Đặc trưng của Chủ nghĩa hiện thực phê phán trong Văn học Việt Nam

dac-trung-cua-chu-nghia-hiẹn-thuc-phe-phan-trong-van-hoc-viẹt-nam

Đặc trưng của Chủ nghĩa hiện thực phê phán trong Văn học Việt Nam

I. Đặc trưng thi pháp.

1. Quan điểm nghệ thuật của các nhà văn hiện thực Việt Nam:

Mỗi người viết dù muốn hay không, trước khi cầm bút đều cần đề ra mục đích sáng tác. Vì vậy, mỗi người đều hình thành hệ thống quan điểm nghệ thuật tương ứng. Quan điểm nghệ thuật chính là quan niệm của nghệ sĩ về con người, về thế giới. Quan điểm nghệ thuật có thể được phát biểu trực tiếp cũng có thể không được phát biểu thành lời mà được thể hiện gián tiếp qua thế giới hình tượng của tác phẩm.

Chủ nghĩa hiện thực trong văn học Việt Nam có một quá trình hình thành và phát triển ở các chặng đường khác nhau. Điều đó đồng nghĩa với việc quan điểm nghệ thuật có sự vận động và phát triển. Sự vận động và phát triển này còn được thể hiện ngay trong sáng tác của mỗi người. Trước khi đến với văn học hiện thực Nguyễn Công Hoan, Nam Cao từng chịu ảnh hưởng của văn học lãng mạn thoát li nhưng cuối cùng họ đã chọn con đường “đứng về phía truyền thống dân tộc và quần chúng bị áp bức”.

Điểm chung trong quan điểm nghệ thuật của các cây bút hiện thực (1930-1945) là sự phê phán tính chất thoát li, xa rời đời sống của các cây bút lãng mạn đồng thời khẳng định quan điểm hiện thực của mình. Nguyễn Công Hoan chế giễu thứ tiểu thuyết lâm li, dễ dãi chạy theo thị hiếu độc giả, công kích thứ văn chương trinh thám du nhập từ phương tây. Ông tâm sự trong Đời viết văn của tôi: “Khi văn chương mà viết đúng như tiếng nói và lối nói dân tộc thì nó hay, nó đứng vững mãi”. Ông luôn quan niệm “Truyện phải có nội dung bổ ích và trước hết truyện phải thực”. Ngô Tất Tố cũng thẳng thắn phê phán văn học lãng mạn. Ông cho rằng Tự lực văn đoàn “Đánh phấn xoa nước hoa chọn quần áo để nhử bạn đọc phụ nữ”.

Tuyên chiến gay gắt nhất với văn học lãng mạn phải kể đến Vũ Trọng Phụng. Vũ Trọng Phụng chỉ trích dòng văn học này: “Đó là bọn đạo đức giả không phải đường và trưởng già 100% luôn ca tụng sự hư hỏng của đàn bà bằng những danh từ điêu trá của văn chương”. Đồng thời, Vũ Trọng Phụng cũng khẳng định quan điểm hiện thực: “Các ông muốn tiểu thuyết cứ là tiểu thuyết. Tôi và những nhà văn cùng chí hướng như tôi muốn tiểu thuyết là sự thực ở đời”. Ý kiến của Vũ Trọng Phụng không tránh khỏi nhiều điểm cực đoan song ông đã góp phần mài sắc quan điểm về hiện thực trong văn học đương thời. Tiếp tục khuynh hướng phê phán tính chất tiêu cực của văn chương lãng mạn, Nam Cao khẳng định văn học hiện thực: “Nghệ thuật không cần là ánh trăng lừa dối, không nên là ánh trăng lừa dối. Nghệ thuật có thể chỉ là tiếng đau khổ kia, thoát ra từ những kiếp lầm than” (Đời thừa).

Các nhà văn hiện thực chủ nghĩa đứng trên lập trường nhân đạo với tinh thần “Nghệ thuật vị nhân sinh” làm nền tảng cho sự sáng tạo. Nhà văn Tam Lang tuyên bố: “Lẽ sống của xương máu là dẹp tan “bất lương, bất mãn”, ghi những tội ác đã gây nên đau khổ, để hướng dẫn và bảo chứng việc làm của xương máu”. Là một nhà văn nhân đạo, Nguyên Hồng cho rằng nghệ thuật phải bắt rễ từ đời sống “Như rễ cây bám riết lấy lòng đất, càng sâu bao nhiêu càng vững chắc bấy nhiêu”; “Cuộc sống phải là những cuộc kích thích không ngừng của những tha thiết yêu thương mới, của những chan chứa tin tưởng mới, làm việc trên mặt đất mà không còn ai dám thấy mình tàn héo và chắc chắn phải thay đổi, xóa bỏ hết những đói khổ, đau xót”.

