ, nàng cũng đủ hi vọng có một cuộc sống hạnh phúc.
Thế nhưng, hạnh phúc đến với nàng thật mong manh, ngắn ngủi, nó chỉ đến với nàng một lần đó là những giây phút ban đầu. Qua lời tống biệt chồng ra trận, ta thấy Vũ Nương dịu dàng, thiết tha với hạnh phúc, không hư danh và giàu lòng vị tha. Nàng nghĩ đến những khó nhọc, gian nguy của chồng trước rồi mới nhận ra sự lẻ loi, hiu quạnh của mình: “Chàng đi chuyến nay, thiếp chẳng mong theo được ấn phong hầu, mặc áo gấm trở về quê cũ, chỉ xin ngày về mang theo được hai chữ bình yên, thế là đủ rồi”…
Trong những năm tháng chồng ngoài nơi chiến địa, người thiếu phu ấy đã một mình nuôi dạy con thơ; phụng dưỡng mẹ chồng; ngày đêm giữ gìn tiết hạnh hầu vun đắp, dưỡng nuôi cái nguồn hạnh phúc mà nàng đang mong đợi. Đối với mẹ chồng Vũ Nương giữ vẹn đạo làm con dâu thảo, hết lòng săm sóc lo thuốc thang khi mẹ ốm đau và cả việc ma chay tế lễ khi mẹ chồng mất…
Nhà văn đã tỏ ra già dặn đã để cho chính người mẹ chồng ấy nhận xét về tấm lòng thơm thảo của nàng trước khi bà cụ qua đời. Trong đôi mắt của bà mẹ chồng, nàng là người có “lòng lành”. Sự đảm đang, hiếu nghĩa ấy cũng biểu hiện phần nào “tấm lòng son” của nàng đối với Trương Sinh. Có thể nói đạo làm con, làm vợ, làm mẹ. Tất cả đều được Vũ Nương thực hiện trọn vẹn…
Tác phẩm còn đề cập đến những oan khổ, bất hạnh mà người phụ nữ phải gánh chịu, Dõi theo câu chuyện, ta thấy thiếu phụ Nam xương này hoàn toàn vô tội trước “vụ án” đầy oan khuất. Ba năm chồng đi chinh chiến nàng vẫn ngày đêm chồng mong chồng trở về. Vậy mà nàng có ngờ đâu những phút giây đoàn viên cũng chính là lúc tai họa phủ xuống cuộc đời nàng.
Chỉ vì thương con thiếu nơi nương tựa, nàng chỉ lên chiếc bóng của mình trên tường và nói đó là cha lại có thể gây nên sự hoài nghi của chồng, khiến trương Sinh phát động lòng ghen, sỉ nhục và đánh đập nàng thận tệ. Sự ngu muội và hồ đồ của Trương Sinh chính là nguyên nhân dẫn đến bi kịch thảm khốc, tước đoạt nhân phẩm và sinh mệnh của người thiếu phụ một lòng trung trinh.
Giờ đây, Vũ Nương không chỉ ngậm đắng nuốt cay chịu đựng những ngọn đòn roi và những lời miệt thị, đuổi xua mà còn phải mang nỗi oan uất lớn nhất đối với người phụ nữa là thất tiết. Bão tố oan khiên đã dồn đẩy nàng vào kết cục bi thảm nhất là phải chọn lấy cái chết ở bến Hoàng giang để tỏ lòng trinh bạch, minh chứng nỗi oan tình: “Kẻ bạc phận này duyên phận hẩm hiu, chồng con rẫy bỏ…”. Đó là tiếng khóc ai oán của một Vũ Nương hay cũng chính là tiếng kêu chung của những kiếp má hồng mệnh bạc. Đó cũng là lời tố cáo mạnh mẽ xã hội phong kiến trọng nam khinh nữ, nắm quyền độc đoán lúc bấy giờ…
Câu chuyện có thể được khép lại nơi đây thế nhưng tác giả lại thêm vào chi tiết Vũ Nương ở dưới thủy cung hầu tô đẹp hơn tính cách cao đẹp của Vũ Nương đồng thời còn gián tiếp đồng cảm và thương yêu của tác giả trước số phận của con người. Dù đã chết, người thiếu phụ ấy vẫn muốn sống lại với đời để giãi bày oan khuất; vẫn còn tình xưa nghĩa cũ; vẫn còn vọng tới quê hương xưa khác nào “Ngựa hồ gấm gió bấc, chim Việt đậu cành Nam”. Tấm lòng son sắt thủy chung của nàng thật đáng quý trọng.
Cũng chính là lớp màn kì ảo lung linh ấy đã làm tăng thêm bi kịch trong tâm hồn nàng. Dù nỗi oan ấy đã được thần linh chứng giám và sống trong vòng tây ân đức của Linh Phi, thế nhưng nàng vẫn cảm thấy day dứt và dày vò, đau khổ, tủi thẹn vì nỗi oan thất tiết vẫn còn đó, chưa được thấu cảm nơi trần thế.
Lời buộc tội nhân gian phong kiến xưa khép lại câu chuyện thương tâm ấy cũng là một nét đẹp của giá trị nhân đạo mang lại. Tuy khát khao hạnh phúc, thương yêu chồng con, gắn bó thiết tha với cộc sống trần thế, nhưng khi chồng lập đàn giải oan như ước nguyệt thì nàng vẫn từ chối cuộc sống trần thế.
Trước hết, do nàng đã cảm nhận được ân đức của Linh Phi “đã thề sống chết cũng không bỏ”. Điều đó, đã cho ta thấy được thiếu phụ ấy là một người sống có trước có sau, trọn nghĩa, trọn tình. Nhưng có lẽ, nguyên căn sau xa là do cuộc sống nhân gian kia thiếu hẳn sự công bình. Cái dương gian kia chỉ đem đến cho nàng những tháng ngày chờ đợi mỏi mòn, vò võ cô đơn và những nồi khổ đau, bất hạnh.
Dù người chồng vẫn chưa cạn tình người, đã thấu nỗi oan của vợ, cất lời gọi thảm thiết nhưng nàng cũng chỉ đa tạ và đớn đau trở lại với cuộc sống Thủy cung có nghĩa là nàng đã chấp nhận khước từ thiên chức cao quý nhất của người phụ nữ đó là được làm vợ, làm mẹ.
Có thể nói, tài năng và tấm lòng của nhà văn dường như đã được kí thác cả vào nhân vật trung tâm của tác phẩm. Đọc thiên truyện, ta thấy Vũ Nương được tác giả Nguyễn Dữ khắc họa bằng ngòi bút đầy trân trọng và cảm thông sâu sắc. Nàng đúng là mẫu người lý tưởng theo quan niệm xã hội lúc bấy giờ.
Thế mà sự mất mát nỗi đau của nàng quá lớn: người mẹ đáng thương nhất mãi mãi phải rời xa đứa con thơ dại, người vợ hiền đức mãi mãi xa lìa người chồng mà nàng đã nguyện với lòng suốt đời thủy chung, gắn bó. Bao nhiêu cố gắng của người đàn bà bất hạnh hầu giữ gìn lấy hạnh phúc đều vô vọng, hạnh phúc đã tuốt khỏi đời nàng. Ai trong chúng ta không khỏi xốn xang, nhức nhối khi nghe vọng lại lời thề nguyền thống thiết của nàng trước trời cao song thẳm! Thiết nghĩ nếu thiếu đi chứ “tâm” trên từng trang sách thì câu chuyện về người thiếu phụ của Nguyễn Dữ có thể làm day dứt, xốn xang với người đọc đến thế không?
Truyện còn có sức lôi cuốn đọc giả bằng cách viết tài hoa của tác giả. Nguyễn Dữ đặc biệt chú ý đến cách khắc họa nội tâm nhân vật qua đó tính cách nhân vật được thể hiện một cách rõ nét. Chẳng hạn, ở trường đoạn người chồng bắt đầu ngờ vực lòng chung thủy của vợ và lòng ghen tuông trỗi dậy cho đến khi Vũ Nương gieo mình xuống sông thì chuyện cổ tích “Vợ chàng Trương” chỉ có vài dòng. Còn trong truyện ngắn của Nguyễn Dữ thì đã phát triển thành cao trào, xung đột trong nội tâm được khắc họa khá tinh tế qua ngôn ngữ đối thoại trong tác phẩm…
Tác phẩm kết hợp một cách nhuần nhuyễn, tài tình những phương thức tự sự, trữ tình và cả kịch; giữa ngôn ngữ nhân vật và ngôn ngữ tác giả; giữa văn xuôi và văn biểu mẫu; giữa hiện thực và yếu tố kỳ ảo lời văn cô đọng xúc tích, chặt chẽ, hài hòa và sinh động, Tác giả đã để cho nhân vật Vũ Nương nhiều lần nói trong tác phẩm, giọng điệu khi thì ngọt ngào êm ái, khi nghe thống thiết, bi ai khiến người đọc không ngừng xúc động.
Cách xây dựng tình huống gây cấn, thắt nút, gỡ nút đầy kịch tính, bất ngờ làm cho nỗi oan nổi bậc lên với tất cả sự bi thảm của nó. Trước hết, phải nói đến cách thắt nút bằng yếu tố bất ngờ. Tác giả đã khéo cân nhắc, chọn lọc câu nói phản ánh đúng cách thắt nút bằng sự ngây thơ đứa trẻ. Chỉ một câu nói ngây dại của một đứa trẻ thơ mà bão tố đã nổi dậy trong gia đình mà phút giây đoàn viên chưa thỏa. Câu nói ấy đã tạo nên trăm điều nghi kị trong đầu óc của một người chồng vừa mới từ xa trở về mà lại đa nghi và thiếu trí tuệ. Ngay cả người đọc chúng ta cũng cảm thấy bàng hoảng sửng sốt. Cách gỡ nút cũng thật tài tình, tự nhiên bởi vì tìm ra sự thật lại chính là người chồng đa nghi, thiếu trí tuệ, nói ra sự thật lại chính là đứa con ngây dại…
Mặc dầu truyện còn phản phất không khí thần linh, sử dụng văn biểu ngẫu nhưng với cách bố cục chặt chẽ, truyện tạo tình huống bất ngờ, đầy lý thú. Tác phẩm đã làm sống dậy hình ảnh “người đàn bà hôm qua” với nhiều phẩm chất tốt đẹp nhưng cuộc đời thật cay nghiệt, oan trái,…
- Kết bài:
“Chuyện người con gái Nam Xương” là một bài ca ca ngợi phẩm chất tốt đẹp, cao quý của người phụ nữ Việt Nam. Tấm lòng và nỗi oan của người thiếu phụ đã làm rơi nước mắt người Việt Nam trong suốt mấy trăm năm qua chính là thế, khơi động trong ta sự cảm thương, trân trọng và tôn quý những con người phụ nữ tốt đẹp mà được nhận được hạnh phúc xứng đáng.
Bài văn tham khảo 1:
- Mở bài:
– Nguyễn Dữ là gương mặt nổi bật của văn học Việt Nam thế kỉ XVI. “Truyền kì mạn lục” của ông thực sự đã mang đến cho nền văn học dân tộc một “Thiên cổ kì bút” có khả năng lay động lòng người bởi giá trị mọi mặt của nó.
– “Chuyện người con gái Nam Xương” là thiên truyện thứ 16 trong 20 truyện của Truyền kì mạn lục và là thiên tiêu biểu trong tập sáng tác này. Qua câu chuyện về cuộc đời và cái chết thương tâm của Vũ Nương, “Chuyện người con gái Nam Xương” thể hiện niềm cảm thương đối với số phận oan nghiệt của người phụ nữ Việt Nam dưới chế độ phong kiến, đồng thời khẳng định vẻ đẹp truyền thống của họ. *
- Thân bài:
1. Vẻ đẹp của Vũ Nương:
– Sống nơi trần thế, Vũ Nương là người phụ nữ có nhan sắc, phẩm chất đức hạnh.
+ Trước khi làm vợ chàng Trương, Vũ Nương là người con gái xinh đẹp, tính tình thùy mị nết na, tư dung tốt đẹp. Ở nàng đã hội tụ những vẻ đẹp theo chuẩn mực của xã hội phong kiến.
+ Khi làm vợ chàng Trương, nhà văn đã đặt Vũ Nương vào trong các thời điểm và các mối quan hệ khác nhau: với chồng, với mẹ chồng, với con để làm toát lên những vẻ đẹp của Vũ Nương:
- Vũ Nương là người vợ khéo léo, thủy chung và yêu thương chồng tha thiết: Những ngày đầu làm vợ chàng Trương biết chồng là người thất học lại có tính đa nghi nên nàng luôn “giữ gìn khuôn phép” không để cho vợ chồng phải xảy ra bất hòa. Cư xử khéo léo, dịu dàng. Khi tiễn chồng đi lính nàng rót chén rượu đầy nói lời tình nghĩa, đằm thắm thiết tha (chàng đi chuyến này hai chữ bình yên thế là đủ rồi) chứng tỏ nàng không mong gì vinh hiển, chức tước, bổng lộc, chỉ khát khao hạnh phúc gia đình. Nàng còn cảm thông vì những gian lao vất vả mà chồng sắp phải gánh chịu nơi chiến trận (Chỉ e việc quân khó liệu ) Nàng bày tỏ nỗi khắc khoải nhớ thương của mình (mùa dưa chín quá kì bay bổng). Khi chồng ở ngoài mặt trận, nàng càng thủy chung yêu thương chồng hết mực, buồn thương khắc khoải (ngày qua tháng lại mỗi khi thấy bướm lượn đầy vườn mây che kín núi nỗi buồn không thể nào ngăn cách được) thổn thức tâm tình nhưng luôn giữ tiết hạnh với chồng (cách tiết 3 năm chưa hề bén gót).
