Ôn tập kiến thức bài 1 (Ngữ văn 8, tập 1, Chân Trời Sáng Tạo)

on-tap-kien-thuc-bai-1-ngu-van-8-tap-1chan-troi-sang-tao

Ôn tập kiến thức Bài 1.

Câu 1. Tìm một số điểm giống nhau, khác nhau về nội dung và hình thức giữa bài thơ Trong lời mẹ hát (Trương Nam Hương) và Nhớ đồng (Tố Hữu).

Trả lời:

Trong lời mẹ hát (Trương Nam Hương)

Nhớ đồng (Tố Hữu)

Điểm giống – Về nội dung: Cùng viết về tình yêu quê hương da diết, trực trào. Nhắc nhớ đến những kỉ niệm thân thương.

– Về hình thức: Sử dụng thể loại là thơ để sáng tác, ngôn ngữ thơ nhẹ nhàng trong sáng, hình ảnh mộc mạc, giản dị

Điểm khác – Đối tượng: nhớ đến mẹ và lời ru của mẹ. Bài thơ là cảm xúc yêu thương và biết ơn trước công ơn và đức hi sinh của người mẹ.

– Hình thức: Tác giả đã sử dụng biện pháp nhân hoá để nhấn mạnh sự khổ cực của mẹ qua thời gian. Sử dụng thể thơ sáu chữ, lời thơ mộc mạc, gần gũi, giản dị. Phương pháp tương phản: Lưng mẹ còng xuống con thêm cao

– Đối tượng: nhớ đến những người nông dân vất vả lam lũ, cánh đồng quê hương, mái nhà tranh. Thể hiện khát vọng tự do, tình yêu nhân dân, đất nước, yêu cuộc sống của chính mình.

– Hình thức: Sử dụng rất thành công biện pháp tu từ điệp ngữ, điệp cấu trúc. Giọng thơ da diết, khắc khoải, sâu lắng. Hình ảnh thơ gần gũi, giản dị mộc mạc, đời thường

Câu 2. Nhận xét về cách ngắt nhịp và gieo vần của khổ thơ sau:

Quả bàng vuông xanh non màu lá
Mơn mởn thơm mùi nắng Sơn Ca
Hoa giấy đỏ dưới trời nắng chảy
Chim líu lo rót mật trước hiên nhà

(Lê Cảnh Nhạc, Đảo Sơn Ca)

Trả lời:

– Tác giả đã sử dụng vần “a” để gieo ở cuối các câu, ngắt nhịp 3/4 làm cho nội dung của văn bản có sự kết nối, mạch lạc, câu thơ được mở rộng, ngân ra tạo ra bức tranh thiên nhiên hài hào với những gam màu tươi tắn, có âm thanh vui nhộn.

Câu 3. Xác định từ tượng hình, từ tượng thanh trong các trường hợp sau và cho biết tác dụng của chúng:

a. Những nhà có sân rộng người ta còn phơi lựa trên giàn, lúa khô đem vô bồ được mấy hôm đã thấy trên mặt sân xâm xấp nước lúa rày đã lấm tấm xanh.

(Nguyễn Ngọc Tư, Mùa phơi sân trước)

b. Nhưng đêm nay trời nhiều mây. Lá cây xào xạc. Côn trùng trong lòng đất rỉ rả mãi một điệu buồn. Ai như Tắc Kè khuya khoắt đang gọi cửa. Đêm ở Bờ Giậu thanh vắng đến nỗi nghe rõ cả tiếng Ốc Sên đi làm về, nhẹ nhàng vén tà áo dài trườn qua chiếc lá rụng. Nửa đêm, xíu chút nữa Bọ Dừa thiếp đi thì sương bắt đầu rơi. Lẫn trong tiếng thở dài của gió là tiếng rơi lộp độp của sương.

(Trần Đức Tiến, Giọt sương đêm)

Trả lời:

a. Từ tượng hình: Xâm xấp.

→ Tác dụng: Nước gần như phủ kín bề mặt lúa, một vùng quê nghèo, suốt mấy tháng là mưa nên con người nơi đây rất mong nắng, người ta thiết kế những giàn phơi để hong mọi thứ cho khô. Khi cuộc sống hiện đại, mọi thứ trở nên dễ dàng hơn thì những ngày mưa trở thành kỉ niệm để nhắc nhớ.

b. Từ tượng thanh: xào xạc, rì rả, lộp bộp.

→ Tác dụng: Âm thanh ban đêm cũng là âm thanh của cuộc sống loài vật, kết hợp với biện pháp tu từ nhân hóa làm cho đối tượng được nhắc đến thêm sinh động, hấp dẫn. Một không gian đêm khuya với sương rơi và sự sống vẫn tiếp tục.