Phát ngôn một cách hệ thống, nhất quán về quan điểm nghệ thuật trong số các nhà văn hiện thực phê phán phải kể đến Nam Cao. Sống gắn bó, giàu yêu thương với những kiếp người đau khổ, ông đưa ra tiêu chí để xác định giá trị của một tác phẩm văn học: “Một tác phẩm thật có giá trị, phải vượt lên bên trên tất cả các bờ cõi và giới hạn, phải là một tác phẩm chung cho tất cả loài người. Nó phải chứa đựng một cái gì lớn lao, mạnh mẽ, vừa đau đớn, lại vừa phấn khởi. Nó ca tụng lòng thương, tình bác ái, sự công bình… Nó làm cho người gần người hơn”. Không chỉ dừng lại ở đó, Nam Cao đòi hỏi nghệ sĩ phải có phong cách nghệ thuật: “Văn chương không cần đến những người thợ khéo tay, làm theo một vài kiểu mẫu đưa cho. Văn chương chỉ dung nạp những người biết đào sâu, biết tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những gì chưa có”. Những đặc trưng và nguyên tắc sáng tác của chủ nghĩa hiện thực đã được thể hiện sâu sắc, toàn diện, tiến bộ nhất trong sáng tác Nam Cao.

Có thể nói một phương pháp sáng tác chỉ được coi là hoàn chỉnh khi có những quan điểm nghệ thuật tương ứng hệ thống và nhất quán. Chủ nghĩa hiện thực phê phán đã thực hiện hoàn chỉnh vai trò lịch sử của nó. Hệ thống quan điểm nghệ thuật của trào lưu này còn tiếp tục ảnh hưởng với văn học chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa sau này.

2. Cảm hứng chủ đạo:

Như đã nói ở trên, cảm hứng chủ đạo của chủ nghĩa hiện thực trong văn học thế giới thế kỉ XIX là phê phán. Chủ nghĩa hiện thực trong văn học Việt Nam tiếp thu những thành tựu vĩ đại từ văn học thế giới đồng thời mang nét độc đáo riêng. Điểm độc đáo đó theo nhà nghiên cứu Trần Đăng Suyền là các nhà văn hiện thực Việt Nam như Nam Cao, Ngô Tất Tố, Nguyên Hồng… đều xuất phát từ lập trường nhân đạo, từ những khát vọng nhân đạo để phê phán xã hội phong kiến thực dân đương thời. Đây là một ý kiến rất xác đáng. Pêtơrốp cũng khẳng định: “Chủ nghĩa nhân đạo là cơ sở lý tưởng thẩm mỹ của nghệ thuật hiện thực”.

Vốn là một truyền thống trong văn học Việt Nam, chủ nghĩa nhân đạo có cơ sở văn hóa từ cách ứng xử nghĩa tình của người Việt; Từ sự ảnh hưởng của các học thuyết tôn giáo Nho giáo, Phật giáo, Đạo giáo khi vào đến nước ta đã cùng hòa quyện với nền tảng là lối sống nhân ái. Chủ nghĩa nhân đạo cũng là mạch nguồn xuyên suốt trong các sáng tác trong quá khứ từ văn học dân gian, văn học trung đại. Những tác phẩm của Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương… và giai đoạn văn học nhân đạo cuối thế kỉ XVIII đầu thế kỉ XIX đã tiếp sức cho văn học thời kì này.

Cảm hứng phê phán với cái nhìn nhân đạo xuất hiện trong hầu hết các sáng tạo của Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan, Nam Cao… Ngô Tất Tố trong Tắt đèn đã xây dựng nên hai tuyến nhân vật đối lập. Một tuyến nhân vật ông thể hiện sự cảm thông sâu sắc là gia đình chị Dậu, những kiếp “Con sâu cái kiến” thống khổ, bị áp bức. Không những vậy ông còn dùng hết bút lực để ca ngợi phẩm chất của chị Dậu – “Đốm sáng đặc biệt” (Nguyễn Tuân) trong đêm trường tăm tối trước cách mạng. Tuyến nhân vật đối lập là những thế lực thống trị như gia đình Nghị Quế, tên lí trưởng, tên quan huyện… Tuyến nhân vật này được xây dựng với cảm hứng phê phán mãnh liệt.