- Vũ Nương là người mẹ hiền, dâu thảo, là người phụ nữ đảm đang tháo vát: Chồng xa nhà, một mình Vũ Nương vừa nuôi dạy con thơ vừa chăm sóc mẹ già. Chi tiết hằng đêm Vũ Nương bế con và chỉ vào bóng mình nói “Cha Đản lại đến kia kìa” cũng là xuất phát từ tình yêu con sâu sắc vì muốn con không phải sống trong sự thiếu vắng hình ảnh người cha. Nàng đã làm trọn trách nhiệm của người mẹ nhân hậu, dịu hiền hết lòng yêu thương con. Nàng còn chăm sóc nuôi dưỡng mẹ chồng ân cần chu đáo, nói lời dịu dàng. Khi mẹ chồng ốm, Vũ Nương chăm sóc tận tình lo thuốc thang, lễ bái thần phật, khi bà mất nàng lo ma chay tế lễ chu đáo vẹn toàn. Nàng đã làm trọn bổn phận của người con dâu hiếu thảo. Phẩm chất này của Vũ Nương đã được mẹ chồng khẳng định ở lời trăn trối: (Ngắn dài có số chẳng phụ con) * Sống nơi thủy cung, nàng vẫn giữ được những phẩm chất tốt đẹp, không nguôi thương nhớ chồng con, lo lắng đến phần mộ tổ tiên. Muốn khát khao được phục hồi danh dự.
→ Vũ Nương là người phụ nữ xinh đẹp, nết na, hiền thục, đảm đang tháo vát, là người vợ thủy chung, người mẹ nhân hậu, người con hiếu thảo hết lòng vun đắp cho hạnh phúc gia đình, là khuôn vàng thước ngọc của người phụ nữ Việt Nam trong xã hội phong kiến nhưng cuộc đời lại không may mắn đối với nàng.
2. Số phận của Vũ Nương: Vũ Nương là người phụ nữ bất hạnh.
– Phải sống trong nỗi cô đơn vất vả, một mình nuôi dạy con thơ, chăm sóc mẹ chồng, thiếu vắng tình cảm của chồng.
– Phải chịu nỗi oan nghiệt cuối cùng phải tự vẫn: Khi chiến tranh kết thúc, Trương Sinh trở về lẽ ra người phụ nữ vẹn toàn như Vũ Nương phải được sống hạnh phúc nhưng nàng lại bị nghi oan. Nàng đã giãi bày, phân trần nhưng Trương Sinh không hề động lòng trắc ẩn trước sự khổ đau của nàng. Hàng xóm bênh vực, biện minh nhưng chàng cũng không tin. Nàng đã không có quyền bảo vệ mình, bị chồng ruồng rẫy, ghẻ lạnh, mắng nhiếc, đánh đuổi. Nàng đã giải bày và thề nguyền về sự trinh bạch của mình, cố gắng hàn gắn hạnh phúc gia đình có nguy cơ tan vỡ nhưng không được, bế tắc tuyệt vọng đến bước đường cùng nàng phải trẫm mình xuống sông Hoàng Giang để tự vẫn. Nỗi oan và cái chết của Vũ Nương có nhiều nguyên nhân nhưng chủ yếu vẫn là do sự hồ đồ và độc đoán của Trương Sinh. Từ những nguyên nhân này nhà văn muốn tố cáo xã hội phong kiến đầy rẫy những bất công đã đẩy người phụ nữ đẹp người đẹp nết như Vũ Nương vào số phận bi thảm.
→ Thông qua cuộc đời và số phận Vũ Nương nhà văn không chỉ ca ngợi những phẩm chất đức hạnh của nàng mà còn thương cảm những khổ đau bi kịch của người phụ nữ đồng thời lên án tố cáo xã hội phong kiến đã đẩy người phụ nữ vào bước đường cùng không lối thoát.
3. Nghệ thuật xây dựng nhân vật:
– Cách dẫn dắt tình huống sự việc hợp lí, kịch tính ngày càng tăng, thắt – mở nút bất ngờ.
– Đặt nhân vật vào tình huống, thời điểm và các mối quan hệ khác nhau để nhân vật bộc lộ phẩm chất. – Sáng tạo chi tiết cái bóng kết hợp hài hòa yếu tố thực và ảo, lời văn biền ngẫu, hình ảnh so sánh ước lệ, sinh động, hấp dẫn.
- Kết bài:
– Khẳng định lại nhân vật.
– Liên hệ với người phụ nữ ngày nay để thấy được tính ưu việt của xã hội hiện nay đã đem đến cho người phụ nữ cuộc sống mới và vị thế mới .
Bài văn tham khảo:
Phân tích nhân vật Vũ Nương trong “Chuyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ
- Mở bài:
“Chuyện người con gái Nam Xương” là truyện tiêu biểu trong số sáng tác viết về đề tài người phụ nữ và là truyện thứ 16 trong 20 thiên truyện của tác phẩm “Truyền ki mạn lục”. Ở tác phẩm “Chuyện người con gái Nam Xương”, ngòi bút Nguyễn Dữ đã xây đựng nên hình tượng của nhân vật Vũ Nương, một hình tượng nhân vật điển hình cho số phận có tính bi kịch của người phụ nữ trong xã hội phong kiến đầy những bất công, ngang trái.
- Thân bài:
Nguyễn Dữ là một trong những học trò xuất sắc của Trạng trình Nguyễn Bỉnh Khiêm. Sống trong cảnh chế độ phong kiến mục nát, sau khi đỗ hương cống, Nguyễn Dữ chỉ làm quan một năm rồi lui về ở ẩn. Đó là hành động bày tỏ thái độ chán nản trước thời cuộc của một trí thức tâm huyết nhưng sinh ra không gặp thời. Cảm thương số kiếp lầm than của những con người bất hạnh, ông kí thác tất cả tâm tư của mình vào trong các tác phẩm. Hình tượng nhân vật Vũ Nương là một thành công lớn của ông không chỉ về mặt hình thức nghệ thuật mà còn ở chỗ nhân vật đại diện cho tiếng nói bi thương, tiếng thét đòi quyền sống của người phụ nữ trong xã hội cũ vốn tồn tại nhiều bất công, bạo ngược.
1. Phẩm đức cao đẹp của Vũ Nương:
Mở đầu tác phẩm, tác giả đã có lời giới thiệu bao quát về Vũ Nương “Tính đã thuỳ mị nết na lại thêm tư dung tốt đẹp” tạo ấn tượng về một chân dung phụ nữ hoàn hảo. Sau đó ông đi sâu miêu tả vẻ đẹp tâm hồn, phẩm chất của nhân vật trong các mối quan hệ khác nhau, trong các tình huống khác nhau.
Vũ Nương là một người phụ nữ thuộc giới bình dân “vốn con kẻ khó”. Ngay từ đầu, Nguyễn Dữ đã thể hiện cái nhìn tiến bộ: quan tâm đến đời sống của người phụ nữ xuất thân từ tầng lớp bình dân.
Vũ Nương mang vẻ đẹp của một người phụ nữ lí tưởng. Chỉ bằng một vài câu văn, Nguyễn Dữ đã phác họa vẻ đẹp hoàn hảo. Nàng tính tình thùy mị nết na lại thêm tư dung tốt đẹp. Ở nàng là sự dịu dàng, hiền hậu, tốt nết, dễ mến. Vẻ đẹp cân đối hài hòa, tươi tẳn của Vũ Nương khiến người đọc ngay lập tức ấn tượng và cảm mến vô cùng.
Không chỉ ở hình thức, đức hạnh của Vũ Nương cũng trọn vẹn theo tiêu chuẩn đương thời. Khi về làm vợ Trương Sinh, biết tính chồng, lúc nào nàng cũng cư xử đúng mực, hết lòng vun vén cho hạnh phúc gia đình “giữ gìn khuôn phép, không từng để lúc nào vợ chồng phải đền thất hòa. Hẳn đó là một người phụ nữ biết kính nhường, tuân thủ nguyên tắc tốt đẹp, lúc nào cũng hướng đến việc làm tròn bổn phận.
Chiến tranh đã khiến cho hạnh phúc lứa đôi chưa kịp mặn nồng thì chồng nàng phải ra trận. Khi tiễn chồng ra trận, nàng đằm thắm thiết tha, ân cần đưa tiễn, nỗi lòng lo lắng ngổn ngang như thấy trước những khó khăn nơi chiến trận: “chỉ xin ngày về mang theo hai chữ hình vén” chứ không mong gì phong ấn công hầu. Đó là người vợ không tham quyền quý, chẳng cậy giàu sang, thật đáng kính trọng.
Khi Trương Sinh đi chiến trận, Vũ Nương một mình nuôi dạy con thơ, phụng dưỡng mẹ chồng chu đáo, canh cánh bên lòng nỗi mong nhớ cô đơn. Lời nói của mẹ chồng trước lúc lâm chung “xanh kia quyết chẳng phụ con cũng như con đõ chẳng phụ mẹ” đã khẳng định mạnh mẽ quý phẩm, cao đức của nàng.
2. Bi kịch cuộc đời Vũ Nương:
Dẫn đến bi kịch cuộc đời của nhân vật Vũ Nương trước hết là do vị thế thấp kém của nàng. Cuộc hôn nhân giữa Vũ Nương và Trương Sinh có phần không bình đẳng. Vũ Nương “vốn con kẻ khó” còn Trương Sinh lại là “nhà giàu” đến độ khi muốn Sinh có thể xin mẹ trăm lạng vàng để cưới Vũ Nương về. Sự cách bức giàu nghèo ấy khiến Vũ Nương sinh mặc cảm và cũng là cái thế khiến Trương Sinh có thể đối xử thô bạo, gia trưởng với nàng.
Xã hội phong kiến nam quyền với những bất công, ngang trái đã khiến cho thân phận người phụ nữ trở nên nhỏ bé, thấp kém. Thói gia trường, đa nghi đã bóp chết niềm khao khát nghi gia nghi thất một đời của Vũ Nương, dẫn đến bi kịch thảm khốc.
Chiến tranh là nguyên nhân gieo rắc oan nghiệt vào số phận của nàng. Chiến tranh đã làm xa cách, tạo điều kiện cho sự hiểu lầm trở thành nguyên nhân gây bất hạnh. Đó cũng là ngòi nổ cho thói hay ghen, đa nghi của Trương Sinh nảy nở, phát triển.
Tiếp đến, chính lời nói ngây thơ của bé Đản làm bùng lên tất cả những hoài nghi và bất ổn trong lòng ích kỉ và mù quáng của Trương Sinh khiến chàng hành động hồ đồ đến nỗi vô tình bức hại Vũ nương. Quá oan ức, Vũ Nương gieo mình ở bến Hoàng Giang để người đời mãi xót xa về tấn bi kịch về số phận đau xót của người phụ nữ thời phong kiến – tấn bi kịch về cái đẹp bị chà đạp trong cuộc sống. Đó là bản án đanh thép đối với xã hội đương thời.
3. Cuộc sống chốn thủy cung:
Nguyễn Dữ như muốn minh oan và bù đắp cho những đức tính tốt đẹp của nàng bằng một cuộc sống khác với chốn dương gian. Nơi cung nước, Vũ Nương vẫn không nguôi nhớ đến gia đình – khóc thương gia cảnh tiêu điều, xơ xác. Và khi gặp được Phan Lang, người làng cũ, nàng kể rõ sự tình và gửi lời thiết tha, xin lập đàn giải oan, khao khát được trả lại danh dự, được rửa oan.
Hình tượng nhân vật Vũ Nương là hiện thân của lòng vị tha, vẻ đẹp người phụ nữ đức hạnh. Song cuộc đời nàng gặp nỗi bi kịch lớn. Đó cũng là bi kịch của những người phụ nữ trong chế độ xã hội phong kiến bất công, hà khắc.
- Kết bài:
Tuy có những phẩm chất tâm hồn đáng quý nhưng nhân vật Vũ Nương đã phải chịu một số phận cay đắng, oan nghiệt. Nghịch lí ấy tự nó đã là tiếng nói tố cáo xã hội phong kiến bất công phi lí đương thời chà đạp lên hạnh phúc của con người. Xây dựng hình tượng Vũ Nương, một mặt nhà văn ngợi ca những phẩm chất tâm hồn đáng quý của người phụ nữ, mặt khác thể hiện thái độ cảm thông thương xót cho số phận bất hạnh của họ và cực lực lên án xã hội phong kiến đương thời bất công, phi lí chà đạp, rẻ rúng con người đặc biệt là người phụ nữ. Có lẽ chưa cần nhiều, chỉ cần khai thác chân dung Vũ Nương đã đủ thấy chiều sâu hiện thực và nhân đạo của ngòi bút Nguyễn Dữ.
Học trực tuyến
K
Khách
Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
PT
Phan Thị Kim Ngân
5 tháng 10 2021
Phân tích đặc điểm nhân vật Vũ Nương trong chuyện ”Truyền kì mạn lục”
Ngữ văn lớp 9
2
Trả lời nhanh câu hỏi này
CT
Cao Tùng Lâm
5 tháng 10 2021
“Chuyện người con gái Nam Xương” rút trong tác phẩm “Truyền kì mạn lục”, áng văn xuôi viết bằng chữ Hán của Nguyễn Dữ trong thế kỉ 16. Một kiệt tác văn chương cổ được ca ngợi là “thiên cổ kì bút”. Truyện kể lại một câu chuyện truyền kì có nhiều yếu tố hoang đường lưu truyền trong dân gian về bi kịch gia đình ở Nam Xương có dòng sông Hoàng Giang vào cuối thế kỉ 14, đầu thế kỉ 15, một thời loạn lạc, đầy biến động. Nhân vật Vũ Nương là người con gái bạc mệnh đáng thương đó có bao phẩm chất tốt đẹp tiêu biểu cho đức hạnh của người phụ nữ trong xã hội phong kiến ngày xưa.
