Có ý kiến cho rằng: “Khi tác phẩm kết thúc, ấy là lúc cuộc sống của nó mới thực sự bắt đầu”.
Anh (chị) hãy bình luận ý kiến trên.
* Gợi ý làm bài:
1. Giải thích:
– “Khi tác phẩm kết thúc”: là khi tác giả đã hoàn thành tác phẩm cũng là khi người đọc đã đọc xong tác phẩm.
– “Ấy là lúc cuộc sống của nó mới thực sự bắt đầu”: nghĩa là lúc bấy giờ tác phẩm mới thực sự sống đời sống của nó trong tâm trí người đọc, tác phẩm mới thực sự nhập vào đời sống thông qua người đọc.
⇒ Ý kiến đề cập đến vấn đề tiếp nhận văn học. Nó đề cao vai trò của chủ thể tiếp nhận là người đọc.
2. Bình luận:
– Tác phẩm văn học là một văn bản ngôn từ. Nhưng đặc trưng của ngôn từ là tính mơ hồ đa nghĩa nên người ta gọi tác phẩm văn học là một “văn bản mở”. “Văn bản mở” nghĩa là tác phẩm gồm hai phần: “phần cứng” là những con chữ bề mặt văn bản đang nằm im, “phần mềm” là hệ thống tư tưởng, ý nghĩa được xuất hiện trong quá trình tiếp nhận. Vì thế, cái gọi là “tác phẩm văn học” chỉ thực sự tồn tại khi nó biến thành cái “phần mềm” kia, còn nếu không nó trở thành “quyển sách”. Mà rõ ràng, ý muốn của nhà văn là truyền đến bạn đọc những lẽ sống của đời chứ không phải để bán sách.
– Ngay từ xưa, Heghen trong Triết học tinh thần đã yêu cầu việc xem xét tác phẩm trong hệ thống “tác giả – tác phẩm – người đọc” vì ông cho rằng sự tồn tại của tác phẩm chỉ tồn tại trong ba yếu tố quan hệ hữu cơ với nhau ấy thôi. Còn người Trung Quốc xưa, lại cho rằng tác phẩm tồn tại trong lòng của người tri kỉ chứ không trên trang giấy; vì thế việc viết văn là việc của tấm lòng. Chính vì thế, tác phẩm chỉ thực sự tồn tại khi người ta ý thức được về nó mà thôi. Người đọc là người cứu tác phẩm ra khỏi hầm mộ của sách, giúp nó sống lại và bước đi giữa cuộc đời và hồn người. Tác phẩm tái sinh trong lòng bạn đọc.Vì thế, mỗi tác phẩm là một tiếng mời gọi tha thiết tấm lòng bạn đọc đến với mình, tri âm với mình để mình có được một đời sống mới. Sức sống của tác phẩm không nằm ở lối ra lệnh của nhà binh hay truyền giáo của tu sĩ mà nằm ở trường nhìn, trường cảm của từng cá nhân đọc khác nhau.
– Tùy từng tư tưởng, kinh nghiệm, thẩm mĩ của mỗi độc giả mà tác phẩm có muôn ngàn cuộc sống khác nhau. Vì thế, tác phẩm vừa là nó, vừa chẳng là nó. Sự thú vị trong đa dạng tiếp nhận cũng chẳng kém sự thú vị trong đa dạng sáng tạo. Vì thế sức sáng tạo của nhà văn, qua bạn đọc cứ nhân lên đến vạn lần. Và thế là nghệ thuật có sự sống vĩnh hằng vì nghệ thuật có hai con đường: sáng tạo hay là chết.
3. Chứng minh:
– Đôn-ki-hô-tê: Người Tây Ban Nha gọi chàng là kẻ điên rồ, người Pháp gọi là chú hề đáng thương, đến chủ nghĩa lãng mạn gọi Đôn-ki-hô-tê là người anh hùng còn sót lại, chủ nghĩa hiện thực lại coi là biểu tượng của sự suy vi một thời phong kiến đã qua. Vậy rõ ràng, những môi trường văn hoá khác nhau tạo ra những “phạm trù hiểu” không cùng hướng. Ta coi tác phẩm như cái đài nhiều dải tần, ai thích nghe sóng nào thì nghe, nhưng phải bắt đúng dải sóng nếu không chỉ có tạp âm thôi. Vì thế, sự “đúng – sai” trong tác phẩm là quy luật nội tại tất yếu của văn học, nó chỉ thúc đẩy sự sống của tác phẩm trường tồn mà thôi. Vậy thì lịch sử văn học, xét đến cùng, là lịch sử tiếp nhận văn học.
– Vãn cảnh của Hồ Chí Minh. Chữ “lưỡng” là từ chìa khoá để khai mở bài thơ. Xuân Diệu coi “lưỡng” ở đây là hai sự vô tình khép kín một đời hoa, còn Trần Đình Sử coi “lưỡng” là phó từ, còn chủ ngữ hàm ẩn”quyết định nghĩa” bài thơ là người tù Hồ Chí Minh, tự trách mình vô tình. Thú vị nhất là Nguyễn Khắc Phi khi đưa ra quan niệm “lưỡng vô tình” là sự trôi chảy liên tục, bất biến của thời gian đã làm cho người tù bất bình.
– Trong bài “Đoàn thuyền đánh cá”, Huy Cận viết: “Cá đuôi én vẫy trăng vàng chóe”. Sau, do nhầm lẫn, nhà xuất bản in: “Cái đuôi em quẫy trăng vàng choé”. Nhầm lẫn mà thành ra thật hay. Chứ” cái đuôi em quẫy” giàu sức biểu cảm, làm cho ý thơ bay bỏng, vượt lên trên lớp ngôn từ sóng sánh gió trăng.