Với quan niệm “Viết còn để tìm cho mình một đời sống lâu dài trong tâm hồn mọi người và được yêu thương lại một cách nồng nàn với những mối tình thắm thiết mênh mông”, Nguyên Hồng được coi là nhà văn của tình thương. Nguyên Hồng đã dựng lên cả một bức tranh hiện thực về cuộc sống lam lũ cơ cực của những người lao động làm công cho các nhà máy, xưởng thợ, chịu những cảnh ngộ éo le, tai ương trong cuộc sống. Họ trước sau một mực làm ăn lương thiện nhưng vẫn không thể thoát ra khỏi con đường bần cùng hóa.

Những bất hạnh, những tai ương dồn dập xảy ra trong cuộc sống đã khiến cho những con người trở nên an phận và cam chịu với cuộc sống tối tăm. Nếu Nguyên Hồng viết nhiều và cảm động về người lao động nghèo đặc biệt là phụ nữ và trẻ em thì Nam Cao lại cảm thông đặc biệt với những người bần cùng bị xã hội tàn bạo làm cho tha hóa về nhân phẩm. Đó là kiếp người bị rạch nát khuôn mặt người và hủy hoại phần nhân tính lương thiện như Chí Phèo. Là bà lão chỉ vì miếng ăn mà đánh mất nhân phẩm trong Một bữa no, là người cha vì miếng ăn mà vô tình ngay cả với chính vợ con mình trong Trẻ con không được ăn thịt chó…

Được tiếp nối từ truyền thống nhân đạo trong quá khứ, tuy nhiên độc giả có thể nhận ra dấu ấn thời đại trong giai đoạn 1930-1945. Nhân đạo với ý nghĩa thông thường là sự cảm thương với con người bất hạnh trong xã hội, trân trọng phẩm chất của con người, khát khao vươn tới một xã hội tốt đẹp hơn. Với sự thức tỉnh sâu sắc ý thức cá nhân, văn học giai đoạn này không chỉ hướng tới sự đồng cảm với những cảnh ngộ đáng thương bị người bần cùng hóa, dưới đáy xã hội mà còn hướng cảm thông với những kiếp người vì cái nghèo, cái đói mà phải sống kiếp “Đời thừa”, “Sống mòn”, vô danh vô nghĩa. Lấy tư liệu từ trong chính cuộc đời kết hợp với con mắt quan sát tinh tế và một trái tim giàu tình thương, Nam Cao đã khắc họa sinh động bi kịch đau đớn của những trí thức nghèo. Những Thứ (Sống mòn), Hộ (Đời thừa) phần lớn đều là trí thức tiểu tư sản, có ý thức về tài năng, khao khát sống cuộc đời có ý nghĩa song tất cả những ước vọng cao đẹp đó đều bị vùi dập tàn nhẫn.

Vì là những người có học, tiếp thu nhiều tư tưởng tiến bộ, họ ý thức được sự tù túng, quẩn quanh tẻ nhạt của cái “Ao đời phẳng lặng”. Và rằng, cũng vì ý thức rõ nét điều ấy, họ rơi vào bi kịch tinh thần. Đến đây, người đọc nhận ra rằng: Cuộc xung đột căng thẳng không chỉ đến từ những mâu thuẫn cơ bản trong xã hội giữa nông dân – địa chủ, bọn cướp nước – nhân dân lao động mà còn là việc đi trả lời một cách thỏa đáng cho câu hỏi Sếcxpia đã từng đặt ra trong bi kịch Ham-lét “Sống hay không sống, đó là vấn đề”. Sống không chỉ là tồn tại mà còn là sống sao cho có ý nghĩa.

Chiều sâu nhân đạo của giai đoạn 1930-1945 còn ở chỗ các nhà văn không chỉ trung thành với hiện thực được phản ánh mà còn đi vào lí giải hiện thực. Là một trong những nhà văn xuất sắc nhất của giai đoạn văn học này, đứng trên lập trường nhân đạo, Nam Cao đã chỉ ra rằng chính xã hội tàn bạo, phi nhân tính đã làm xói mòn nhân cách của con người. Vũ Trọng Phụng qua tiểu thuyết Giông tố cũng chỉ ra chính tiền bạc, địa vị khiến con người trở nên tha hóa. Vì vậy, vốn là cô gái thôn quê hiền lành nhưng Thị Mịch đã hoàn toàn bị mất đi sự trong sáng, lương thiện khi đặt chân vào nhà Nghị Hách.