Tên của nàng là Vũ Thị Thiết, quê ở Nam Xương, thuộc phủ Lí Nhân, tỉnh Hà Nam ngày nay. Xuất thân trong một gia đình “kẻ khó”, nhưng Vũ Nương vừa có nhan sắc vừa có đức hạnh: “tính đã thùy mị, nết na, lại thêm có tư dung tốt đẹp”. Nàng là một cô gái danh giá nên Trương Sinh, con nhà hào phú “mến vì dung hạnh” đã xin với mẹ đem trăm lạng vàng cưới về. Trong đạo vợ chồng, Vũ Nương là một người phụ nữ thông minh, đôn hậu, biết chồng có tính “đa nghi”, nàng đã “giữ gìn khuôn phép” không để xảy ra cảnh vợ chồng phải “thất hòa”, sống giữa thời loạn lạc Trương Sinh phải tòng quân đi chinh chiến ở biên ải xa xôi. Buổi tiễn chồng ra trận, Vũ Nương đã rót chén rượu đầy chúc chồng “được hai chữ bình yên”: nàng chẳng mong được đeo ấn phong hầu mặc áo gấm trở về quê cũ… Ước mong của nàng thật bình dị, vì nàng đã coi trọng hạnh phúc gia đình hơn mọi công danh phù phiếm ở đời. Những năm tháng xa cách, Vũ Nương thương nhớ chồng khôn xiết kể: “… mỗi khi thấy bướm lượn đầy vườn, mây che kín núi, thì nỗi buồn góc bể chân trời không thể nào ngăn được”. Tâm trạng nhớ thương đau buồn ấy của Vũ Nương cũng là tâm trạng chung của những người chinh phụ trong mọi thời loạn lạc xưa nay:
… “Nhớ chàng đằng đẵng đường lên bằng trời
Trời thăm thẳm xa vời khôn thấu
Nỗi nhớ chàng đau đáu nào xong…”
(Chinh phụ ngâm)
Thể hiện tâm trạng ấy, Nguyễn Dữ vừa cảm thông với nỗi đau khổ của Vũ Nương, vừa ca ngợi tấm lòng thủy chung thương nhớ đợi chờ chồng của nàng. Vũ Nương là một phụ nữ đảm đang, giàu tình thương. Chồng ra trận mới được một tuần thì nàng sinh ra một đứa con trai đặt tên là Đản. Mẹ chồng già yếu, ốm đau, nàng “hết sức thuốc thang”, “ngọt ngào khôn khéo khuyên lơn”. Vừa phụng dưỡng mẹ già, vừa chăm sóc nuôi dạy con thơ. Lúc mẹ chồng qua đời, nàng đã “hết lời thương xót”, việc ma chay tế lễ được lo liệu, tổ chức rất chu đáo “như đối với cha mẹ đẻ mình”. Qua đó, ta thấy trong Vũ Nương cùng xuất hiện 3 con người tốt đẹp: nàng dâu hiếu thảo, người vợ đảm đang thủy chung, người mẹ hiền đôn hậu. Đó là hình ảnh người phụ nữ lí tưởng trong xã hội phong kiến ngày xưa.
Qua năm sau, “việc quân kết thúc, Trương Sinh từ miền xa chinh chiến trở về. Thế nhưng, Vũ Nương không được hưởng hạnh phúc trong cảnh vợ chồng sum họp. Chỉ vì chuyện chiếc bóng qua miệng đứa con thơ mới tập nói, mà Trượng Sinh đinh ninh là vợ hư, đã “mắng nhiếc” và “đánh đuổi đi”. Vốn là một kẻ vô học lại hồ đồ vũ phu. Trương Sinh đã bỏ ngoài tai mọi lời “bày tỏ” của vợ, mọi sự “biện bạch” của họ hàng làng xóm. Vũ Nương đã bị chồng đẩy vào bi kịch, bị vu oan là người vợ “mất nết hư ân”. Vũ Nương phải nhảy xuống sông Hoàng Giang tự tử để tỏ rõ là người phụ nữ “đoan trang giữ tiết, minh bạch gìn lòng”, mãi mãi soi tỏ với dời “vào nước xin làm ngọc Mị Nương, xuống đất xin là cỏ Ngu Mĩ”. Bi kịch Vũ Nương là bi kịch gia đình từ chuyện chồng con, nhưng nguyên nhân sâu xa là do chiến tranh loạn lạc đã gây nên. Chỉ một thời gian ngắn, sau khi Vũ Nương tự tử, một đêm khuya dưới ngọn đèn, chợt đứa con nói rằng: “Cha Đản lại đến kia kìa!”. Lúc bấy giờ Trương Sinh “mới tỉnh ngộ thấu nỗi oan của vợ, nhưng việc trót đã rồi. Người đọc xưa nay cũng chỉ biết thở dài, cùng Nguyễn Dữ xót thương cho người con gái Nam Xương và bao phụ nữ bạc mệnh khác trong cõi đời. Vũ Nương tự tử, nàng cũng chẳng oán chồng con “rày xin chén nước cho người thác oan” (Truyện Kiều).
Phần cuối truyện đậm đặc tính chất hoang đường. Nào là Phan Lang nằm mộng thấy người con gái áo xanh đến kêu xin tha mạng. Phan Lang được biếu một con rùa mai xanh nhưng không giết thịt mà đem thả con rùa xuống sông. Nào là Phan Lang bị chết đuối, xác giạt vào động rùa ở hải đảo. Linh Phi vợ vua biển Nam Hải lấy khăn dấu mà lau, thuốc thần mà đổ. Phan Lang sống lại. Linh Phi mở tiệc ở gác Triêu Dương để thết đãi Phan Lang, ân nhân cứu sống mình ngày xưa. Tình tiết Phan Lang gặp Vũ Nương tại bữa tiệc của Linh Phi. Vũ Nương khóc khi nghe Phan Lang nhắc lại nhà cửa, phần mộ của tiền nhân. Tình tiết Vũ Nương gửi Phan Lang chiếc hoa tai vàng và dặn chồng lập đàn tràng ở bến Hoàng Giang. Hình ảnh Vũ Nương ngồi kiệu hoa, phía sau có năm mươi chiếc xe cờ tán võng lọng rực rỡ đầy sông, lúc ẩn, lúc hiện… là những chi tiết hoang đường, nhưng đã tô đậm nỗi đau của người phụ nữ bạc mệnh… yên phận hẩm hiu, và có giá trị tố cáo lễ giáo phong kiến vô nhân đạo. Câu nói của ma Vũ Nương giữa dòng sông vọng vào: “Đa tạ tình chàng, thiếp chẳng thể trở về nhân gian được nữa” đã làm cho giá trị nhân đạo của truyện thêm phần bi thiết. Nỗi ân tình của Vũ Nương đã được minh oan và giải tỏa? nhưng âm – dương đã đôi đường cách trở, nàng chẳng thể trở lại dương gian, chẳng bao giờ còn được làm vợ, làm mẹ nữa. Bé Đản mãi mãi là đứa con mồ côi mẹ.
Tóm lại, Vũ Nương là một người con gái dung hạnh mà bạc mệnh. Nguyễn Dữ đã kể lại cuộc đời oan khổ của nàng với bao tình xót thương sâu sắc. Tuy mang yếu tố hoang đường, nhưng áng văn “Chuyện người con gái Nam Xương” giàu giá trị nhân đạo. Nhân vật Vũ Nương là một điển hình cho bi kịch của người phụ nữ trong gia đình và xã hội. Người đọc càng thêm xúc động khi nhớ lại vần thơ của vua Lê Thánh Tông trong bài “Lại bài viếng Vũ Thị”:
… “Chứng quả đã đôi vầng nhật nguyệt,
Giải oan chẳng lọ mấy đàn tràng…”
Đúng(0)
EO
❖×✔ᴍê ʜọᴄ)ミ★ ❖(☂TΣΔM☂STUDIΣS☂)ミ★
5 tháng 10 2021
Nguyễn Dữ là học trò xuất sắc của Tuyết giang phu tử Nguyễn Bỉnh Khiêm sống giữa thế kỉ XVI lúc mà chế độ phong kiến nhà Lê đang bắt đầu suy yếu. Nguyễn Dữ chỉ làm quan có một năm rồi về sống ẩn dật viết sách và sáng tác văn học. Chuyện người con gái Nam Xương được rút ra trong tập Truyền kì mạn lục, là một câu chuyện được nhà văn sáng tạo trở thành một tác phẩm văn học đích thực. Qua câu chuyện ta thấy nổi lên là nhân vật Vũ Nương với số phận và phẩm chất cao đẹp.
Số phận của Vũ Nương là một tấn bi kịch đầy thương tâm. Vũ Nương được giới thiệu là người phụ nữ phong kiến mang vẻ đẹp truyền thống “công – dung – ngôn – hạnh”. Bằng sự đồng cảm sâu sắc và tấm lòng trân trọng nâng niu, Nguyễn Dữ đã dành hết tâm huyết của mình để ca ngợi Vũ Nương.
Nhưng thật oái oăm, Vũ Nương được kết tinh bao nhiêu thứ đẹp thì để rồi trở nên trắng tay trong cuộc đời. Trong hoàn cảnh loạn lạc chiến tranh phong kiến, Trương Sinh phải đầu quân đi lính, nàng vất vả một mình nuôi con nhỏ chăm sóc mẹ chồng già yếu ốm đau. Cái bóng trên tường mà nàng vô tình dỗ con chính là nguyên cớ của sự sụp đổ. Ngày sum họp cũng là ngày nàng vĩnh viễn rời xa tổ ấm. Đau đớn hơn nữa kẻ đẩy nàng vào chỗ chết không ai khác chính là chồng và con mình. Chỉ vì lời nói ngây thơ của con trẻ “Ô hay! Thế ra ông cũng là cha tôi ư” mà Trương Sinh nghi vợ mình không thuỷ chồng. Tâm lý ghen tuông khiến Trương Sinh đến mù quáng, sự ích kỷ của kẻ vô học khiến Trương Sinh băm bổ phỉ bám và độc quyền không cho vợ thanh minh. Quả thực sự ghen tuông dẫn tới đa nghi đó của người đàn ông khiến cho người vợ dù có tinh khôn đến mấy thì cũng khó lòng mà lường hết được. Lẽ ra cuộc sống hạnh phúc là tin tưởng là cảm thông nhưng một kẻ tầm thường như Trương Sinh thì chỉ cần một cái cớ rất nhỏ ấy cũng có thể tưởng tượng ra sự việc vô cùng nghiêm trọng. Cứ thế mà dẫn tới tan nát cửa nhà. Tuy nhiên xét về khách quan, trong hoàn cảnh Trương Sinh trở về sau ba năm mẹ đã mất, chỗ dựa tinh thần lớn nhất là vợ và con. Chàng cứ suy diễn để rồi tưởng tượng có người thứ ba xen vào trong gia đình mình. Chàng không còn tỉnh táo để suy xét lời con nói ngay cả sự van xin của vợ cũng chẳng thèm lọt tai. Nàng không tự minh oan cho mình được nữa đành gieo mình xuống sông tự tử.
Nỗi oan của Vũ Nương sẽ còn đeo đẳng mãi nếu như không có một đêm tình cờ “Cha Đản lại đến kia kìa” Người cha thứ hai vô tình ấy chính là nguyên nhân sâu xa gây ra cái chết oan uổng của Vũ Nương. Thế là chỉ một trò đùa trong thương nhớ dẫn tới cái chết oan khiên của người vợ dung hạnh. Nàng chết sự lẻ loi cô đơn và nỗi ân hận sẽ là hình phạt dày vò Trương Sinh suốt quãng đời còn lại. Cái chết của Vũ Nương cũng là đại diện cho số phận chung của người phụ nữ phong kiến. Một con người đẹp nết đẹp người, thuỷ chung son sắt thì bị nghi oan là thất tiết. Một con người hết lòng xây dựng cho hạnh phúc gia đình đến cuối cùng phải bất hạnh lìa xa cuộc đời. Tác phẩm tố cáo đanh thép cái xã hội nam quyền độc đoán, cảnh chiến tranh phong kiến dẫn tới sự chia lìa. Người đọc cũng được cảnh tỉnh về sự nhẹ dạ vô ý dẫn tới những hậu quả thương tâm.
Dưới chế độ phong kiến người phụ nữ bị coi rẻ, mất hết quyền tự chủ nhưng bằng tấm lòng nhân đạo cao cả Nguyễn Dữ đã dành những trang viết hết sức xúc động để ca ngợi phẩm chất của Vũ Nương. Mặc dù cuộc hôn nhân với Trương Sinh là hoàn toàn gượng ép nhưng nàng luôn sống yên phận hết lòng, vun đắp cho hạnh phúc nhà chồng. Biết chồng đa nghi và hay ghen lúc nào nàng cũng sống “khuôn phép” để vợ chồng khỏi “thất hoà”. Nàng thuỷ chung son sắt đợi chờ chồng trong những năm tháng chồng phải đi trận mạc: “Mỗi khi bướm lượn đầy vườn mây che kín núi thì nỗi buồn góc bể chân trời không thể nào ngăn được”. Khi bị chồng nghi oan nàng cố gắng dãi bày và níu kéo khi hôn nhân có nguy cơ đổ vỡ.
Chuyện mẹ chồng nàng dâu trong xã hội phong kiến thường là chuyện đố kị nhất trong gia đình. Nhưng với Vũ Nương nàng là người con dâu hiếu thảo: “Chăm sóc mẹ chồng như cha mẹ đẻ mình”, chạy chữa thuốc thang khi mẹ chồng ốm khiến cho mẹ chồng phải nể trọng. Trước khi chết bà cụ còn cầu nguyện “xanh kia quyết chẳng phụ con cũng như con đã chẳng phụ mẹ”. Khi mẹ chồng mất một mình nàng lo ma chay rất chu đáo, được mọi người kính nể. Vũ Nương còn là người mẹ tận tụy đảm đang hết lòng yêu thương con. Một mình một bóng nuôi con Vũ Nương vừa là người mẹ dịu hiền vừa làm thay bổn phận người cha để làm chỗ dựa tinh thần cho con trẻ.
Về với thuỷ cung, một thế giới lung linh huyền ảo, Vũ Nương được hồi sinh đúng như lời nguyện trước khi chết. Nàng vẫn mong muốn trở về với quê hương gia đình. Nhưng ước mơ vẫn chỉ là ước mơ. Tác giả thêu dệt bức tranh dưới thuỷ cung nhằm hoàn thiện nhân cách Vũ Nương: con người ấy ngay cả khi chết vẫn muốn được trở về với quê hương.
Bằng tài năng sáng tạo và tấm lòng nhân đạo cao cả. Nguyễn Dữ đã xây dựng thành công nhân vật Vũ Nương điển hình cho người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Họ là những con người có phẩm chất truyền thống tốt đẹp nhưng lại gặp nhiều nỗi oan trái cay nghiệt cái xã hội mà ta nói đến là:
Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn
Mà em vẫn giữ tấm lòng son
Đúng(0)
Những câu hỏi liên quan
LZ
Liying Zhao
22 tháng 5 2022
Cảm nhận của em về hình tượng nhân vật Vũ Nương trong Chuyện người con gái Nam Xương (trích Truyền kì mạn lục) của Nguyễn Dữ. Từ đó, hãy liên hệ với người phụ nữ Việt Nam trong xã hội hiện nay.