– Đóng vai trò người đọc và tiếp nhận, Tản Đà đã dũng cảm đổi chữ “tuôn” trong câu thơ: “Suối tuôn dòng lệ chờ mong tháng ngày” trong bài thơ “Thề non nước” thành chữ “khô” mà có thể gợi hết cái cùng kiệt của cảm xúc ngóng trong đến mỏi mòn của nhân vật trữ tình. Chữ “khô” đánh đúng vào tâm trạng của người đọc, nó gần với thực tế hơn và đúng với quy luật cảm xúc của con người.
– Một hình ảnh có vẻ không có gì to tát hay xa lạ “giọt long lanh rơi” trong bài thơ Mùa xuân nho nhỏ đã gọi lên biết bao suy tưởng ở người đọc muôn thế hệ. Có người cho rằng đó là giọt sương mai còn động lại trên lá. Có người hiểu đó là giọt mưa xuân dịu ngọt của đất trời. Có người lại suy tưởng đó là giọt mật thơm, kết tinh từ tình yêu cuộc sống nồng nàn thiết tha trong lòng tác giả, mãnh liệt đến mức có thể chảy vào thơ, hiện hình trên ngôn ngữ. Hiểu hình ảnh “giọt long lanh rơi” ấy theo nghĩa nào là tùy thuộc vào tâm cảm của mỗi người. Điều quan trọng là bắt được nguồn mạch của nhà thơ, soi chiếu vào nội cảm của chính mình để có thể đồng điệu, giao hòa với nhà thơ thông qua ngôn ngữ.
4. Đánh giá:
– Khẳng định đây là một ý kiến đúng đắn, súc tích, chứa đựng những ý tưởng sắc sảo với hình thức diễn đạt gây ấn tượng. Nó đã chỉ ra được mối liên hệ thực tế giữa nghệ thuật và đời sống, giữa sáng tạo và tiếp nhận. Nó đề cập được vấn đề cốt lõi của vòng đời tác phẩm. Nó nhấn mạnh vai trò của người đọc tri âm và là người đồng sáng tạo, người quyết định đến đời sống thực sự của tác phẩm nghệ thuật.
– Tuy nhiên, không thể phủ định hoàn toàn rằng số phận tác phẩm nằm ngoài khả năng quyết định của tác giả. Sự sống của tác phẩm, trước hết phải do chính nó và người làm ra nó quyết định. Vấn đề được đặt ra với người cầm bút muốn viết lên những tác phẩm có giá trị thực sự để phút mà khi tác phẩm kết thúc cũng chính là lúc sự sống của nó bắt đầu (chứ không phải là cuộc sống) thì việc kết hợp giữa cái tài và cái tâm là luôn luôn cần thiết. Như Nguyễn Du đã từng nói: “Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài.”
Bài văn tham khảo 1:
Nhà văn Aimatov đã từng nhận định rằng: “Một tác phẩm chân chính không bao giờ kết thúc ở trang cuối cùng”. Bởi lẽ khi trang sách đóng lại, tác phẩm mới thực sự đang sống, sống với những trăn trở và tình cảm của người đọc. Ở họ phải xuất hiện những cảm xúc mới mẻ, tâm hồn của họ phải được neo đậu những nhận thức sâu sắc về hiện thực và trái tim phải được rung lên, hướng họ về một khát khao cháy bỏng về cái đẹp, như tác giả Bùi Việt Thắng đã nhận xét về kết thúc của truyện ngắn: “Điền quan trọng hơn cả là sau mỗi cách kết thúc, tác giả phải gieo vào lòng người đọc những nhận thức sâu sắc về quy luật đời sống và những dự cảm về tương lai, về cái đẹp tất yếu sẽ chiến thắng”.
Bielinxky khi viết về tác phẩm văn học đã nói rằng: “Một tác phẩm nghệ thuật là kết quả của tình yêu con người, một ước mơ cháy bỏng về một xã hội công bằng bình đẳng bác ái luôn thôi thúc nhà văn sống và viết, vắt cạn kiệt những dòng suy nghĩ và hiến dâng bầu máu nóng của mình cho nhân loại”. Tác phẩm nghệ thuật đều xuất phát từ chính trái tim người nghệ sĩ, nơi những tâm tư tình cảm đã được gửi vào “đứa con tinh thần”. Các nhà văn phải biết nắm bắt những hiện thực của cuộc sống để truyền tải vào tác phẩm qua những hình thức sáng tạo độc đáo. Từ đó mới có thể khiến người đọc cảm nhận rõ nét nhất những giá trị tư tưởng cũng như giá trị thẩm mỹ trong tác phẩm. Và khi nhà văn làm được điều đó, trang sách cuối cùng dù có khép lại thì những ấn tượng về tác phẩm vẫn in sâu trong tâm trí người đọc. Vì tác phẩm không chỉ chứa những con chữ thẳng đơ trên trang giấy mà là những con chữ có hồn, nó bay ra khỏi trang giấy, sống dậy cùng cảm xúc người dọc và gieo ở họ những nhận thức về hiện thực cuộc sống, những cảm xúc chưa bao giờ có.