Tinh thần cốt lõi là nhân đạo với cái nhìn phê phán nhưng cá tính sáng tạo cũng thể hiện rõ nét qua mỗi tác giả. Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng trong sáng tác có nhiều yếu tố châm biếm, hài hước. Nguyên Hồng thiên về cảm thương. Nam Cao sắc lạnh, tỉnh táo nhưng giàu tình thương. Đó là nét cá tính ở mỗi tác giả, cũng đồng thời tạo nên màu sắc phong phú, đa dạng cho trào lưu hiện thực phê phán.

3. Văn học hiện thực phê phán Việt Nam và vấn đề xây dựng tính cách điển hình trong hoàn cảnh điển hình:

Điển hình hóa là vấn đề trung tâm của văn học hiện thực. Pêtơrốp nhấn mạnh. “Phạm trù điển hình là phạm trù quan trọng nhất của mỹ học hiện thực”. “Điển hình là một sự khái quát cao của sáng tạo nghệ thuật” (Trần Đình Sử). Nó cũng là một trong những ranh giới để phân biệt rõ nét chủ nghĩa hiện thực với các phương pháp sáng tác khác. Ở phần trước, chuyên đề đã khái quát những nét chung. Trong chương này, chúng tôi xin đi vào nét riêng trong việc giải quyết mối quan hệ giữa tính cách điển hình và hoàn cảnh điển hình của các nhà văn Việt Nam.

3.1. Các kiểu nhân vật điển hình:

Chủ nghĩa hiện thực tạo ra những tính cách điển hình trong hoàn cảnh điển hình. Lấy tiêu chí là cách “Phản ứng” của nhân vật trước hoàn cảnh, chúng tôi phân loại thành một số kiểu nhân vật điển hình như sau:

3.1.1. Kiểu nhân vật lao động bị áp bức, bị dồn vào đường cùng nhưng cố vượt lên với tinh thần phản kháng:

Đây là kiểu nhân vật bị áp bức, bị dồn vào đường cùng nhưng họ vẫn giữ bản chất lương thiện tốt đẹp, họ chứa đựng sức mạnh quật khởi vốn tiềm tàng. Tiêu biểu cho kiểu nhân vật này là tác phẩm Tắt đèn (Ngô Tất Tố), Bước đường cùng (Nguyễn Công Hoan). Đó là chị Dậu bị dồn vào thế phải bán chó, bán con, bán nhân phẩm nhưng vẫn giữ được bản chất tốt vốn có – một người phụ nữ tần tảo, chịu thương chịu khó, thủy chung hết mực. Đó là anh Pha gặp biết bao tai ương, bị bọn địa chủ dồn tới “Bước đường cùng” nhưng vẫn ánh lên bản chất lương thiện. Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan đã phát hiện ra bản chất tốt đẹp tiềm ẩn của người nông dân ngay trong những hoàn cảnh khốn cùng nhất. Chị Dậu, anh Pha chính là những điển hình tiêu biểu cho người nông dân Việt Nam trước cách mạng.

3.1.2. Kiểu nhân vật tha hóa:

Thuật ngữ “Tha hóa” được Mác, Hê-ghen sử dụng nhiều trong triết học. Sử dụng trong văn học, “Tha hóa” để chỉ hiện tượng con người biến chất thành xấu đi dưới tác động của hoàn cảnh. Đối với văn học hiện thực, con người tha hóa thường gắn với hoàn cảnh ngột ngạt, bế tắc, khủng hoảng. Nói cách khác, kiểu nhân vật tha hóa chính là nạn nhân của hoàn cảnh. Xây dựng kiểu nhân vật này, các nhà văn hiện thực mang vào đó cái nhìn nhân đạo, ý thức sâu sắc tình trạng bất công, thối nát của xã hội đương thời. Kiểu nhân vật tha hóa khá tiêu biểu trong giai đoạn văn học hiện thực (1930-1945). Theo khảo sát của Trần Đăng Suyền, nhân vật tha hóa chỉ thực sự xuất hiện trong các tác phẩm của Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng, Nguyên Hồng, Nam Cao.