Câu 4. Trải nghiệm thú vị nhất mà em có được khi làm một bài thơ sáu chữ, bảy chữ là gì?

Trả lời:

– Điều em cảm thấy thú vị nhất khi làm một bìa thơ sáu chữ là làm sao trong sáu chữ ấy phải truyền tải được suy nghĩ, đây vừa là khó khăn vừa kích thích sự sáng tạo. Từ đó, việc lựa chọn ngôn từ, sử dụng hình ảnh cần có chọn lọc, chau chuốt

Câu 5. Chọn một bài thơ tự do mà em yêu thích và viết đoạn văn chia sẻ cảm nghĩ của em về bài thơ đó.

Bài làm 1:

– Bài thơ Dục Thúy sơn của Nguyễn Trãi.

Phiên âm:

Hải Khẩu hữu tiên san,
Tiền niên lũ vãng hoàn.
Liên hoa phù thuỷ thượng,
Tiên cảnh trụy trần gian
Tháp ảnh trâm thanh ngọc
Ba quang kính thuý hoàn.
Hữu hoài Trương Thiếu bảo.
Bi khắc tiển hoa han.

Dịch thơ:

Cửa biển có non tiên
Từng qua lại mấy phen.
Cảnh tiên rơi cõi Tục.
Mặt nước nổi hoa sen,
Bóng tháp hình trâm ngọc
Gương sông ánh tóc huyền
Nhớ xưa Trương Thiếu bảo
Bia khắc dấu rêu hoen.

(Khương Hữu Dụng dịch)

Đoạn văn cảm nghĩ:

“Dục Thúy Sơn” có thể được sáng tác vào thời điểm sau cuộc kháng chiến chống giặc Minh và trước khi Nguyễn Trãi lui về ở ẩn tại Côn Sơn. Bài thơ được sưu tầm và xếp vào Ức Trai thi tập. Thể thơ ngũ ngôn luật thi (ngũ luật) – một thể của thơ Đường luật với bố cục, sáu câu đầu thiên về tả cảnh, bức tranh núi Dục Thuý; hai câu kết thể hiện cảm xúc hoài niệm của tác giả. Hai câu thơ đầu tác giả giới thiệu chung về cảnh vật trong mối quan hệ với tác giả. Nhà thơ đã mấy lần đến chơi núi. Cảnh tuy đã quen, nhưng lần này đến không khỏi ngạc nhiên vẻ đẹp “non tiên” hiện lên trước cửa biển. Bốn câu thơ sau: Bức tranh sơn thủy hữu tình. Bức tranh toàn cảnh núi Dục Thuý được thể hiện rõ nét trong hai câu 3 – 4, từ điểm nhìn xa, có tầm bao quát rộng. Núi Dục Thuý được tác giả ví như đoá sen nổi trên mặt nước, hình ảnh và bút pháp mới lạ, độc đáo. Hình ảnh đóa sen có ý nghĩa biểu tượng, gợi ý niệm thoát tục, như là cõi tiên rơi xuống trần gian. Ngôn từ được sử dụng tinh xác, tạo ấn tượng, trong nguyên văn, từ phù có nghĩa là nổi, nhưng lay động tại chỗ; từ truỵ có nghĩa là rơi, rớt từ trên cao xuống, thể hiện sự sống động trong miêu tả. Dấu ấn riêng của tâm hồn Nguyễn Trãi thể hiện rõ nhất qua những liên tưởng xuất hiện ở cái nhìn cận cảnh (hai câu 5 – 6). Các chi tiết đặc sắc được thể hiện khi so sánh bóng tháp hiện trên mặt nước như chiếc trâm ngọc xanh; ánh sáng sóng nước như đang soi chiếu mái tóc biếc. Trâm ngọc xanh và mái tóc biếc gợi hình ảnh trẻ trung, trong sáng, trữ tình, nên thơ, giúp liên tưởng đến hình ảnh người con gái. Vẻ đẹp của thiên nhiên được so sánh với vẻ đẹp của con người; lấy nét đẹp của người con gái để hình dung bóng núi trên sóng biếc. Sự liên tưởng này rất hiện đại, đặc biệt, hiếm thấy trong thơ cổ. Thơ cổ thường lấy chuẩn mực vẻ đẹp tự nhiên để so sánh với con người. Sự liên tưởng và bút pháp mới lạ này cho thấy tâm hồn trong sáng, nhạy cảm, tinh tế của nhà thơ. Hai câu thơ cuối thể hiện tâm sự hoài niệm của nhà thơ, cũng giống như các bài thơ khác cùng chủ đề của Nguyễn Trãi, lại thường là sự bộc lộ những suy tư về con người, về lịch sử, về dân tộc. Ý thơ thể hiện rõ sự hoài niệm, nhớ tiếc. Điều này cho thấy tâm hồn hướng nội, sâu sắc của Nguyễn Trãi. “Dục Thúy Sơn” là bài thơ tả cảnh ngụ tình đặc sắc. Bài thơ ngũ ngôn bát cú bằng chữ Hán. Hình tượng thơ mĩ lệ, cảnh sắc đượm vẻ thần tiên. Trong phần luận, bốn hình ảnh ẩn dụ sóng nhau, đối nhau, hình ảnh này làm đẹp thêm hình ảnh kia, thể hiện cách cảm, cách tả của nhà thơ mang tâm hồn thơ mộng, tài hoa. Ức Trai, trong cảm nhận cái đẹp của thiên nhiên, sông núi, ngòi bút tài hoa của ông rất tinh tế và nhạy cảm trong gợi tả và biểu cảm.