Hơn nữa, nó còn mở ra một lối thoát, gieo ở họ sự hy vọng, những ước mơ khao khát về cái đẹp sẽ chiến thắng cái xấu xa, hướng họ đến những chân lý cuộc sống. Sau mỗi kết thúc của tác phẩm văn học, họ sẽ nhận những giá trị của cuộc sống, khiến họ nhìn thấy chính mình và sẽ đóng góp cải tạo hiện thực cuộc sống để thế giới ngày một tươi đẹp, sẽ không còn bóng tối mà chỉ có ánh sáng, sẽ không tồn tại những những điều xấu xa mà sẽ có những điều tốt đẹp. Chính lời nhận xét của Bùi Việt Thắng đã cho ta thấy được chứng năng văn học trong đời sống con người.
Một nhà phê bình văn học đã từng viết rằng: “Khi một tác phẩm nâng cao tinh thần ta lên và gợi cho ta những tình cảm cao quý và can đảm, không cần tìm một nguyên tắc nào để đánh giá nó nữa. Đó là một cuốn sách hay và do một nghệ sĩ viết ra”. Tác phẩm nghệ thuật chân chính sẽ truyền cho ta những tình cảm ta chưa có, và làm nảy nở thêm ở ta nhiều tình cảm hơn nữa. No đã được sáng tác bằng chính cả trái tim của nhà văn, được truyền tải biết bao là tư tưởng, những tâm tư, suy nghĩ, tình cảm. Đó còn là một quá trình “lửa thử vàng, gian nan thử sức” của nhà văn. Nhà văn phải thật tinh tế để nắm bắt được hiện thực cuộc đời để đem vào “đứa con tinh thần” của mình, truyền vào đó tất cả những tâm huyết, những tình cảm của mình. Chính vì thế mà sau một kết thúc, nhà văn đã dùng tất cả cái tâm cái tài của mình để viết nên những dòng chữ tinh hoa cuối cùng, những dòng chữ đó đã sống dậy và đi sâu vào trong lòng người, làm dấy lên ở họ những cảm xúc, suy nghĩ về cuộc đời, sự tò mò, dự cảm về tương lai, hy vọng về cái dẹp sẽ chiếm lĩnh và tồn tại vĩnh cửu kể cả khi tác phẩm đã kết thúc.
Thậm chí, Umberto Eco từng nói: “Nhà văn có lẽ nên chết đi sau khi hoàn thành văn bản để tác phẩm có thể tự do sống cuộc đời của nó”. Để tác phẩm có thể sống với những tình cảm của người đọc, với những ước mơ khát vọng về tương lai, về những chân lý cuộc đời. Ở kết thúc của mỗi tác phẩm. Người đọc sẽ càng trăn trở, đắn đo về những tình tiết, về nhân vật, về những quy luật cuộc sống được tác giả góp nhặt từ hiện thực. Và từ đó, họ càng thêm quý mến và bày tỏ thái độ, tình cảm của mình. Những giá trị đích thực khiến họ thức tỉnh, làm lay động trái tim của họ để rồi họ có thể hướng về ánh sáng, hướng về cái chân – thiện – mỹ. Và đó chính là điều một tác phẩm chân chính cần. Để tác phẩm có thể trường tồn với thời gian, nó phải đem những giá trị đích thực, mang hơi thở thời đại thổi vào tâm hồn người đọc những ấn tượng khó phai, như cách mà tác giả Bùi Việt Thắng đã nhận định.
“Nhà văn sáng tạo nhân vật để gửi gắm tư tưởng, tình cảm và quan niệm của mình về cuộc đời” (Sê-khốp). NHà văn truyền tải tất cả những cảm xúc của mình cho nhân vật để nhân vật có thể sống mãi trong lòng người đọc sau khi tác phẩm kết thúc. Và Nguyễn Tuân, “một người dành cả cuộc đời để đi tìm cái đẹp và cái thật” (Nguyễn Đình Thi) đã thật tài năng khi xây dựng thành công nhân vật Huấn Cao trong truyện ngắn “Chữ người tử tù”. Một con người được xây dựng dựa trên hình mẫu Cao Bá Quát, tài năng và có vẻ đẹp thiên lương, khí phách hiên ngang. Truyện ngắn bắt đầu với cuộc gặp gỡ oan trái giữa Huấn Cao và viên quản ngục. Cả hai đều có những phẩm chất và vẻ đẹp khác nhau. Nếu Huấn Cao là người có vẻ đẹp thiên lương, có tài viết chữ và ý thức được cái tài của mình, thì viên quản ngục là người biết quý trọng cái đẹp, có tấm lòng biệt nhỡn liên tài, với mong muốn xin được nét chữ của Huấn Cao.
Và rồi kết thúc chuyện là cảnh tượng chưa từng có – đó là cảnh cho chữ. Cảnh tượng cho chữ đáng lẽ nên diễn ra ở nơi thanh thiên bạch nhất chứ không phải là cảnh trong bóng tối ngục tù. Không gian và thời gian đều kì lạ. Trong “buồng ngục tối, ấm ướt, tường đầy mạng nhện, phân chuột phân gián”, hình ảnh Huấn Cao hiện lên vô cùng điềm nhiên “ung dung tô từng nét chữ trên mảnh lụa trắng”, “cổ đeo gông, chân vướng xiềng” nhưng tư thế vẫn ung dung và thoải mái. Giữa bóng tối u ám, hình ảnh nhân vật Huấn Cao hiện lên làm tỏa sáng cả ngục tù. Viên quản ngục trong chính thời khắc đó vô cùng hạnh phúc. Nếu với Huấn Cao, giây phút cho chữ ấy là giây phút thiêng liêng truyền lại cái đẹp cho đời sau, thì với viên quản ngục, đó là lúc ông tìm lại chính mình. Chính khoảnh khắc ấy, ông đã được mở ra một lối thoát, và con chữ cũng vậy. Dù cho Huấn Cao chết đi nhưng vẻ đẹp của con chữ vẫn còn hiện diện trên cõi đời này, mở ra một tương lai mới cho viên quan ngục.