Ngữ văn lớp 9
0
Trả lời nhanh câu hỏi này
NN
ngoc ngoc
15 tháng 8 2018
từ 1 chuyện dân gian, bằng tài năng và sự thương cảm sâu sắc, nguyễn dữ viết thành chuyện người con gái nam xương . đây là 1 trong những chuyện hay nhất rút ra từ tập truyền kì mạn lục a) giải thích nhan đề truyền kì mạn lụcb) nêu các yếu tố kì ảo trong chuyện? ý nghĩa của những chi tiết ấyc) việc tác giả đưa vào cuối chuyện yếu tố kì ảo nói về sự trở về chốc lác của vũ…
Đọc tiếp
Ngữ văn lớp 9
1
Trả lời nhanh câu hỏi này
GN
GV Ngữ Văn
Giáo viên
15 tháng 8 2018
a. Truyền kì mạn lục: là ghi chép tản mạn những chuyện kì lạ vốn được lưu truyền trong dân gian.
b. Các yếu tố kì ảo trong truyện:
– Vũ Nương chết được xuống Thủy Cung.
– Vũ Nương gặp Linh Phi (người cùng làng, nhân nằm mộng và cứu rùa xanh mà được cứu khỏi chết đuối)
– Vũ Nương trở về trong cờ hoa võng lọng, gặp Trương Sinh chốc lát rồi biến mất.
c. Chi tiết kì ảo cuối truyện tưởng như khiến chuyện có kết thúc có hậu nhưng vẫn nhấn mạnh tính bi kịch của truyện:
– Vũ Nương được Trương Sinh lập đàn giải oan, gặp chàng để nói lời tạ từ, nhưng mãi chẳng thể trở về chốn dương gian.
– Bởi chế độ phong kiến hà khắc còn tồn tại, những người độc đoán gia trưởng như Trương Sinh còn đó thì Vũ Nương có sống lại thì cuộc sống gia đình cũng không được hạnh phúc, trọn vẹn.
=> Bởi vậy, mà người phụ nữ tài sắc vẹn toàn, có công dung ngôn hạnh như Vũ Nương, vốn chỉ mong cuộc sống gia đình êm đềm, hạnh phúc trước sau vẫn chịu kết cục bi thương. Tính bi kịch của câu chuyện không vì những chi tiết cuối truyện mà bị giảm đi. Đó chỉ là chút xót thương, bênh vực của tác giả, thể hiện mong muốn của nhân dân: có oan thì sẽ được giải oan, ngay trong cuộc sống thực, không phải ở cõi khác.
Đúng(0)
DH
Đinh Hoàng Yến Nhi
5 tháng 9 2017
Hãy phân tích giá trị nhân đạo của “Chuyện người con gái Nam Xương” (Trích Truyền kì mạn lục) của Nguyễn Dữ.
Ngữ văn lớp 9
1
Trả lời nhanh câu hỏi này
NT
Nguyễn Tuấn Dĩnh
5 tháng 9 2017
Viết bài văn nghị luận văn học. yêu cầu viết văn lưu loát, sinh động. Về cơ bản, phải nêu được các nội dung sau:
a. Mở bài (0.5đ)
– Giới thiệu tác giả, tác phẩm.
– Chuyện người con gái Nam Xương thấm đẫm giá trị nhân đạo sâu sắc, thể hiện qua số phận cuộc đời của nhân vật Vũ Nương.
b. Thân bài (9đ)
– Ca ngợi phẩm chất cao quý của người phụ nữ (5đ)
+ Vũ Nương là con nhà nghèo khó. Nàng hội tụ đầy đủ vẻ đẹp truyền thống của người phụ nữ: đảm đang, tháo vát, thủy chung, giàu tình nghĩa.
+ Là người con gái hoàn mĩ, đẹp người đẹp nết.
+ Là người vợ thủy chung, luôn có khát vọng hạnh phúc, yêu chồng tha thiết, không màng công danh phú quý, chỉ mong chồng bình an trở về.
+ Là người con dâu hiếu thảo: thay chồng chăm sóc mẹ tận tình, chu đáo từ lúc mẹ chồng ốm đến khi mất.
+ Người yêu con tha thiết, dạy dỗ con chu đáo.
+ Là người trọng danh dự: Khi bị nghi oan, nàng tìm mọi cách thanh minh, cuối cùng tìm đến cái chết để chứng minh mình trong sạch.
– Bi kịch bi vùi dập (1đ): chồng hiểu lầm, không nghe giải thích mà vội vàng kết luận nàng là người không đoan chính. Quá đau xót, nàng tự vẫn.
– Tâm hồn sáng trong như ngọc (2đ):
+ Nguyễn Dữ không để nàng chết oan khuất mà giải oan cho nàng ở chốn thủy cung thông qua chi tiết kì ảo. Cái chết oan khuất của nàng đã làm cảm động cả thần linh: nàng được Linh Phi cứu vớt và cho ở lại Long Cung.
+ Chồng nàng nhờ nói chuyện với con mà vỡ lẽ rằng hiểu lầm dẫn đến cái chết oan của vợ nên lập đàn giải oan cho nàng.
+ Hình ảnh nàng trở về khi chồng lập đàn giải oan “ngồi trên một chiếc kiệu hoa đứng ở giữa dòng, theo sau có đến hơn năm mươi chiếc xe cờ tán, võng lọng, rực rỡ đầy sông” như một sự đền bù, an ủi cho số phận bất hạnh của nàng trên dương thế.
– Xót thương cho số phận bất hạnh của nhân vật, đồng thời lên án những thế lực chà đạp cuộc sống, khát vọng hạnh phúc của con người. (1đ)
+ Đó là chiến tranh phi nghĩa cướp đi mái ấm của nàng, dẫn đến cảnh chia lìa, tang tóc.
+ Chế độ nam quyền đầy bất công, người chồng ghen tuông mù quáng.
c. Kết bài (0.5đ)
– Chuyện người con gái Nam Xương giàu tính nhân văn.
– Tiêu biểu cho số phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến.
Đúng(0)
NN
ngoc ngoc
13 tháng 8 2018
từ 1 chuyện dân gian , bằng tài năng và sự thương cảm sâu sắc của nguyễn dữ đã viết thành chuyện người con gái nam xương . đây là 1 trong những truyện hay nhất rút ra từ tập Truyền kì mạn lục.a, giải thích nhan đề truyền kì mạn lụcb, nêu các yếu tố kì ảo trong truyện . ý nghĩa của những chi tiết ấyc,việc tác giả dưa vào cuối truyện yếu tố kì ào nói về sự trở về chốc lác…
Đọc tiếp
Ngữ văn lớp 9
1
Trả lời nhanh câu hỏi này
CN
Cô Nguyễn Vân
VIP
22 tháng 8 2018
Truyền kì mạn lục – ghi chép tản mạn những chuyện kì lạ được lưu truyền.
Yếu tố kì ảo: Vũ Nương trầm mình tự vẫn, gặp Linh Lang, linh hồn trở về dương thế gặp Trương Sinh
Việc tác giả đưa vào cuối truyện yếu tố kì ảo nói về sự trở về chốc lát của Vũ Nương không làm cho bi kịch tác phẩm mất đi vì người con gái tư dung tốt đẹp, phẩm chất cao đẹp vẫn không được hưởng hạnh phúc thật sự nơi trần thế, tính chất tố cáo xã hội, tố cáo chiến tranh phi nghĩa vẫn đậm nét trong tác phẩm này
Đúng(0)
T
♥♥♥TRần★Nguyễn★Minh★Quang♥♥♥
23 tháng 8 2017
Viết về vẻ đẹp phẩm chất của Vũ Nương (Chuyện người con gái Nam Xương – Truyền kỳ mạn lục – Nguyễn Dữ)
Ngữ văn lớp 9
3
Trả lời nhanh câu hỏi này
TN
Trần Nguyễn Bảo Quyên
23 tháng 8 2017
Nhân vật Vũ Nương là người con gái bạc mệnh đáng thương đó có bao phẩm chất tốt đẹp tiêu biểu cho đức hạnh của người phụ nữ trong xã hội phong kiến ngày xưa.
Tên của nàng là Vũ Thị Thiết, quê ở Nam Xương, thuộc phủ Lí Nhân, tỉnh Hà Nam ngày nay. Xuất thân trong một gia đình “kẻ khó”, nhưng Vũ Nương vừa có nhan sắc vừa có đức hạnh: “tính đã thùy mị, nết na, lại thêm có tư dung tốt đẹp”. Nàng là một cô gái danh giá nên Trương Sinh, con nhà hào phú “mến vì dung hạnh” đã xin với mẹ đem trăm lạng vàng cưới về. Trong đạo vợ chồng, Vũ Nương là một người phụ nữ thông minh, đôn hậu, biết chồng có tính “đa nghi”, nàng đã “giữ gìn khuôn phép” không để xảy ra cảnh vợ chồng phải “thất hòa”, sống giũa thời loạn lạc Trương Sinh phải tòng quân đi chinh chiến ở biên ải xa xôi. Buổi tiễn chồng ra trận, Vũ Nương đã rót chén rượu đầy chúc chồng “được hai chữ bình yên”: nàng chẳng mong được đeo ấn phong hầu mặc áo gấm trở về quê cũ… Ước mong của nàng thật bình dị, vì nàng đã coi trọng hạnh phúc gia đình hơn mọi công danh phù phiếm ở đời. Những năm tháng xa cách, Vũ Nương thương nhớ chồng khôn xiết kể: “… mỗi khi thấy bướm lượn đầy vườn, mây che kín núi, thì nỗi buồn góc bể chân trời không thể nào ngăn được”.
Tâm trạng nhớ thương đau buồn ấy của Vũ Nương cũng là tâm trạng chung của những người chinh phụ trong mọi thời loạn lạc xưa nay:
… “Nhớ chàng đằng đẵng đường lên bằng trời
Trời thăm thẳm xa vời khôn thấu
Nỗi nhớ chàng đau đáu nào xong…”
(Chinh phụ ngâm)
Thể hiện tâm trạng ấy, Nguyễn Dữ vừa cảm thông với nỗi đau khổ của Vũ Nương, vừa ca ngợi tấm lòng thủy chung thương nhớ đợi chờ chồng của nàng.
Vũ Nương là một phụ nữ đảm đang, giàu tình thương. Chồng ra trận mới được một tuần thì nàng sinh ra một đứa cọn trai đặt tên là Đản. Mẹ chồng già yếu, ốm đau, nàng “hết sức thuốc thang”, “ngọt ngào khôn khéo khuyên lơn”. Vừa phụng dưỡng mẹ già, vừa chăm sóc nuôi dạy con thơ. Lúc mẹ chồng qua đời, nàng đã “hết lời thương xót”, việc ma chay tế lễ được lo liệu, tổ chức rất chu đáo “như đối với cha mẹ đẻ mình”. Qua đó, ta thấy trong Vũ Nương cùng xuất hiện 3 con người tốt đẹp: nàng dâu hiếu thảo, người vợ đảm đang thủy chung, người mẹ hiền đôn hậu. Đó là hình ảnh người phụ nữ lí tưởng trong xã hội phong kiến ngày xưa.
Qua năm sau, “việc quân kết thúc, Trương Sinh từ miền xa chinh chiến trở về. Thế nhưng, Vũ Nương không được hưởng hạnh phúc trong cảnh vợ chồng sum họp. Chỉ vì chuyện chiếc bóng qua miệng đứa con thơ mới tập nói, mà Trượng Sinh đinh ninh là vợ hư, đã “máng nhiếc” và “đánh đuổi đi”. Vốn là một kẻ vô học lại hồ đồ vũ phu. Trương Sinh đã bỏ ngoài tai mọi lời “bày tỏ” của vợ, mọi sự “biện bạch” của họ hàng làng xóm. Vũ Nương đã bị chồng đẩy vào bi kịch, bị vu oan là người vợ “mất nết hư ân”. Vũ Nương phải nhảy xuống sông Hoàng Giang tự tử để tỏ rõ là người phụ nữ “đoan trang giữ tiết, minh bạch gìn lòng”, mãi mãi soi tỏ với dời “vào nước xin làm ngọc Mị Nương, xuống đất xin là cỏ Ngu Mĩ”. Bi kịch Vũ Nương là bi kịch gia đình từ chuyện chồng con, nhưng nguyên nhân sâu xa là do chiến tranh loạn lạc đã gây nên. Chỉ một thời gian ngắn, sau khi Vũ Nương tự tử, một đêm khuya dưới ngọn đèn, chợt đứa con nói rằng: “Cha Đản lại đến kia kìa !”. Lúc bấy giờ Trương Sinh “mới tỉnh ngộ thấu nỗi oan của vợ, nhưng việc trót đã rồi . Người đọc xưa nay cũng chỉ biết thở dài, cùng Nguyễn Dữ xót thương cho người con gái Nam Xương và bao phụ nữ bạc mệnh khác trong cõi đời. Vũ Nương tự tử, nàng cũng chẳng oán chồng con “rày xin chén nước cho người thác oan” (Truyện Kiều).
Phần cuối truyện đậm đặc tính chất hoang đường. Nào là Phan Lang nằm mộng thấy người con gái áo xanh đến kêu xin tha mạng. Phan Lang được biếu một con rùa mai xanh nhưng không giết thịt mà đem thả con rùa xuống sông. Nào là Phan Lang bị chết đuối, xác giạt vào động rùa ở hải đảo. Linh Phi vợ vua biển Nam Hải lấy khăn dấu mà lau, thuốc thần mà đổ. Phan Lang sống lại. Linh Phi mở tiệc ở gác Triêu Dương để thết đãi Phan Lang, ân nhân cứu sống mình ngày xưa. Tình tiết Phan Lang gặp Vũ Nương tại bữa tiệc của Linh Phi. Vũ Nương khóc khi nghe Phan Lang nhắc lại nhà cửa, phần mộ của tiền nhân. Tình tiết Vũ Nương gửi Phan Lang chiếc hoa tai vàng và dặn chồng lập đàn tràng ở bến Hoàng Giang. Hình ảnh Vũ Nương ngồi kiệu hoa, phía sau có năm mươi chiếc xe cờ tán võng lọng rực rỡ đầy sông, lúc ẩn, lúc hiện… là những chi tiết hoang đường, nhưng đã tô đậm nỗi đau của người phụ nữ bạc mệnh… yên phận hẩm hiu, và có giá trị tố cáo lễ giáo phong kiến vô nhân đạo. Câu nói của ma Vũ Nương giữa dòng sông vọng vào: “Đa tạ tình chàng, thiếp chẳng thể trở về nhân gian được nữa” đã làm cho giá trị nhân đạo của truyện thêm phần bi thiết. Nỗi ân tình của Vũ Nương đã được minh oan và giải tỏa? nhưng âm – dương đã đôi đường cách trở, nàng chẳng thể trở lại dương gian, chẳng bao giờ còn được làm vợ, làm mẹ nữa. Bé Đản mãi mãi là đứa con mồ côi mẹ.