Bài làm 2:

Bài thơ Những cánh buồm của Hoàng Trung Thông.

“Hai cha con bước đi trên cát
Ánh mặt trời rực rỡ biển xanh
Bóng cha dài lênh khênh
Bóng con tròn chắc nịch
[…]
Lời của con hay tiếng sóng thầm thì
Hay tiếng của lòng cha từ một thời xa thẳm
Lần đầu tiên trước biển khơi vô tận
Cha gặp lại mình trong tiếng ước mơ con.”

(Những cánh buồm, Hoàng Trung Thông)

Bài thơ “Những cánh buồm” của nhà thơ Hoàng Trung Thông đã để lại cho tôi nhiều cảm xúc. Trước hết, hình ảnh người cha “dắt con đi” được lặp lại nhiều lần cho thấy tình yêu thương, sự che chở dẫn dắt của người cha trên hành trình cùng con đi đến đến tương lai. Tiếp đến hình ảnh đứa con thể hiện sự tin tưởng, yêu thương dành cho cha. Con đề nghị “Cha mượn cho con buồm trắng nhé/Để con đi”. Những cánh buồm đã gửi gắm ước mơ của con. Cánh buồm kiêu hãnh ngoài biển khơi thể hiện khao khát được đi xa để khám phá, hay cũng chính là cha thuở trước. Người cha cảm thấy tự hào khi thấy con mình cũng ấp ủ những ước mơ cao đẹp. Qua đây, tác giả cũng ca ngợi ước mơ được khám phá cuộc sống của trẻ thơ, những ước mơ làm cho cuộc sống trở nên tốt đẹp hơn. Bằng giọng thơ chân thành giản dị, “Những cánh buồm” đã lưu lại dấu ấn sâu sắc trong lòng người đọc.

Câu 6. Liệt kê một vài kỹ năng mà em có được khi nghe vả tóm tắt nội dung thuyết trình của người khác.

Trả lời:

– Kĩ năng thuyết trình.

– Kĩ năng lắng nghe.

– Kĩ năng quan sát.

– Kĩ năng tư duy phản biện.

– Kĩ năng làm việc nhóm.

– Kĩ năng xử lý tình huống, đặc biệt là những tình huống bất ngờ.

– Kĩ năng giao tiếp.

Câu 7. Tình yêu thương đã làm giàu tâm hồn chúng ta như thế nào?

Trả lời:

– Tình yêu thương sưởi ấm tâm hồn những con người cô đơn, đau khổ, bất hạnh, truyền cho họ sức mạnh, nghị lực để vượt lên hoàn cảnh.

– Tình yêu thương tạo sức mạnh cảm hoá kì diệu đối với những người “lầm đường lạc lối”; mang lại niềm hạnh phúc, niềm tin và cơ hội để có cuộc sống tốt đẹp hơn;

– Tình yêu thương là cơ sở xây dựng một xã hội tốt đẹp, có văn hóa.

→ Chúng ta hãy nâng niu hạnh phúc gia đình; hãy sống yêu thương, biết sẻ chia, đồng cảm với những cảnh ngộ trong cuộc đời.

* Đoạn văn: Tình yêu thương là sự quan tâm, chia sẻ, giúp đỡ người khác. Loài người chúng ta nhờ có cảm xúc mà có thể thắm thiết, gắn bó với nhau. Nhờ tình yêu thương chúng ta đã xích lại gần nhau, trao cho nhau những điều tốt đẹp nhất để cuộc sống của tất cả chúng ta đều được vui vẻ, tràn ngập tiếng cười. Tình yêu thương có thể cảm hóa con người, giúp chúng ta biết cảm thông cho những số phận bất hạnh, giúp người gần người hơn và chắc chắn nếu xã hội không tồn tại yêu thương sẽ là xã hội vô cảm.

Chứng minh: Cốt tủy của văn học chính là tình yêu thương con người (Văn học và tình thương).

Hãy bình luận đầu tiên

Để lại một phản hồi

Thư điện tử của bạn sẽ không được hiện thị công khai.