Giữa giây phút sinh tử, Huấn Cao không hề sợ hãi mà lại hiên ngang ngồi viết chữ. Thường lúc lâm chung, người ta thường hoài niệm về mọi thứ đã qua nhưng Huấn Cao lại bình tĩnh viết chữ. Bởi lẽ đây là giây phút đẹp nhất đời ông, ông đã được thỏa sức viết chữ, đã sống trọn vẹn với niềm đêm mê về cái đẹp trước khi chết. Và khi Huấn Cao chết đi là kết thúc của một truyện ngắn, thân thể dãu có bị hủy diệt thì cái đẹp của con chữ vẫn trường tồn và thực hiện sự mệnh cứu rỗi con người như Dostoyevsky nhận định “Cái đẹp cứu chuộc thế giới”. Cái đẹp của con chữ do Huấn Cao viết đã vút bay lên phá vỡ mọi vòng cươn tỏa của bóng tối, của cái xấu xa đê hền để có thể di vào vĩnh cửu, có thể trường tồn mãi mãi. Vì đó chính là thứ ánh sáng. Là thứ hy vọng mà tác giả muốn gửi gắm vào tâm hồn người đọc để họ có niềm tin rằng cái đẹp, cái cao thượng đã chiến thắng cái xấu xa, mở ra cho họ con đường hướng tới chân – thiện – mỹ. Nhưng cũng để họ nhận thức được quy luật của cuộc sống trong cái kết thúc của tác phẩm, là cái đẹp có thể sinh ra từ cái xấu, cái cao thượng có thể bắt nguồn từ cái thấp hèn, nhưng cái đẹp và cái xấu xa không thể cùng tồn tại song song. Cái đẹp đánh bại cái xấu xa để có thể vươn lên khỏi bóng tối.
Cái kết thúc của “Chữ người tử tù” có khép lại thì cảnh tượng cho chữ vẫn sống dậy trong lòng người đọc vì những cảm xúc khó phai dành cho nhân vật Huấn Cao cũng như viên quản ngục, và cũng vì những dự cảm về tương lai của viên quản ngục. Liệu ông có trở về quê sống ẩn dật để có thể bảo vệ được cái đẹp, hay tiếp tục nghề làm viên quan ngục trong lo sợ, tự do về nhân thân nhưng bị cầm tù về tâm hồn? Tất cả sẽ là những trăn trở, suy nghĩ, tình cảm của người đọc. Tác phẩm sẽ có những giá trị lâu dài và chạm đến trái tim người đọc, khiến cho họ có cảm giác như đang sống cùng nhận vật trong tác phẩm, cùng cảm nhận, thấu hiểu. Không chỉ gieo vào lòng người đọc những nhận thức, suy nghĩ, tình cảm, niềm tin, khát vọng mà còn thúc đẩy, mở ra một lối thoát cho họ hướng về chân lý. Chính vì vậy, tác phẩm phải có cái kết thúc ấn tượng sâu sắc, là sự kết hợp hài hòa của nội dung và hình thức nghệ thuật độc đáo, tạo cảm hứng cho người đọc. Giá trị tư tưởng và giá trị thẩm mỹ phải cùng nhau kết tinh để tạo nên một sự sống cho người đọc sau khi tác phẩm kết thúc.
Lời nhận định của tác giả Bùi Việt Thắng là vô cùng đúng dắn khi bàn về kết thúc của truyện ngắn. Khi trang sách của truyện ngắn kết thúc thì những âm hưởng của nó vẫn còn vang vọng, in sâu trong trái tim và khối óc của người đọc. Vì cái kết thúc ấy đã cho họ một cái nhìn về thế giới, cho họ những cảm xúc mới mẻ và độc đáo nhất.
Bài tham khảo 2:
Mỗi tác phẩm ra đời đều là một thành quả nghệ thuật chứa đầy tâm huyết của nhà văn. Bởi đó là nơi để nhà văn gửi gắm những tình cảm sâu lắng nhất, những cảm xúc, khát vọng chân thành nhất, mãnh liệt nhất về con người và về cuộc đời. Dưới mỗi con chữ sáng tạo của nhà văn là biết bao xúc động, biết bao tình yêu cũng như nỗi đau đời trong tâm hồn nhạy cảm của người cầm bút. Bởi suy cho cùng, dù là viết về đề tài gì, nói về vấn đề gì, thì tác phẩm luôn thể hiện rõ quan điểm, thái độ của nhà văn trước cuộc sống. Bởi cái đích hướng tới của văn chương đâu chỉ dừng ở việc phản ánh hiện thực mà qua phản ánh hiện thực, nhà văn đều gửi những thông điệp về tư tưởng, những chuẩn mực về tình cảm, thẩm mỹ đối với xã hội và con người. Khi thực hiện sứ mệnh sáng tạo của mình, nỗ lực tận hiến hết sức mình với khao khát cho ra đời những tác phẩm có giá trị, nhà văn không chỉ hướng tâm hồn con người đến chân, thiện, mỹ mà còn giúp con người đào luyện mình ngày càng hoàn thiện hơn, ngày càng nhân ái và tốt đẹp hơn. Và ở đây, trách nhiệm của nhà văn sẽ thể hiện rất rõ rằng, những tác phẩm văn chương đích thực ra đời từ những cảm xúc, những chân thành và khát khao sáng tạo mãnh liệt của nhà văn, chứ không thể là một sản phẩm hời hợt, máy móc hay áp đặt, nhạt nhẽo, nịnh bợ hay lòe bịp, mị dân hay là bởi chỉ để thỏa mãn những dục vọng tầm thường.