Tóm lại, Vũ Nương là một người con gái dung hạnh mà bạc mệnh. Nguyễn Dữ đã kể lại cuộc đời oan khổ của nàng với bao tình xót thương sâu sắc. Tuy mang yếu tố hoang đường, nhung áng văn “Chuyện người con gái Nam Xương” giàu giá trị nhân đạo. Nhân vật Vũ Nương là một điển hình cho bi kịch của người phụ nữ trong gia đình và xã hội. Người đọc càng thêm xúc động khi nhớ lại vần thơ của vua Lê Thánh Tông trong bài “Lại bài viếng Vũ Thị”:
… “Chứng quả đã đôi vầng nhật nguyệt,
Giải oan chẳng lọ mấy đàn tràng…”
Đúng(0)
TN
Trần Nguyễn Bảo Quyên
23 tháng 8 2017
??????????
Đúng(0)
TN
Thảo Nguyên Dương
20 tháng 11 2021
Mn xem bài cho mình ý kiến góp ý ạ! Có thể bạn đã nghe qua về “Truyền kì mạn lục”, một tác phẩm văn xuôi có giá trị của văn học cổ nước ta ở thế kỉ XVI có ảnh hưởng sâu sắc đến lòng người mọi thời. Và tôi chính là nhân vật Vũ Nương, một phụ nữ đẹp người, đẹp nết đã phải lấy cái chết để minh oan trước sự ghen tuông vô cớ của chồng mình. Tôi tên thật là Vũ Thị…
Đọc tiếp
Ngữ văn lớp 9
0
Trả lời nhanh câu hỏi này
PH
Phạm Hải Hiếu
18 tháng 8 2021
Phân tích nhân vật Vũ Nương trong chuyện người con gái Nam Xương
Giúp mình với
Ngữ văn lớp 9
1
Trả lời nhanh câu hỏi này
N
nthv_.
18 tháng 8 2021
Tham khảo:
Thân em như hạt mưa sa,
Hạt vào đài các, hạt ra ruộng cày.
Lời ca dao cứ da diết, ngân vang, ám ảnh. Ngược dòng thời gian trở về quá khứ, hình tượng người phụ nữ Việt Nam trong văn học thật đẹp, thật sáng trong, nhưng số phận của họ cũng thật nhiều éo le, ngang trái. Tôi thực sự bị ám ảnh bởi hình ảnh Vũ Nương trong Chuyện người con gái Nam Xương của Nguyễn Dữ. Có lẽ đây là một trong những hình tượng đầu tiên, phản ánh chân thực và rõ nét số phận của người phụ nữ Việt Nam trong xã hội phong kiến hà khắc.
Mở đầu câu chuyện, tác giả đã giới thiệu một cách ngắn gọn về nhân vật Vũ Nương. Đó là người phụ nữ đẹp người, đẹp nết: “Vũ Thị Thiết, người con gái quê ở Nam Xương, tính đã thuỳ mị, nết na, lại thêm tư dung tốt đẹp”. Mặc dù, truyện được viết theo thể loại truyền kì, nhưng với cách giới thiệu họ tên, quê quán cụ thể, tác giả tạo nên tính hiện thực sống động cho nhân vật. Người con gái đó không chỉ đẹp về nhan sắc mà còn có những phẩm chất sáng ngời : hiền hậu, đảm đang, chung thủy, giàu đức hi sinh. Tác giả đã đưa ra nhiều chi tiết thể hiện phẩm chất đáng quý đó của Vũ Nương.
Tuy Trương Sinh – chồng của nàng – là một người đa nghi, “đối với vợ phòng ngừa quá sức” nhưng “nàng cũng giữ gìn khuôn phép, không từng để lúc nào vợ chồng phải đến thất hoà”. Người phụ nữ là người giữ lửa cho mỗi gia đình, Vũ Nương đã khéo léo giữ được không khí đầm ấm, hạnh phúc cho mái nhà nhỏ của mình. Đây thực sự là điều không hề dễ dàng. Cũng như bao người phụ nữ Việt Nam khác, Vũ Thị Thiết đã hi sinh hết mình vì chồng. Nhưng hạnh phúc mà nàng được hưởng thật ngắn ngủi, chẳng khác nào “bóng câu qua cửa sổ”. Người đọc thật xót xa, thương cảm khi nghe những lời chia li của nàng trước khi chồng ra trận: “Chàng đi chuyến này, thiếp chẳng dám mong đeo được ấn phong hầu, mặc áo gấm trở về quê cũ, chỉ xin ngày về mang theo được hai chữ bình yên, thế là đủ rồi.
Chỉ e việc quân khó liệu, thế giặc khôn lường. Giặc cuồng còn lẩn lút, quân triều còn gian lao, rồi thế chẻ tre chưa có, mà mùa dưa chín quá kì, khiến cho tiện thiếp băn khoăn, mẹ hiền lo lắng. Nhìn trăng soi thành cũ, lại sửa soạn áo rét, gửi người ải xa, trông liễu rủ bãi hoang, lại thổn thức tâm tình thương người đất thú ! Dù có thư tín nghìn hàng, cũng sợ không có cánh hồng bay bổng”. Nếu như người ra đi phải đối diện với hiểm nguy vì hòn tên mũi đạn thì người ở nhà cũng phải chịu bao khổ đau với nỗi cô đơn tột cùng, mỏi mòn và niềm mong ngóng cháy bỏng. Bởi lẽ: “Non Kì quạnh quẽ trăng treo – Bến Phì gió thổi đìu hiu mấy gò” (Chinh phụ ngâm – Đoàn Thị Điểm), người ra đi mấy ai may mắn trớ về. Vũ Nương thương chồng hết mực và chính tình thương yêu đó đã biến thành sức mạnh để nàng vượt qua bao khó khăn khi chồng ra đi.
Dù nhớ chồng “nỗi buồn góc bể chân trời không thể nào ngăn được” nhưng Vũ Nương vẫn giấu kín nỗi buồn tủi để nuôi con và chăm sóc mẹ chồng đau yếu : “Nàng hết sức thuốc thang lễ bái thần phật và lấy lời ngọt ngào khôn khéo khuyên lơn”. Tấm lòng hiếu thảo của nàng cũng được mẹ chồng cảm biết: “Chồng con nơi xa xôi chưa biết sống chết thế nào, không thể về đền ơn được. Sau này, trời xét lòng lành, ban cho phúc đức, giống dòng tươi tốt, con cháu đông đàn, xanh kia quyết chẳng phụ con, cũng như con đã chẳng phụ mẹ”. Người đọc thật khâm phục, ngưỡng mộ tấm lòng của Vũ Thị Thiết đối với mẹ chồng, nàng đã coi bà như mẹ đẻ và chăm sóc, phụng dưỡng, lo “ma chay tế lễ” rất chu đáo. Nàng thực sự là một nàng dâu thảo hiền.
Là người phụ nữ đẹp người, đẹp nết tưởng rằng Vũ Nương sẽ được hưởng hạnh phúc suốt đời nhưng nàng lại có một số phận thật bi thảm, bất hạnh. Tấm lòng hi sinh, hiếu thảo của Vũ Nương tưởng như được đền đáp khi Trương Sinh từ chiến trận trở về. Song, cuộc đời thật trớ trêu, ngày chồng trở về không phải ngày Vũ Nương ngập tràn trong hạnh phúc sum vầy mà là ngày định mệnh, tột cùng đau khổ, bi thương với nàng. Lời nói ngây thơ của bé Đản chẳng khác nào những nhát dao oan nghiệt: “Ô hay! Thế ra ông cũng là cha tôi ư? Ông lại biết nói, chứ không như cha tôi trước kia chỉ nín thin thít […] Trước đây, thường có một người đàn ông, đêm nào cũng đến, mẹ Đản đi cũng đi, mẹ Đản ngồi cũng ngồi, nhưng chẳng bao giờ bế Đản cả”. Người ta thường nói: “Đi hỏi già, về nhà hỏi trẻ”, Trương Sinh lại là người hay ghen và đa nghi do đó lời nói của con càng khiến chàng tin rằng Vũ Nương đã phụ bạc mình. Chàng đâu biết “người đàn ông” mà cậu bé Đản nói chính là cái bóng của chính Vũ Nương. Vì thương con, nhớ chồng nên nàng thường chỉ bóng mình ở trên vách và nói đó là cha Đản. Có lẽ nàng cũng không thể ngờ chính tình yêu thương chồng con lại trở thành mối dây oan nghiệt với cuộc đời mình. Nguyễn Dữ đã thật tài tình khi xây dựng tình huống đầy éo le, kịch tính, tạo sự hồi hộp cho độc giả. Liệu Vũ Nương sẽ giải thích sao đây? Liệu tự nàng có giải oan được cho mình hay không?
Cuộc đời của Vũ Nương chẳng khác nào cánh bèo đơn chiếc trôi nổi giữa dòng đời. Nàng đã bị đẩy vào tình huống dù giải thích thế nào chồng cũng không tin, nàng chỉ còn biết than khóc với trời xanh, sông rộng: “kẻ bạc mệnh này duyên phận hẩm hiu, chồng con rẫy bỏ, điều đâu bay buộc, tiếng chịu nhuốc nhơ, thần sông có linh, xin ngài chứng giám. Thiếp nếu đoan trang giữ tiết, trinh bạch gìn lòng, vào nước xin làm ngọc Mị Nương, xuống đất xin làm cỏ Ngu mĩ. Nhược bằng lòng chim dạ cá, lừa chồng dối con, dưới xin làm mồi cho cá tôm, trên xin làm cơm cho diều quạ và xin chịu khắp mọi người phỉ nhổ”. Lời thề của Vũ Nương vừa thể hiện niềm đau đớn khôn nguôi vừa khẳng định tấm lòng trinh bạch của nàng. Tác giả đã sử dụng kết hợp các điển tích, điển cố “ngọc Mị Nương, cỏ Ngu mĩ” như lối so sánh ngầm. Tấm lòng của Vũ Thị Thiết cũng sáng trong, trinh khiết như Mị Nương, Ngu Cơ – những trang “tiết hạnh khả phong” của muôn đời. Lòng tự trọng bị xúc phạm nặng nề và để minh oan cho sự trong sáng của mình, Vũ Nương đã “gieo mình xuống sông mà chết”. Cái chết của nàng khiến người đọc hiểu thêm về số phận bi thảm của người phụ nữ xưa. Hạnh phúc với họ thật mong manh.
Tuy vậy, dù ở hoàn cảnh nào người phụ nữ vẫn đau đáu một niềm yêu thương chồng con tha thiết. Vũ Nương dù đã chết nhưng không nguôi nỗi nhớ mái ấm gia đình. Với tài năng bậc thầy, Nguyễn Dữ đã xây dựng nên một thế giới huyền ảo, một cây cầu nối hai bờ hư thực khi để nhân vật Phan Lang gặp lại và trò chuyện với Vũ Nương chốn thủy cung. Những giọt nước mắt của nàng khi nghe người hàng xóm nói về chồng con “Nhà cửa tiên nhân của nương tử, cây cối thành rừng, phần mộ tiên nhân của nương tử, cỏ gai ngợp mắt. Nương tử dù không nghĩ đến, nhưng tiên nhân còn mong đợi nương tử thì sao?” cho chúng ta thấy, nàng vẫn một lòng yêu thương Trương Sinh tha thiết. Vì còn lòng yêu thương nên nàng đã để cho Trương Sinh có cơ hội gặp lại mình: “Nhờ nói hộ với chàng Trương, nếu còn nhớ chút tình xưa nghĩa cũ, xin lập một đàn giải oan ở bến sông, đốt cây đèn thần chiếu xuống nước, tôi sẽ trở về”.
Tuy nhiên sự trở về của Vũ Nương thật ngắn ngủi : “Vũ Nương ngồi trên một chiếc kiệu hoa đứng ở giữa dòng, theo sau có đến năm mươi chiếc xe cờ tán, võng lọng, rực rỡ đầy sông lúc ẩn lúc hiện”. Nàng chỉ nói một câu duy nhất : “Thiếp cảm ơn đức của Linh Phi, đã thề sống chết cũng không bỏ. Đa tạ tình chàng thiếp chẳng thể trở về nhân gian được nữa”. Biết bao ý tình nhà văn Nguyễn Dữ đã gửi gắm vào sự trở về chốc lát của Vũ Nương. Đó là sự trở về để khẳng định lòng chung thủy, tình yêu thương, là món quà dành cho người biết hối lỗi như Trương Sinh. Cuộc gặp gỡ ngắn ngủi, chốc lát thể hiện con người đã ra đi mãi mãi không thể trở về, cũng như hạnh phúc một khi đã để tuột mất thật khó có thể lấy lại. Trương Sinh vì ghen tuông mù quáng nên đã để mất người vợ. Bên cạnh đó, ẩn sâu trong sự trở về của Vũ Nương là nỗi ngậm ngùi, đau đớn, xót xa cho số phận người phụ nữ:
Đau đớn thay phận đàn bà,
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung.
(Nguyễn Du – Truyện Kiều)
Hai chữ “bạc mệnh” cứ bám riết, đeo đẳng số phận người phụ nữ. Hình tượng Vũ Nương là điển hình nghệ thuật cho “phận đàn bà” tư dung tốt đẹp, chung thủy sắt son mà bất hạnh tột cùng. Câu chuyện vừa là niềm cảm thương sâu sắc với số phận người phụ nữ, vừa là tiếng nói vạch trần, tố cáo đanh thép đối với xã hội phong kiến đã chà đạp, bóp nghẹt quyền sống của con người. Chuyện người con gái Nam Xương do đó thấm đượm giá trị nhân đạo và giá trị hiện thực sâu sắc. Cho đến hôm nay câu chuyện vẫn như một hồi chuông nhắc nhở mọi người phải bênh vực, bảo vệ người phụ nữ để họ được hưởng những niềm hạnh phúc mà họ xứng đáng được hưởng. Gấp trang sách lại, lòng tôi vẫn băn khoăn tự hỏi: Liệu cuộc đời này còn biết bao người phải khổ như Vũ Nương?