Cuộc sống luôn chờ đợi những tác phẩm có giá trị. Nhất là hiện nay, khi đời sống của con người phải đối mặt với quá nhiều thách thức, quá nhiều những bất trắc, âu lo thì người đọc càng mong chờ những tác phẩm đi sâu vào thân phận con người – những tác phẩm mà số phận nhân vật có thể chạm đến nơi sâu nhất của trái tim mỗi người. Những tác phẩm cho con người, vì phẩm giá con người chính là những viên gạch xây đắp và kết nối tình yêu thương, lòng nhân ái giữa con người với con người trong xã hội. Thông qua những tác phẩm đó, nhà văn khơi lên ở con người niềm trắc ẩn, khát vọng khôi phục và bảo vệ cái cao cả, cái tốt đẹp của cuộc đời, ý thức phản kháng cái ác.
Bởi, như GS. Nguyễn Văn Hạnh viết, văn chương cũng như nghệ thuật không thể thay thế cho kinh tế, chính trị và những lĩnh vực quan trọng khác của đời sống xã hội. Nhưng ngược lại, cũng không một lĩnh vực nào có thể thay thế được văn chương trong việc giúp con người hiểu cuộc sống và hiểu chính mình, sống có tình thương, có đạo lý, có văn hóa, vượt qua cái tầm thường, phàm tục, giả dối, để thăng hoa, để ước mơ, vươn đến chân, thiện, mỹ.. Trong thế giới hiện nay, khi con người luôn bị lôi ra bên ngoài, bị cuốn vào đám đông và bị nhu cầu vật chất cám dỗ dữ dội, thì thi ca, văn chương lại càng cần thiết. Tiếp xúc với văn thơ, con người có điều kiện giao lưu với những giá trị tinh thần, suy ngẫm, chiêm nghiệm về những vấn đề nhân bản, nhân văn, không phải giữa đám đông, hay trong lúc bận rộn bởi bao điều rắc rối, phiền toái ở đời này, mà tương đối thanh thản, ở tư thế một mình, chỉ riêng mình trò chuyện với tác giả, riêng mình đối diện với lương tri, với cái phần người nhất của chính mình. Những khoảnh khắc đó thật đáng quý cho con người trong thời buổi này để bảo tồn và phát huy phẩm giá và năng lực làm người.
Văn học phải chiếu sáng cuộc sống, bồi dưỡng, nâng cao tâm hồn con người chứ không phải hạ thấp con người và nhà văn thể hiện điều đó như thế nào để xứng đáng với niềm hy vọng của nhân dân? Người cầm bút có trách nhiệm không thể bỏ qua những vấn đề thời cuộc đang diễn ra nhưng ngay cả khi viết về cái ác, cái xấu, viết về cuộc đấu tranh gay gắt, giằng co giữa cái tốt và cái xấu người cầm bút cũng đề cao tính văn, nhân bản chứ không phải để người đọc có cảm giác sợ hãi, âu lo, thậm chí quy phục cái ác. Như thế, là nhà văn đã góp phần thanh lọc cơ thể của xã hội, góp phần làm cho cuộc sống tươi đẹp hơn và như thế cũng có nghĩa là nhà văn đã thực thi trách nhiệm công dân của mình. Nói như PGS. TS. Nguyễn Hồng Vinh, tác phẩm văn học, nghệ thuật khi khai thác những mặt trái của đạo đức xã hội với mục đích là khơi gợi, thức tỉnh con người tránh xa cái ác, cái xấu để nuôi dưỡng, nâng đỡ, bồi đắp cái thiện vốn có trong cuộc sống, chứ không phải vùi dập, chà đạp nhân cách con người. Cho dù cuộc sống có suy thoái đạo đức, nhưng cái thiện vẫn là cơ bản, vì nếu không như vậy thì còn gì là sự sống? Văn học cần đấu tranh không khoan nhượng với những thói hư, tật xấu của con người, nhưng viết về mặt trái của xã hội, không thể chỉ là nơi gợi ra sự căm ghét, không chỉ là nơi nhà văn trút bỏ ẩn ức của mình. Cao hơn, văn học còn biết giúp công chúng nhận thức vết thương đau và tìm cách vượt qua nó bằng niềm tin sâu sắc vào tương lai. Nếu để mất niềm tin là để mất tất cả! Đây là sứ mệnh cao quý, đồng thời cũng là trọng trách nặng nề của văn nghệ sĩ.
Không thể có tác phẩm đích thực nếu không có nhà văn đích thực. Để có những tác phẩm đích thực, nhà văn phải đến với cuộc sống, đến với con người bằng cả tấm lòng, bằng trái tim mẫn cảm với tất cả sự nâng niu, trân trọng trong nguồn cảm hứng của khát khao sáng tạo. Khi và chỉ khi nhà văn thực sự “sống” giữa cuộc đời, tha thiết gắn bó và khao khát hòa nhập với cuộc đời thì mới có thể cho ra đời những tác phẩm văn học thực sự có giá trị. Và đến lượt mình, những tác phẩm đích thực chỉ có thể bắt nguồn từ những rung động chân thành của nhà văn, từ hơi thở ấm nóng của cuộc đời. Nói cách khác, đời sống trong tác phẩm luôn bắt nguồn từ đời sống của thế giới hiện thực nên tác phẩm của nhà văn phải hít phả từng hơi thở sống còn của cuộc sống. Dĩ nhiên, đó không chỉ là kết quả của tài năng thiên bẩm của người cầm bút mà còn là sự lao tâm, khổ tứ, sự sáng tạo không ngừng nghỉ của người cầm bút. Và đã là nhà văn thì không thể dựa vào bất cứ ai khác ngoài chính tài năng và lao động sáng tạo của chính mình. Cái tầm, cái tâm của người cầm bút sẽ được bộc lộ rõ nhất ở đâu nếu không phải là ở chính trong tác phẩm – đứa con tinh thần của nhà văn? Điều này trước hết và trên hết phụ thuộc vào tài năng, vào bản lĩnh của nhà văn. Ngoài tài năng, lao động miệt mài, nhà văn phải có bản lĩnh. Bởi chỉ khi có bản lĩnh thì nhà văn mới dấn thân để khám phá, tìm tòi và sáng tạo, khát khao cống hiến cho cuộc sống những tác phẩm cho con người, vì phẩm giá con người. Trên con đường sáng tạo đầy gian truân và thống khổ của văn chương, nhà văn phải vượt mọi gian khó mới bền chí theo đuổi và nỗ lực đi tới cùng đích con đường mà mình đã chọn dấn thân cho thời đại của mình bằng một ý chí quả cảm kiên trinh.
Lịch sử văn chương nhân loại và Việt Nam đã để lại những tác phẩm có giá trị cao. Nhiều nhà văn đã cống hiến những gì tinh túy nhất của bản thân cho cuộc đời. Họ viết văn để tỏ lòng yêu nước và đó là triết lý sống, là quan điểm sáng tác chi phối toàn bộ quá trình sáng tạo của họ. Họ đã đốt cháy trái tim mình để tạo nên những tác phẩm đề cao phẩm giá con người. Những tác phẩm của họ sống mãi trong tâm hồn hàng triệu độc giả mọi thời đại.
Từ hiện thực vĩ đại trong chiến tranh giải phóng của dân tộc, chúng ta cũng đã có một đội ngũ nhà văn – chiến sĩ mang khát vọng lớn, có trách nhiệm với đất nước và dân tộc cùng một nền văn học với những tác phẩm xứng đáng là những di sản tinh thần vô giá cho đời sau. Bạn đọc nhiều thế hệ trân trọng và biết ơn những nhà văn – chiến sĩ đã thể hiện trách nhiệm lớn lao của mình, gắn bó với hiện thực trong suốt cuộc trường chinh giải phóng để cho ra đời những tác phẩm có giá trị. Đời sống nhà văn luôn gắn kết, song hành cùng đời sống thân phận đất nước, thân phận dân tộc. Nhiều nhà văn tài hoa đã hy sinh vì Tổ quốc! Trước khi hy sinh, các văn nghệ sĩ này, bằng tác phẩm của mình đã tạc nên những tượng đài bất tử trong trái tim tất cả mọi người.
Bài tham khảo 3:
Cuộc sống trôi đi, bốn mùa luôn luân chuyển, sự vật cứ bị cuốn vào vòng xoay của tạo hóa. Sinh ra, tồn tại, rồi lại tan biến vào hư vô. Có chăng còn lại mãi với đời chỉ là cái đẹp, phải thế chăng mà vượt qua bao sự băng hoại của thời gian, những tác phẩm văn học vẫn cháy lên một sức sống mãnh liệt với đời như thế để minh chứng một sự thiên vị rất có lí của tạo hóa? Nhưng văn học lại có những quy luật đào thải riêng của nó, chẳng phải tác phẩm nào sinh ra cũng còn mãi với đời. Sự sống của chúng bắt đầu từ bao giờ? Phải chăng sự tồn tại của nó được quyết định ngay từ phút kết thúc như một lời nhận định: “Khi tác phẩm kết thúc, ấy là lúc cuộc sống thực sự của nó mới bắt đầu”.
Nhận định đề cập đến số phận của tác phẩm đặt trong quá trình sáng tác của nhà văn: “Khi tác phẩm kết thúc, ấy là lúc cuộc sống thực sự của nó mới bắt đầu”. Để làm ra được một tác phẩm cho đời, nhà văn phải như “con ong chăm chỉ một giọt mật cho đời từ vạn chuyến ong bay” (Chế Lan Viên). Gian khổ, khó nhọc, có khi cả sự quằn quại đau đớn của cảm xúc, người nghệ sĩ mới có thể làm ra một tác phẩm cho cuộc đời. Họ thai nghén, ấp ủ những điều mình tâm đắc từ rất lâu, chỉ chờ đến phút cảm xúc thăng hoa mà nếu không nói ra có thể chết như lời ai đó từng nói, chính khi ấy tác phẩm được hình thành. Có tác phẩm trôi chảy theo dòng cảm xúc rất trơn tru. Có tác phẩm viết xong rồi lại phải sửa chữa, uốn nắn rất nhiều. Và cho đến khi tác giả đặt bút kết thúc một tác phẩm – hoàn thiện, đó mới thực sự là lúc tác phẩm kết thúc. Sự kết thúc ấy chính là một sự hoàn thành và nó là sự kết thúc để mở ra một khởi đầu mới: Số phận của tác phẩm: “Khi tác phẩm kết thúc, ấy là lúc cuộc sống thực sự của nó mới bắt đầu”. Tác phẩm kết thúc là đứa con tinh thần của nhà văn ra đời, nhưng người nghệ sĩ không thể tự quyết định cho số phận của nó. Cuộc sống của nó mới thực sự bắt đầu là khi nó đến với công chúng; có thể sẽ được hưởng ứng, được trân trọng; cũng có thể sẽ rơi vào quên lãng.