Đúng(1)
PH
Phạm Hải Hiếu
18 tháng 8 2021
Dài quá bạn
Mà cũng cảm ơn nha
Đúng(1)
NT
Nguyễn Thị Yến Nga
6 tháng 2 2020
Trong đoạn kết của “Chuyện người con gái Nam Xương” trích trong “Truyền kì mạn lục” của Nguyễn Dữ, tại sao Vũ Nương không trở về đoàn tụ với chồng con ?
Ngữ văn lớp 9
2
Trả lời nhanh câu hỏi này
H
Havee_😘💗
6 tháng 2 2020
Việc nhân vật chính trong tác phẩm Chuyện người con gái Nam Xương của Nguyễn Dữ – nàng Vũ Nương – không trở lại nhân gian nữa sau khi trầm mình xuống sông vì nỗi oan không gì tháo gỡ được là một chi tiết đầy ý nghĩa. Trước hết, điều đó khẳng định nhân cách tốt đẹp, lòng tự trọng của Vũ Nương. Nàng dù vẫn còn lưu luyến và khao khát hạnh phúc trần gian nhưng nàng thà lìa bỏ những khao khát của mình chứ không trở lại nơi đã ruồng rẫy nàng một cách cay nghiệt. Sự việc này đồng thời là một lời nhắc nhở nghiêm khắc thói đa nghi ghen tuông hồ đồ của Trương Sinh. Chính Trương Sinh đã vội vã kết tội đẩy Vũ Nương đến cái chết thì nay, dù chàng có ăn năn hối lỗi thế nào Vũ Nương cũng không quay lại. Điều đó cảnh tỉnh người đọc rằng: hạnh phúc đã mất đi thì không bao giờ lấy lại được, bởi vậy mỗi chúng ta cần biết nâng niu trân trọng những hạnh phúc của đời mình. Mặt khác, đây cũng là một chi tiết mang giá trị hiện thực sâu sắc. Nó tố cáo xã hội phong kiến thối nát, mục ruỗng: đó là nơi không có chỗ dung thân cho những tâm hồn đẹp đẽ, cao thượng như Vũ Nương.
Đúng(1)
TP
Thảo Phương
7 tháng 2 2020
– Vũ Nương nói sẽ trở về khi Trương Sinh lập đàn giải oan vì nàng khát khao được phục hồi danh dự, mong được chồng chiêu tuyết cho nỗi oan khuất của mình…
– Nhưng cuối cùng lại không trở về, thực ra đâu phải chỉ vì cái nghĩa với Linh Phi : “Thiếp cảm ơn đức của Linh Phi, đã thề sống chết cũng không bỏ”, mà điều chủ yếu là nàng chẳng còn gì để trở về. Đàn giải oan chỉ là một chút an ủi cho người bạc phận chứ không thể làm sống lại tình xưa. Nỗi oan đã được giải, nhưng hạnh phúc thực sự đâu có thể tìm lại được nữa. Sự dứt áo ra đi của Vũ Nương biểu hiện thái độ phủ định cõi trần thế với cái xã hội bất công đương thời, cái xã hội mà ở đó người phụ nữ không thể có hạnh phúc.
Đúng(1)
AA
Admin (a@olm.vn)
Admin VIP
8 tháng 4 2021
Phân tích vẻ đẹp phẩm chất của nhân vật Vũ Nương trong Chuyện người con gái Nam Xương.
Ngữ văn lớp 9
281
Trả lời nhanh câu hỏi này
DT
Đình Tuệ Lâm
10 tháng 5 2021
1. Các chi tiết kì ảo là:
– Phan Lang nằm mộng rồi thả rùa.
– Phan Lang gặp nạn, lạc vào động rùa, gặp Linh Phi, được cứu giúp; gặp lại Vũ Nương rồi được sứ giả của Linh Phi rẽ đường nước đưa về dương thế.
– Vũ Nương hiện về trong cờ hoa rợp trời, trong lễ giải oan trên bến Hoàng Giang giữa lung linh huyền ảo rồi lại biến đi mất.
2. Ý nghĩa của các chi tiết kì ảo:
– Các chi tiết kì ảo (đặc biệt ở phần kết thúc truyện) làm nên đặc trưng của thể loại truyện truyền kì.
– Làm hoàn chỉnh thêm nét đẹp vốn có của Vũ Nương: nặng tình, nặng nghĩa, quan tâm đến chồng con, phần mộ tổ tiên, khao khát được phục hồi danh dự.
– Tạo nên kết thúc phần nào có hậu cho câu chuyện.
– Thể hiện ước mơ về lẽ công bằng ở cõi đời của nhân dân ta.
– Chi tiết kì ảo đồng thời cũng không làm mất đi tính bi kịch của câu chuyện. Vũ Nương trở về mà vẫn xa cách ở giữa dòng bởi nàng và chồng con vẫn âm dương chia lìa đôi ngả, hạnh phúc đã vĩnh viễn rời xa.
Đúng(0)
NT
Nguyễn Tuấn Anh
10 tháng 5 2021
Vũ Nương là người phụ nữ mang nhiều phẩm chất tốt đẹp của người phụ nữ Việt Nam.
Phẩm chất của nàng được thể hiện qua các chi tiết sau:
– Qua lời giới thiệu ở đầu câu chuyện: “tính tình thùy mị nết na”, “tư dung tốt đẹp”,…
– Trong cuộc sống hôn nhân gia đình: Vũ Nương hiểu Trương Sinh “có tính đa nghi nên luôn giữ gìn khuôn phép, không từng để lúc nào vợ chồng phải thất hòa”.
– Khi tiễn chồng đi lính: nàng rót chén rượu đầy và nói lời tiễn biệt mà ai nghe cũng phải ứa hai hàng lệ. Trong lời dặn dò chồng, nàng không mong vinh hiển, chỉ cầu chồng được bình an trở về, cảm thông trước nỗi khổ và nỗi vất vả gian lao mà chồng phải chịu đựng.
– Khi chồng ở xa:
+ Nàng là người con dâu hiếu thảo. Chăm sóc mẹ chồng chu đáo, mẹ chồng ốm, nàng hết sức thuốc thang và lo cầu khấn thần phật. Khi mẹ chồng qua đời, nàng lo ma chay chu tất. Lời mẹ chồng trăng trối trước lúc ra đi cũng thể chứng minh nàng là người con sống có hiếu.
+ Nàng là người mẹ đảm đang. Trong những ngày Trương Sinh đi lính, để con khỏi thiếu tình cha, nàng trỏ cái bóng của mình trên tường và nói đó là cha Đản. Đứa con vì thế mà luôn đầy đủ tình cảm, nhưng cũng chính đây là nguyên nhân gây ra cái chết oan khuất cho nàng.
– Khi bị chồng nghi oan:
+ Lời thoại 1: Vũ Nương phân trần để chồng hiểu rõ mình.
+ Lời thoại 2: Nàng nói lên nỗi đau đớn, thất vọng, không hiểu vì sao bị đối xử bất công.
+ Lời thoại 3: nàng bày tỏ niềm thất vọng đến tột cùng, không thể hàn gắn. Nàng quyết định trẫm mình ở sông Hoàng Giang để chứng minh sự trong sạch. => Đây là hành động quyết liệt cuối cùng để Vũ Nương bảo vệ danh dự của mình.
=> Vũ Nương là người phụ nữ xinh đẹp, nết na, đảm đang, tháo vát: Nàng là người vợ thủy chung, người con dâu hiếu thảo và người mẹ đảm đang, hết lòng vun đắp hạnh phúc gia đình. Một con người như thế đáng ra phải được hưởng hạnh phúc trọn vẹn, vậy mà lại phải chết một cách oan uổng, đau đớn.
Đúng(0)
NT
Nguyễn Thị Dung
10 tháng 5 2021
(*) Vũ Nương là người phụ nữ mang nhiều phẩm chất tốt đẹp của người phụ nữ Việt Nam.
+ Phẩm chất của nàng được thể hiện qua các chi tiết sau:
-Vũ Nương là người phụ nữ đẹp người đẹp nết,”tính đã thùy mị nết na lại thêm tư dung tốt đẹp”.
– Trong cuộc sống vợ chồng: Vũ Nương hiểu Trương Sinh “có tính đa nghi nên luôn giữ gìn khuôn phép, không từng để lúc nào vợ chồng phải thất hòa”.
– Khi tiễn chồng đi lính: nàng rót chén rượu đầy và nói lời tiễn biệt mà ai nghe cũng phải ứa hai hàng lệ. Trong lời dặn dò chồng, nàng không mong vinh hiển, “đeo ấn phong hầu ,mặc áo gấm trở về quê cũ “, chỉ cầu chồng được bình an trở về, cảm thông trước nỗi khổ và nỗi vất vả gian lao mà chồng phải chịu đựng.
– Khi chồng ở xa:
+ Nàng là người con dâu hiếu thảo. Chăm sóc mẹ chồng chu đáo, mẹ chồng ốm, nàng hết sức thuốc thang và lo cầu khấn thần phật. Khi mẹ chồng qua đời, nàng lo ma chay chu tất. Lời mẹ chồng trăng trối trước lúc ra đi cũng thể chứng minh nàng là người con sống có hiếu.
+ Nàng là người mẹ đảm đang. Trong những ngày Trương Sinh đi lính, để con khỏi thiếu tình cha, nàng trỏ cái bóng của mình trên tường và nói đó là cha Đản. Đứa con vì thế mà luôn đầy đủ tình cảm, nhưng cũng chính đây là nguyên nhân gây ra cái chết oan khuất cho nàng.
– Khi bị chồng nghi oan:
+ Lời thoại 1: Vũ Nương phân trần để chồng hiểu rõ mình.
+ Lời thoại 2: Nàng nói lên nỗi đau đớn, thất vọng, không hiểu vì sao bị đối xử bất công.
+ Lời thoại 3: nàng bày tỏ niềm thất vọng đến tột cùng, không thể hàn gắn. Nàng quyết định trẫm mình ở sông Hoàng Giang để chứng minh sự trong sạch. => Đây là hành động quyết liệt cuối cùng để Vũ Nương bảo vệ danh dự của mình.
=> Vũ Nương là hình mẫu lý tưởng trong xã hội phong kiến vừa xinh đẹp ,nết na ,đảm đang :Nàng là người vợ thủy chung, người con dâu hiếu thảo và người mẹ đảm đang, hết lòng vun đắp hạnh phúc gia đình. Một con người như thế đáng ra phải được hưởng hạnh phúc trọn vẹn, ấy vậy mà lại phải chết một cách oan uổng, đau đớn.
Đúng(0)
NT
Nguyễn Thị Thu Trang
10 tháng 5 2021
Vũ Nương là người phụ nữ mang nhiều phẩm chất tốt đẹp của người phụ nữ Việt Nam.
Phẩm chất của nàng được thể hiện qua các chi tiết sau:
– Qua lời giới thiệu ở đầu câu chuyện: “tính tình thùy mị nết na”, “tư dung tốt đẹp”,…
– Trong cuộc sống hôn nhân gia đình: Vũ Nương hiểu Trương Sinh “có tính đa nghi nên luôn giữ gìn khuôn phép, không từng để lúc nào vợ chồng phải thất hòa”.
– Khi tiễn chồng đi lính: nàng rót chén rượu đầy và nói lời tiễn biệt mà ai nghe cũng phải ứa hai hàng lệ. Trong lời dặn dò chồng, nàng không mong vinh hiển, chỉ cầu chồng được bình an trở về, cảm thông trước nỗi khổ và nỗi vất vả gian lao mà chồng phải chịu đựng.
– Khi chồng ở xa:
+ Nàng là người con dâu hiếu thảo. Chăm sóc mẹ chồng chu đáo, mẹ chồng ốm, nàng hết sức thuốc thang và lo cầu khấn thần phật. Khi mẹ chồng qua đời, nàng lo ma chay chu tất. Lời mẹ chồng trăng trối trước lúc ra đi cũng thể chứng minh nàng là người con sống có hiếu.
+ Nàng là người mẹ đảm đang. Trong những ngày Trương Sinh đi lính, để con khỏi thiếu tình cha, nàng trỏ cái bóng của mình trên tường và nói đó là cha Đản. Đứa con vì thế mà luôn đầy đủ tình cảm, nhưng cũng chính đây là nguyên nhân gây ra cái chết oan khuất cho nàng.
– Khi bị chồng nghi oan:
+ Lời thoại 1: Vũ Nương phân trần để chồng hiểu rõ mình.
+ Lời thoại 2: Nàng nói lên nỗi đau đớn, thất vọng, không hiểu vì sao bị đối xử bất công.
+ Lời thoại 3: nàng bày tỏ niềm thất vọng đến tột cùng, không thể hàn gắn. Nàng quyết định trẫm mình ở sông Hoàng Giang để chứng minh sự trong sạch. => Đây là hành động quyết liệt cuối cùng để Vũ Nương bảo vệ danh dự của mình.
=> Vũ Nương là người phụ nữ xinh đẹp, nết na, đảm đang, tháo vát: Nàng là người vợ thủy chung, người con dâu hiếu thảo và người mẹ đảm đang, hết lòng vun đắp hạnh phúc gia đình. Một con người như thế đáng ra phải được hưởng hạnh phúc trọn vẹn, vậy mà lại phải chết một cách oan uổng, đau đớn.