Phải chăng đó là một sự nghiệt ngã của nghiệp văn chương, một sự xót xa trớ trêu cho những ai đã mang vào thân cái duyên nghiên bút? Không, đó hoàn toàn là một sự lí giải rất hợp lí của quy luật văn học muôn đời. Quy luật của văn chương bao đời nay vẫn vậy. Nó chỉ giữ lại những gì là thực chất, là sáng tạo, là có ý nghĩa. Tác phẩm văn học chỉ tồn tại khi nó có ý nghĩa với cuộc đời. Điều này không phải do nhà văn quyết định. Tác phẩm của anh viết ra, dù có thể là gan ruột, là tâm huyết, là sự kì công gọt giũa của bản thân anh, nhưng hỡi ôi, nếu nó quá xa vời với cuộc sống ngoài kia, nó chỉ diễn được những ý quá ư “bằng phẳng và dễ dãi” (Nam Cao), nó không có gì sáng tạo, nó không làm người đọc rung động… thì quy luật của văn chương chắc chắn sẽ vẫn đào thải và phủ định sự cố gắng của anh. Người nghệ sĩ làm ra tác phẩm nhưng không thể quyết định số phận của nó là bởi lẽ vậy. Tác phẩm ấy là nỗi lòng của nhà văn, nhưng với nó phải đến được với công chúng và quan trọng hơn phải đi được vào lòng công chúng. Độc giả chính là một bộ phận quan trọng quyết định đến sự thành hay bại, tồn hay vong của một tác phẩm. Một tác phẩm đến được với công chúng phải là tác phẩm không chỉ nói riêng nỗi lòng của người cầm bút, mà phải là “Tiếng nói đồng ý, đồng chí, đồng tình” (Tố Hữu) của tất cả mọi người. “Khi tác phẩm kết thúc, ấy là lúc cuộc sống thực sự của nó mới bắt đầu” là bởi lẽ ấy.
Bất cứ một người nghệ sĩ nào khi cầm bút đều mong muốn mình tìm được một tấc lòng tri âm nơi người đón nhận, luôn mong muốn tác phẩm của mình sẽ nhận được sự ủng hộ của mọi người. Có ai khi gửi lòng mình lên trang giấy lại không khao khát một điều như vậy? Thế nhưng chẳng phải tác phẩm nào cũng theo ý muốn của họ. Có những người cả đời theo nghiệp bút nghiên vẫn không làm được điều gì đáng kể.
Tác phẩm chính là một văn bản mở, chỉ khi nào có sự đánh giá tiếp nhận từ nhiều hướng của độc giả thì lúc đó nó mới trở thành một tác phẩm nghệ thuật theo đúng nghĩa. Nói như M. Gorki: “Nhà văn là người sáng tạo ra tác phẩm nhưng chính người đọc tạo nên số phận cho nó”. Bằng trình độ và vốn hiểu biết của mình, người đọc đi sâu vào tác phẩm, dùng trí tưởng tượng phong phú để tái hiện hình ảnh cuộc sống được phản ánh. Tuy có nhiều cách hiểu khác nhau nhưng tựu trung lại đều không nằm ngoài cái ý cốt lõi ban đầu của tác giả.
Như loài hoa phải nhờ đến những cánh bướm mới có thể khoe sắc, khoe hương, tác phẩm văn học cũng vậy. Sáng tạo nghệ thuật là hành trình vươn tới tự do, còn tiếp nhận văn học cũng là sự khao khát hướng tới khám phá chân trời tự do ấy. Nói như Ê-gô I-sa-ép: “Cuộc sống trong ngôn từ lâu dài hơn bản thân đời người”, bởi khi khép trang sách lại, người đọc vẫn không ngừng miên man nghĩ về những câu chuyện mà nhà văn đã gợi ra và dường như còn bỏ lửng. Thiết nghĩ văn chương không thể tự nó vượt thời gian mà phải bay lên nhờ đôi cánh của người đọc.
Hiện thực cuộc sống vốn dĩ phong phú và muôn màu, khi đi qua lăng kính sáng tạo của nghệ sĩ lại càng thêm lung linh nhiều góc cạnh. Tiếp nhận văn học hay cảm thụ văn học chính là sống hết mình với nó, rung động tận độ với tác phẩm, vừa đắm mình trong thế giới nghệ thuật của nhà văn, vừa tỉnh táo lí trí lắng nghe tiếng nói của tác giả. Một người đọc thông minh sẽ biết xem xét tác phẩm ở mọi ngóc ngách, phương diện, như đang cầm trên tay một khối vuông ru bích mà xoay nó theo nhiều chiều. Ở mỗi góc độ ta lại khám phá ra những nội dung mới lạ. Chính vì thế mà có người cho rằng, xét đến cùng thì lịch sử văn học cũng chính là lịch sử của quá trình tiếp nhận.
Ai đó đã từng nói: “Viết hay là không nói hết”. Nhà văn phải là người trao cho độc giả chiếc chìa khóa vàng để mở cánh cửa đi vào tác phẩm, còn mở được đến đâu thì điều đó lại phụ thuộc vào trình độ và khả năng giải mã các kí hiệu thẩm mĩ, vào tri thức, vốn sống và trí tưởng tượng của người đọc. Vì thế, có nhiều ý kiến thậm chí trái chiều nhau được đưa ra về cùng một tác phẩm. Ai cũng biết Truyện Kiều của đại thi hào Nguyễn Du là một kiệt tác “thiên thu tuyệt diệu từ” nhưng xung quanh tác phẩm cũng có những đánh giá mâu thuẫn. Các nhà phê bình hiện đại với cảm quan tiến bộ nhìn cuộc đời Kiều như một “tấm gương oan khổ” nhưng đồng thời cũng là một viên ngọc, một bông sen giữa đầm “Gần bùn mà chằng hôi tanh mùi bùn”.
Chạnh thương cô Kiều như đời dân tộc
Sắc tài sao mà lắm truân chuyên.
(Chế Lan Viên)
Thế nhưng, nhà nho Nguyễn Công Trứ lại viết những câu thơ oán trách nàng Kiều:
Bạc mệnh chẳng lầm người tiết nghĩa
Đoạn trường cho đáng kiếp tà dâm.
Hai cái nhìn hoàn toàn khác nhau nhưng do bị chi phối bởi thời đại và xã hội. Có phải thế chăng mà không bao giờ có được tiếng nói cuối cùng trong nghệ thuật. Cũng có những tác phẩm ngay khi ra đời đã được chào đón nồng nhiệt nhưng cũng có những trường hợp bị chê trách, sau đó mới được nhìn nhận đánh giá lại như tác phẩm Bà Bô-va-ry của Phlô-be hay An-na Ka-rê-ni-a của L.Tôn-xtôi. Trong văn học Việt Nam, Vũ Trọng Phụng với tác phẩm Số đỏ cũng là một điển hình tiêu biểu. Khi đứa con tinh thần của Vũ chào đời, nó đã bị quy kết là “dâm thư” và mãi đến sau này có một thời người sinh ra nó còn bị đánh đồng với nhóm Nhân văn giai phẩm. Cho đến mấy chục năm sau, “đứa con nghịch tử” ấy mới được đưa vào giảng dạy trong nhà trường bởi sự nhận thức giá trị hiện thực sâu sắc cùng bút pháp trào phúng sắc sảo có một không hai của một tác phẩm “ghê gớm có thể làm vinh dự cho mọi nền văn học” (Nguyễn Khải) này.
Có thể nói, tiếp nhận tác phẩm chính là công đoạn cuối cùng trong cuộc hành trình sáng tạo đầy gian truân, khó nhọc. Bằng trái tim và khối óc, người đọc thâm nhập vào tầng sâu của văn bản để khôi phục lại những nét mờ, lấp đầy những khoảng trống, làm hồi sinh tác phẩm một lần nữa, biến nó thành một sinh thể sống có số phận, có suy nghĩ và nhận thức.
Nói như Lưu Hiệp trong thiên Tri âm của Văn tâm điêu long: “Người làm văn tình cảm rung động mà phát ra lời, người xem văn phải rẽ văn để thâm nhập vào tác phẩm”. Người nghệ sĩ muốn cho đứa con tinh thần của mình có thể bất tử được với thời gian phải tạo nên mối đối thoại nhiều chiều với độc giả, phải tuân thủ theo nguyên lí “tảng băng trôi” (Hê-minh-uê) với bảy phần tám tảng băng trôi dưới nước để cho một phần lộ ra. Cây bút tài hoa là người biết tạo cho tác phẩm những khoảng trống, những nốt lặng để người đọc tha hồ khám phá. Ngay chỉ với một Đôn Ki-hô-tê nhưng Xéc-van-téc đã tạo cho người đọc nhiều cách hiểu. Đối với người Tây Ban Nha thì đó là một người điên, buồn cười; người Pháp gọi là chú hề đáng thương; các môn đệ của chủ nghĩa lãng mạn gọi Đôn Ki-hô-tê là người hùng còn sót lại; nhưng với người Anh thì Đôn Ki-hô-tê lại là một bi kịch. Trong khi đó, những nhà nghiên cứu mang cảm quan hiện thực chủ nghĩa lại cho nhân vật này là sự hạ bệ lí tưởng anh hùng phi thực tế, ảo tưởng… Vậy rõ ràng, những môi trường văn hóa khác nhau tạo ra những “phạm trù hiểu” không cùng hướng. Ta coi tác phẩm như cái đài nhiều dải tần, ai thích nghe sóng nào thì nghe, nhưng phải bắt đúng dải sóng nếu không chỉ có tạp âm thôi.
Như vậy, muốn hiểu rõ và nắm bắt được linh hồn của tác phẩm thì người đọc không chỉ dùng tình cảm để cảm nhận mà còn phải dùng lí trí để phân tích. Văn bản kết thúc nhưng dư âm của nó thì còn vang vọng mãi. Nó đòi hỏi người đọc phải tự nâng mình lên, trau dồi tri thức, hiểu biết để biến vốn sống thành chất sống. Có như thế mới đồng hành cùng nhà văn trong việc sáng tạo tác phẩm chân chính.
Trước sự ra đi bất tử của một nhà văn ta nghĩ đến sự bất tử của một ngòi bút. Như những ngôi sao băng đã kịp lóe rạng một lần trước khi tắt, bằng tác phẩm văn học người nghệ sĩ chân chính đã để lại cho bạn đọc một lẽ sống cao cả của tâm hồn. Đời xa, không ai thấy mặt nhà văn nhưng khi xem văn liền thấy lòng của họ. Quy luật văn chương nghiệt ngã nhưng chắc chắn sẽ vẫn có những nghệ sĩ được đền đáp xứng đáng với tài năng và tâm huyết của mình. Và sự đền đáp lớn lao nhất chính là khi tác phẩm của họ được sinh ra, được tồn tại mãi mãi với cuộc đời.