Đúng(0)
NQ
Nguyễn Quang Hiếu
10 tháng 5 2021
Vũ Nương là người phụ nữ mang nhiều phẩm chất tốt đẹp của người phụ nữ Việt Nam. Phẩm chất của nàng được thể hiện qua các chi tiết sau: “tính tình thùy mị nết na”, “tư dung tốt đẹp”,… – Trong cuộc sống hôn nhân gia đình: Vũ Nương hiểu Trương Sinh “có tính đa nghi nên luôn giữ gìn khuôn phép, không từng để lúc nào vợ chồng phải thất hòa”. – Khi tiễn chồng đi lính: nàng rót chén rượu đầy và nói lời tiễn biệt mà ai nghe cũng phải ứa hai hàng lệ. Trong lời dặn dò chồng, nàng không mong vinh hiển, chỉ cầu chồng được bình an trở về, cảm thông trước nỗi khổ và nỗi vất vả gian lao mà chồng phải chịu đựng. – Khi chồng ở xa: + Nàng là người con dâu hiếu thảo. Chăm sóc mẹ chồng chu đáo, mẹ chồng ốm, nàng hết sức thuốc thang và lo cầu khấn thần phật. Khi mẹ chồng qua đời, nàng lo ma chay chu tất. Lời mẹ chồng trăng trối trước lúc ra đi cũng thể chứng minh nàng là người con sống có hiếu. + Nàng là người mẹ đảm đang. Trong những ngày Trương Sinh đi lính, để con khỏi thiếu tình cha, nàng trỏ cái bóng của mình trên tường và nói đó là cha Đản. Đứa con vì thế mà luôn đầy đủ tình cảm, nhưng cũng chính đây là nguyên nhân gây ra cái chết oan khuất cho nàng. – Khi bị chồng nghi oan: Vũ Nương phân trần để chồng hiểu rõ mình. Nàng nói lên nỗi đau đớn, thất vọng, không hiểu vì sao bị đối xử bất công. Nàng bày tỏ niềm thất vọng đến tột cùng, không thể hàn gắn. Nàng quyết định trẫm mình ở sông Hoàng Giang để chứng minh sự trong sạch. Đây là hành động quyết liệt cuối cùng để Vũ Nương bảo vệ danh dự của mình. Vũ Nương là người phụ nữ xinh đẹp, nết na, đảm đang, tháo vát: Nàng là người vợ thủy chung, người con dâu hiếu thảo và người mẹ đảm đang, hết lòng vun đắp hạnh phúc gia đình. Một con người như thế đáng ra phải được hưởng hạnh phúc trọn vẹn, vậy mà lại phải chết một cách oan uổng, đau đớn.
Đúng(0)
LT
Lê Thế Hoàng
10 tháng 5 2021
*)Vũ Nương là người phụ nữ mang nhiều phẩm chất tốt đẹp của người phụ nữ Việt Nam.
*)Phẩm chất của nàng được thể hiện qua các chi tiết sau:
1)Qua lời giới thiệu ở đầu câu chuyện: “tính tình thùy mị nết na”, “tư dung tốt đẹp”,…
2) Trong cuộc sống hôn nhân gia đình: Vũ Nương hiểu Trương Sinh “có tính đa nghi nên luôn giữ gìn khuôn phép, không từng để lúc nào vợ chồng phải thất hòa”.
3) Khi tiễn chồng đi lính: nàng rót chén rượu đầy và nói lời tiễn biệt mà ai nghe cũng phải ứa hai hàng lệ. Trong lời dặn dò chồng, nàng không mong vinh hiển, chỉ cầu chồng được bình an trở về, cảm thông trước nỗi khổ và nỗi vất vả gian lao mà chồng phải chịu đựng.
4) Khi chồng ở xa:
– Nàng là người con dâu hiếu thảo. Chăm sóc mẹ chồng chu đáo, mẹ chồng ốm, nàng hết sức thuốc thang và lo cầu khấn thần phật. Khi mẹ chồng qua đời, nàng lo ma chay chu tất. Lời mẹ chồng trăng trối trước lúc ra đi cũng thể chứng minh nàng là người con sống có hiếu.
– Nàng là người mẹ đảm đang. Trong những ngày Trương Sinh đi lính, để con khỏi thiếu tình cha, nàng trỏ cái bóng của mình trên tường và nói đó là cha Đản. Đứa con vì thế mà luôn đầy đủ tình cảm, nhưng cũng chính đây là nguyên nhân gây ra cái chết oan khuất cho nàng.
5) Khi bị chồng nghi oan:
– Lời thoại 1: Vũ Nương phân trần để chồng hiểu rõ mình.
– Lời thoại 2: Nàng nói lên nỗi đau đớn, thất vọng, không hiểu vì sao bị đối xử bất công.
— Lời thoại 3: nàng bày tỏ niềm thất vọng đến tột cùng, không thể hàn gắn. Nàng quyết định trẫm mình ở sông Hoàng Giang để chứng minh sự trong sạch. => Đây là hành động quyết liệt cuối cùng để Vũ Nương bảo vệ danh dự của mình.
=> Vũ Nương là người phụ nữ xinh đẹp, nết na, đảm đang, tháo vát: Nàng là người vợ thủy chung, người con dâu hiếu thảo và người mẹ đảm đang, hết lòng vun đắp hạnh phúc gia đình. Một con người như thế đáng ra phải được hưởng hạnh phúc trọn vẹn, vậy mà lại phải chết một cách oan uổng, đau đớn.
Đúng(0)
NV
Nguyễn Việt Hoàng
10 tháng 5 2021
Vũ Nương là người phụ nữ mang nhiều phẩm chất tốt đẹp của người phụ nữ Việt Nam.
Phẩm chất của nàng được thể hiện qua các chi tiết sau:
– Qua lời giới thiệu ở đầu câu chuyện: “tính tình thùy mị nết na”, “tư dung tốt đẹp”,…
– Trong cuộc sống hôn nhân gia đình: Vũ Nương hiểu Trương Sinh “có tính đa nghi nên luôn giữ gìn khuôn phép, không từng để lúc nào vợ chồng phải thất hòa”.
– Khi tiễn chồng đi lính: nàng rót chén rượu đầy và nói lời tiễn biệt mà ai nghe cũng phải ứa hai hàng lệ. Trong lời dặn dò chồng, nàng không mong vinh hiển, chỉ cầu chồng được bình an trở về, cảm thông trước nỗi khổ và nỗi vất vả gian lao mà chồng phải chịu đựng.
– Khi chồng ở xa:
+ Nàng là người con dâu hiếu thảo. Chăm sóc mẹ chồng chu đáo, mẹ chồng ốm, nàng hết sức thuốc thang và lo cầu khấn thần phật. Khi mẹ chồng qua đời, nàng lo ma chay chu tất. Lời mẹ chồng trăng trối trước lúc ra đi cũng thể chứng minh nàng là người con sống có hiếu.
+ Nàng là người mẹ đảm đang. Trong những ngày Trương Sinh đi lính, để con khỏi thiếu tình cha, nàng trỏ cái bóng của mình trên tường và nói đó là cha Đản. Đứa con vì thế mà luôn đầy đủ tình cảm, nhưng cũng chính đây là nguyên nhân gây ra cái chết oan khuất cho nàng.
– Khi bị chồng nghi oan:
+ Lời thoại 1: Vũ Nương phân trần để chồng hiểu rõ mình.
+ Lời thoại 2: Nàng nói lên nỗi đau đớn, thất vọng, không hiểu vì sao bị đối xử bất công.
+ Lời thoại 3: nàng bày tỏ niềm thất vọng đến tột cùng, không thể hàn gắn. Nàng quyết định trẫm mình ở sông Hoàng Giang để chứng minh sự trong sạch. => Đây là hành động quyết liệt cuối cùng để Vũ Nương bảo vệ danh dự của mình.
=> Vũ Nương là người phụ nữ xinh đẹp, nết na, đảm đang, tháo vát: Nàng là người vợ thủy chung, người con dâu hiếu thảo và người mẹ đảm đang, hết lòng vun đắp hạnh phúc gia đình. Một con người như thế đáng ra phải được hưởng hạnh phúc trọn vẹn, vậy mà lại phải chết một cách oan uổng, đau đớn.
Đúng(0)
NT
Nguyễn Thị Tâm Anh
10 tháng 5 2021
NHỮNG PHẨM CHẤT ĐẸP CỦA NHÂN VẬT VŨ NƯƠNG :
✿ Vũ Nương là người đẹp người , đẹp nết : + trong đạo vợ chồng thì nàng luôn giữ cho gia đình chưa xảy ra nỗi thất hòa
+ khi chồng đi lính nàng là người vợ thủy chung yêu chồng tha thiết , nỗi buồn nhớ chồng kéo dài theo năm tháng .
+ khi bị chồng nghi oan nàng đã phân trần để chồng hiểu rõ tấm lòng trong trắng của mình , nàng nhảy xuống sông hoàng giang để bày rõ làngười phụ nữ ” đoan trang giữ tiết , trinh bach gìn son”
✿ Vũ Nương còn là người mẹ đôn hậu , người con dâu hiếu thảo : + khi xa chồng được đầy tuần , nàng đã sinh con , nuôi dạy con .
+ với mẹ chồng: mẹ chồng già ốm, bệnh thì nàng hết lời ngọt ngào khuyên lơn , hết sức thuốc thang . Khi mẹ chồng mất thì nàng lo ma chay tế lễ chu đáo
+ lời nói của mẹ chồng trc lúc chết chính là lời ghi nhận công ơn của nàng đối với gia đình nhà chống . vì xưa nay hiếm có lời nói nhận xét tốt đẹp , đánh giá khách quan của mẹ chồng với nàng dâu => vũ nương có phẩm hạnh vô cùng hoàn hảo , trọng đạo lm vợ làm mẹ và làm dâu
✿ Nàng là người phụ nữ lý tưởng trong xã hội phong kiến : Qua hình tượng Vũ Nương đã xuất hiện 3 con người tốt đẹp: người vợ đảm đang , thủy chung , người con dâu hiếu thảo , người mẹ hiền đôn hậu => Đó là hình ảnh người phụ nữ lí tưởng trong xã hội phong kiến
Đúng(0)
NT
Nguyễn Trà Giang
10 tháng 5 2021
*Phẩm chất của Vũ Nương được thể hiện trogn truyện là
– Trong cuộc sống vợ chồng: Vũ Nương hiểu Trương Sinh “có tính đa nghi nên luôn giữ gìn khuôn phép, không từng để lúc nào vợ chồng phải thất hòa”.
-Khi tiễn chồng đi lính: nàng rót chén rượu đầy và nói lời tiễn biệt mà ai nghe cũng phải ứa hai hàng lệ. Trong lời dặn dò chồng, nàng không mong vinh hiển, chỉ cầu chồng được bình an trở về, cảm thông trước nỗi khổ và nỗi vất vả gian lao mà chồng phải chịu đựng.
-Khi xa chồng:
+ Nàng là người con dâu hiếu thảo. Chăm sóc mẹ chồng chu đáo, mẹ chồng ốm, nàng hết sức thuốc thang và lo cầu khấn thần phật. Khi mẹ chồng qua đời, nàng lo ma chay chu tất. Lời mẹ chồng trăng trối trước lúc ra đi cũng thể chứng minh nàng là người con sống có hiếu.
+ Nàng là người mẹ đảm đang. Trong những ngày Trương Sinh đi lính, để con khỏi thiếu tình cha, nàng trỏ cái bóng của mình trên tường và nói đó là cha Đản. Đứa con vì thế mà luôn đầy đủ tình cảm, nhưng cũng chính đây là nguyên nhân gây ra cái chết oan khuất cho nàng.
– Khi bị chồng nghi oan:
+ Vũ Nương phân trần để chồng hiểu rõ mình.
+ Nàng nói lên nỗi đau đớn, thất vọng, không hiểu vì sao bị đối xử bất công.
+ Nàng bày tỏ niềm thất vọng đến tột cùng, không thể hàn gắn. Nàng quyết định trẫm mình ở sông Hoàng Giang để chứng minh sự trong sạch. => Đây là hành động quyết liệt cuối cùng để Vũ Nương bảo vệ danh dự của mình.
=> Vũ Nương là người phụ nữ xinh đẹp, nết na, đảm đang, tháo vát: Nàng là người vợ thủy chung, người con dâu hiếu thảo và người mẹ đảm đang, hết lòng vun đắp hạnh phúc gia đình. Một con người như thế đáng ra phải được hưởng hạnh phúc trọn vẹn, vậy mà lại phải chết một cách oan uổng, đau đớn.
Đúng(0)
HQ
Hoàng Quang Thắng
10 tháng 5 2021
Vũ Nương là người phụ nữ mang nhiều phẩm chất tốt đẹp của người phụ nữ Việt Nam. Phẩm chất của nàng được thể hiện qua các chi tiết sau: – Qua lời giới thiệu ở đầu câu chuyện: “tính tình thùy mị nết na”, “tư dung tốt đẹp”trong cuộc sống hôn nhân gia đình: Vũ Nương hiểu Trương Sinh “có tính đa nghi nên luôn giữ gìn khuôn phép, không từng để lúc nào vợ chồng phải thất hòa”. – Khi tiễn chồng đi lính: nàng rót chén rượu đầy và nói lời tiễn biệt mà ai nghe cũng phải ứa hai hàng lệ. Trong lời dặn dò chồng, nàng không mong vinh hiển, chỉ cầu chồng được bình an trở về, cảm thông trước nỗi khổ và nỗi vất vả gian lao mà chồng phải chịu đựng. – Khi chồng ở xa: + Nàng là người con dâu hiếu thảo. Chăm sóc mẹ chồng chu đáo, mẹ chồng ốm, nàng hết sức thuốc thang và lo cầu khấn thần phật. Khi mẹ chồng qua đời, nàng lo ma chay chu tất. Lời mẹ chồng trăng trối trước lúc ra đi cũng thể chứng minh nàng là người con sống có hiếu. + Nàng là người mẹ đảm đang. Trong những ngày Trương Sinh đi lính, để con khỏi thiếu tình cha, nàng trỏ cái bóng của mình trên tường và nói đó là cha Đản. Đứa con vì thế mà luôn đầy đủ tình cảm, nhưng cũng chính đây là nguyên nhân gây ra cái chết oan khuất cho nàng. – Khi bị chồng nghi oan: + Lời thoại 1: Vũ Nương phân trần để chồng hiểu rõ mình. + Lời thoại 2: Nàng nói lên nỗi đau đớn, thất vọng, không hiểu vì sao bị đối xử bất công. + Lời thoại 3: nàng bày tỏ niềm thất vọng đến tột cùng, không thể hàn gắn. Nàng quyết định trẫm mình ở sông Hoàng Giang để chứng minh sự trong sạch. => Đây là hành động quyết liệt cuối cùng để Vũ Nương bảo vệ danh dự của mình. => Vũ Nương là người phụ nữ xinh đẹp, nết na, đảm đang, tháo vát: Nàng là người vợ thủy chung, người con dâu hiếu thảo và người mẹ đảm đang, hết lòng vun đắp hạnh phúc gia đình. Một con người như thế đáng ra phải được hưởng hạnh phúc trọn vẹn, vậy mà lại phải chết một cách oan uổng, đau đớn.
Đúng(0)
HM
Hoàng Mạnh Cường
10 tháng 5 2021
Nguyễn dữ là nhà văn nổi tiếng ở thế kỉ 16 vơi tập “Truyền kì mạn lục” trong đó “Chuyện người con gai Nam xương ” là tác phẩm tiêu biểu của ông truyện viết về nàng Vũ nương lànguoiwf phụ nữ đẹp người phụ nữ đẹo người đẹp nết nhưng lại có số phận bất hạnh khổ đau
Nguyễn Dữ đã thật tài tình khi xây dựng hình ảnh người phụ nữ mà cụ thể ở đây là Vũ Nương, ông đã đặt nhân vật vào tình huống khác nhau để thể hiện rõ được phẩm chất của người phụ nữ thương chồng, yêu con, hiếu thảo với cha mẹ chồng đồng thời cũng hết mực thủy chung son sắc. Trong cuộc sống vợ chồng bình thường, nàng đã giữ gìn khuôn phép, không khi nào vợ chồng phải để đến thất hòa mặc dù Trương Sinh là người chồng tính hay ghen tuông đối với vợ thì phòng ngừa quá mức.
Thật là một cảnh làm cho mọi người phải xúc động, khi Vũ Nương tiễn chồng đi lính. Thông thường thì khi chồng đi lính nhiều người mong chồng có được công danh gì mang về để vinh hiển trở về, còn đối với Vũ Nương thi lại không trông mong vinh hiển mà chỉ cầu chồng được bình yên trở về; nàng còn cảm thông với những vất vả, gian lao mà chồng mình sẽ phải chịu đựng; nàng nói đến nỗi nhớ nhung khắc khoải của mình, bằng những lời rất ân cần; đằm thắm tình cảm.
Khi xa chồng. Vũ Nương lại là một người vợ thủy chung, yêu chồng tha thiết, nỗi buồn nhớ cứ dài theo năm tháng “bướm lượn đầy vườn”, “mây che kín núi” tác giả đã dùng hình ảnh ước lệ tượng trưng, mượn cảnh vật thiên nhiên để diễn tả sự trôi chảy của thời gian. Nàng còn là người con dâu hiếu thảo, người mẹ hiền, một mình vừa nuôi con nhỏ, vừa tận tụy chăm sóc mẹ chồng đau ốm, nàng lo thuốc thang, cầu khấn phật trời, và lúc nào cũng ân cần, dịu dàng, lấy lời ngon ý ngọt khéo léo khuyên mẹ gắng dưỡng sức để chờ Trương Sinh quay trở về, vì thế cho nên trước khi mẹ chồng nhắm mắt bà đã nói với Vũ Nương rằng Vũ Nương là người con dâu tốt khi Trương Sinh về sẽ không phụ lòng tốt của nàng. Rồi nàng cũng hết sức thương xót mẹ và lo ma chay tế lễ như lo cho cha mẹ ruột của mình.
Tưởng rằng khi Trương sinh về thì Vũ nương được sống ngập tràn trong niềm vui và hạnh phúc và nàng cũng chia sẻ bớt gánh nặng cuộc sống cho chồng ai ngờ nàng bị một nỗi oan không tài nào thanh minh nổi, mặc dù nàng đã hết lời phân trần tấm lòng son sắc thủy chung của mình cho chồng hiểu như: Nàng nói đến thân phận mình nghèo được nương nhờ nơi giàu có.. , tình nghĩa vợ chồng bao năm và khẳng định tấm lòng thủy chung trong trắng, cầu xin chồng đừng nghi oan. Như vậy đã chứng tỏ nàng đã hết sức cứu vãn, mong hàn gắn cái hạnh phúc gia đình đang có nguy cơ tan vỡ. Sau nữa nàng nói lên nỗi đau đớn, thất vọng khi không hiểu vì sao bị đối xử bất công, không có quyền được tự bảo vệ, ngay cả khi có họ hàng, anh em đến nói giúp. Hạnh phúc gia đình niềm khát khao của cả cuộc đời nàng đã tan vỡ như bong bong. Tất cả những nỗi đau khổ chờ chồng trước đây không còn có thể làm lại được nữa.
Thất vọng đến tột cùng, cuộc hôn nhân đã đến độ không thể nào cứu vãn được, Vũ Nương đành phải mượn dòng nước quê hương để giải nỗi oan cho mình. Những lời than trước khi vĩnh viễn cuộc đời đầy đau khổ của mình nhưng cũng đầy luyến tiếc, như một lời nguyền xin thần sông chứng giám nỗi oan khuất và tiết sạch giá trong của nàng. Ở đoạn truyện này, tình tiết được sắp xếp đầy kịch tính, Vũ Nương bị đẩy đến bước đường cùng, nàng đã mất tất cả, đành phải chấp nhận số phận sau mọi cố gắng không thành. Hành động tự trầm mình của nàng là một hành động quyết liệt cuối cùng để bảo toàn danh dự, có nỗi tuyệt vọng đắng cay, nhưng cũng có sự chỉ đạo của lí trí. Đây không phải là hành động bột phát trong cơn nóng giận.
Vũ nương đúng là một người phụ nữ xinh đẹp nết na thùy mị, hiền thục, lại đảm đang tháo vát, thờ kính mẹ chồng rất mực hiếu thảo, một lòng một dạ chung thủy với chồng, hết lòng vun đắp cho hạnh phúc gia đình. Một con người như thế đáng ra phải được hạnh phúc trọn vẹn, vậy mà lại phải chết một cách oan uổng, đau đớn. vậy nguyên nhân nào dẫn tới kết quả đáng buồn ấy. Có phải chăng vì cuộc hôn nhân giữa Trương Sinh và Vũ Nương không bình đẳng chính sự cách bức về thân phận nghèo khó của Vũ Nương đã cộng thêm cái thế cho Trương Sinh bên cạnh cái thế của một người chồng, người đàn ông gia trưởng trong chế độ phong kiến. Hay đó là những lời nói ngây thơ của đứa trẻ, chứa đầy những dữ kiện nghi ngờ làm cho Trương Sinh một người chồng hay có tính đa nghi ghen tuông, hồ đồ và độc đoán kia trở thành kẻ thô bạo, vũ phu là kẻ bức tử vợ mình trong sự mù quáng, kẻ giết người lại hoàn toàn vô can trong vụ án.
Bi kịch của Vũ Nương là lời tố cáo cái xã hội phong kiến xem trọng quyền uy của kẻ giàu và của đàn ông trong gia đình, đồng thời bày tỏ niềm thương cảm của tác giả đối với số phận oan nghiệt của người phụ nữ. Người phụ nữ bất hạnh ở đây không những không được bênh vực, che chở mà còn bị đối xử một cách bất công, vô lí, chỉ vì lời nói ngây thơ của đứa trẻ miệng còn hơi sữa và vì sự hồ đồ, vũ phu của anh chồng ghen tuông mà phải kết liễu đời mình.
Đúng(0)
NQ
Nguyễn Quốc Hiếu
10 tháng 5 2021
Vẻ đẹp phẩm chất của Vũ Nương: -Nàng mang đầy đủ vẻ đẹp người phụ nữ phong kiến xưa. – Trong cuộc sống hôn nhân gia đình: Vũ Nương hiểu Trương Sinh “có tính đa nghi nên luôn giữ gìn khuôn phép, không từng để lúc nào vợ chồng phải thất hòa”. – Khi tiễn chồng đi lính: nàng rót chén rượu đầy và nói lời tiễn biệt mà ai nghe cũng phải ứa hai hàng lệ. Trong lời dặn dò chồng, nàng không mong vinh hiển, chỉ cầu chồng được bình an trở về, cảm thông trước nỗi khổ và nỗi vất vả gian lao mà chồng phải chịu đựng. – Khi chồng ở xa: + Nàng là người con dâu hiếu thảo. Chăm sóc mẹ chồng chu đáo, mẹ chồng ốm, nàng hết sức thuốc thang và lo cầu khấn thần phật. Khi mẹ chồng qua đời, nàng lo ma chay chu tất. Lời mẹ chồng trăng trối trước lúc ra đi cũng thể chứng minh nàng là người con sống có hiếu. + Nàng là người mẹ đảm đang. Trong những ngày Trương Sinh đi lính, để con khỏi thiếu tình cha, nàng trỏ cái bóng của mình trên tường và nói đó là cha Đản. Đứa con vì thế mà luôn đầy đủ tình cảm, nhưng cũng chính đây là nguyên nhân gây ra cái chết oan khuất cho nàng. – Khi bị chồng nghi oan: + Lời thoại 1: Vũ Nương phân trần để chồng hiểu rõ mình. + Lời thoại 2: Nàng nói lên nỗi đau đớn, thất vọng, không hiểu vì sao bị đối xử bất công. + Lời thoại 3: nàng bày tỏ niềm thất vọng đến tột cùng, không thể hàn gắn. Nàng quyết định trẫm mình ở sông Hoàng Giang để chứng minh sự trong sạch. => Đây là hành động quyết liệt cuối cùng để Vũ Nương bảo vệ danh dự của mình. => Vũ Nương là người phụ nữ xinh đẹp, nết na, đảm đang, tháo vát: Nàng là người vợ thủy chung, người con dâu hiếu thảo và người mẹ đảm đang, hết lòng vun đắp hạnh phúc gia đình. Một con người như thế đáng ra phải được hưởng hạnh phúc trọn vẹn, vậy mà lại phải chết một cách oan uổng, đau đớn. →Nàng là người vợ thủy chung yêu chồng tha thiết,là người mẹ hiền,là người con dâu hiếu thảo.
Đúng(0)
HY
Hoàng Yến Chi
10 tháng 5 2021
Phẩm chất của nhân vật Vũ Nương :
– Nàng là người con gái mang đầy đủ vẻ đẹp lí tưởng của người con gái thời xưa ” tính đã thùy mị nết na lại thêm tư dung tốt đẹp ”
– Trong cuộc sống vợ chồng : Biết chồng có tính đa nghi , ít học nàng luôn giữ gìn khuôn phép không để vợ chồng phải đến thất hòa
– Khi tiễn chồng đi lính : Nàng rót chén rượu đầy chúc chồng được hai chữ bình yên . Nàng chẳng mong được mặc áo gấm đeo ấn phong hầu trở về quê cũ ước mong của nàng thật bình dị vì nàng đã đặt hạnh phúc gia đình lên trên mọi công danh phù phiếm ở đời . Nàng còn thể hiện niềm cảm thông trước những gian lao , vất vả mà chồng phải chịu đựng và nói lên nỗi khắc khoải nhớ nhung của mình : ” Nhìn trăng soi thành cũ , lại sủa soạn áo rét , gửi người ải xa , trông liễu rủ bãi hoang , lại thổ thức tâm tình thương người đất thú ”
– Khi xa chồng : Nàng là người vợ thủy chung , yêu chồng tha thiết , nỗi buồn nhớ kéo dài theo năm tháng
Khi bị chồng nghi oan : Nàng hết lòng phân trần để chồng hiểu rõ tấm lòng mình , nàng còn nói lên thân phận và nghĩa tình vợ chồng để khẳng định tấm lòng thủy chung , son sắt của mình , nàng đã hết lòng tìm cách hạnh phúc gia đình đang trên bờ vực tan vỡ . Cuối cùng bị dồn đến đường cùng nàng trẫm mình xuống sông để tỏ rõ là người phụ nữ ” đoan trang giữ tiết , trinh bạch gìn son ” . Ở dưới thủy cung , nàng vẫn thương nhớ chồng con , quê hương và khao khát phục hồi danh dự
– Nàng là người mẹ hiền , người con dâu hiếu thảo . khi chồng đi lính chưa đầy một tuần nàng đã sinh con , mẹ già đau ốm nàng hết sức thuốc thang lấy lời ngọt ngào khuyên lơn
=> Ở nàng xuất hiện ba con người tốt đẹp ; người con dâu hiếu thảo , người vợ thủy chung hiền hậu , người mẹ hiền đảm đang . Ngỡ người như thế sẽ gặp nhiều niềm vui , hạnh phúc ai ngờ bị nghi oan và phải chết oan uổng
Đúng(0)
LT
Lê Tâm Nguyện
20 tháng 5 2021
Vũ Nương là người phụ nữ mang nhiều phẩm chất tốt đẹp của người phụ nữ Việt Nam.
Phẩm chất của nàng được thể hiện qua các chi tiết sau:
– Qua lời giới thiệu ở đầu câu chuyện: “tính tình thùy mị nết na”, “tư dung tốt đẹp”,…
– Trong cuộc sống hôn nhân gia đình: Vũ Nương hiểu Trương Sinh “có tính đa nghi nên luôn giữ gìn khuôn phép, không từng để lúc nào vợ chồng phải thất hòa”.
– Khi tiễn chồng đi lính: nàng rót chén rượu đầy và nói lời tiễn biệt mà ai nghe cũng phải ứa hai hàng lệ. Trong lời dặn dò chồng, nàng không mong vinh hiển, chỉ cầu chồng được bình an trở về, cảm thông trước nỗi khổ và nỗi vất vả gian lao mà chồng phải chịu đựng.
– Khi chồng ở xa:
+ Nàng là người con dâu hiếu thảo. Chăm sóc mẹ chồng chu đáo, mẹ chồng ốm, nàng hết sức thuốc thang và lo cầu khấn thần phật. Khi mẹ chồng qua đời, nàng lo ma chay chu tất. Lời mẹ chồng trăng trối trước lúc ra đi cũng thể chứng minh nàng là người con sống có hiếu.
+ Nàng là người mẹ đảm đang. Trong những ngày Trương Sinh đi lính, để con khỏi thiếu tình cha, nàng trỏ cái bóng của mình trên tường và nói đó là cha Đản. Đứa con vì thế mà luôn đầy đủ tình cảm, nhưng cũng chính đây là nguyên nhân gây ra cái chết oan khuất cho nàng.
– Khi bị chồng nghi oan:
+ Lời thoại 1: Vũ Nương phân trần để chồng hiểu rõ mình.
+ Lời thoại 2: Nàng nói lên nỗi đau đớn, thất vọng, không hiểu vì sao bị đối xử bất công.
+ Lời thoại 3: nàng bày tỏ niềm thất vọng đến tột cùng, không thể hàn gắn. Nàng quyết định trẫm mình ở sông Hoàng Giang để chứng minh sự trong sạch. => Đây là hành động quyết liệt cuối cùng để Vũ Nương bảo vệ danh dự của mình.
=> Vũ Nương là người phụ nữ xinh đẹp, nết na, đảm đang, tháo vát: Nàng là người vợ thủy chung, người con dâu hiếu thảo và người mẹ đảm đang, hết lòng vun đắp hạnh phúc gia đình. Một con người như thế đáng ra phải được hưởng hạnh phúc trọn vẹn, vậy mà lại phải chết một cách oan uổng, đau đớn.
Đúng(0)