a. Kiểu nhân vật phản diện thuộc tầng lớp thống trị tự đi vào tha hóa đến mất hết tính người:

Tha hóa trước hết diễn ra ở một bộ phận giai cấp thống trị – những kẻ vẫn được coi là bộ mặt của xã hội. Với những hình tượng nghị Quế, nghị Lại, nghị Hách, Bá Kiến… Các nhà văn hiện thực đã lách sâu ngòi bút vạch trần những ung nhọt xã hội. Ngòi bút của các nhà văn trở thành vũ khí chiến đấu, giáng vào đầu bọn quan tham lại nhũng, địa chủ phong kiến, tư sản mại bản những đòn hiểm. Trong quan niệm của Nguyễn Công Hoan, xã hội thực dân phong kiến làm tha hóa con người. Xuất hiện trong tác phẩm của ông những kẻ giàu có, quyền thế mà trống rỗng, vô hồn, vô cảm. Đồng tiền, dục vọng khiến cho Nghị Hách trong Giông tố càng đê tiện, tàn bạo hơn. Tầng lớp địa chủ qua ngòi bút của Nam Cao cũng nham hiểm, độc ác hơn khi có tiền bạc, địa vị.

b. Kiểu nhân vật thuộc tầng lớp dưới bị tha hóa nhân phẩm:

Trái ngược với cuộc sống vương giả của tầng lớp trên, tầng lớp dưới là những người thấp cổ bé họng, bị áp bức, sống trong cay đắng tủi nhục. Sự tha hóa của những người dân nghèo được các nhà văn lí giải dưới sự tác động của hoàn cảnh. Sống trong môi trường phi nhân tính, không ít nhân vật của Nguyên Hồng bị dồn đẩy vào tình trạng tha hóa. Từ một cô gái nông thôn xinh đẹp, Tám Bính đã rơi vào môi trường sống đầy cạm bẫy và dẫn đến tha hóa. Thị Mịch trong Giông tố, Xuân tóc đỏ trong Số đỏ ngày càng trở nên đầy dục vọng, tham lam khi có sự thay đổi về địa vị, điều kiện sống. Là một anh canh điền lương thiện, Chí Phèo đã bị Bá Kiến và nhà tù thực dân làm cho tha hóa, trở thành “Con quỷ dữ của làng Vũ Đại”.

Quá trình tha hóa diễn ra ở mỗi con người, mỗi hoàn cảnh với những biểu hiện khác nhau. Cách nhìn nhận của các nhà văn về quá trình tha hóa cũng có điểm khác biệt. Nếu Vũ Trọng Phụng với cái nhìn có phần bi quan khi coi con người là nạn nhân tuyệt đối của hoàn cảnh, con người buông mình theo sự tha hóa thì những nhà văn như Nguyên Hồng, Nam Cao lại đặt niềm tin vào sức sống tiềm tàng, bản chất lương thiện bên trong những con người tưởng như đã bị xã hội ruồng bỏ. Tám Bính, Chí Phèo vẫn không nguôi khát vọng hoàn lương dẫu rơi vào tha hóa. Nhìn thấy sự vận động, phát triển tính cách trong hoàn cảnh họ tố cáo xã hội giả dối, tàn bạo.

c. Kiểu nhân vật trí thức tiểu tư sản bị tha hóa với tấn bi kịch tinh thần:

Văn học hiện thực phê phán với đối tượng thẩm mỹ mới của mình đã sáng tạo được một kiểu nhân vật mới – những người trí thức. Ôm những hoài bão cao đẹp nhưng họ lại bị cuộc sống tầm thường, cơm áo ghì sát đất làm cho “vỡ mộng”. Bi kịch của họ là cuộc giằng xé dai dẳng, giữa một bên là khát vọng cao cả và một bên là cuộc sống tầm thường. Nam Cao là nhà văn viết nhiều về người trí thức. Những nhân vật như Thứ, Hộ, Điền đều khao khát sống một cuộc đời có ý nghĩa nhưng rốt cục đều rơi vào bi kịch “vỡ mộng”.

3.2. Nghệ thuật điển hình hóa:

a. Cách lựa chọn không gian, thời gian:

Để thể hiện tính cách nhân vật, chủ nghĩa hiện thực phê phán đã lựa chọn được kiểu không gian và thời gian đặc trưng. Trong văn học hiện thực phê phán nổi bật lên là không gian tù túng, quẩn quanh dồn ép con người, không gian của những người bần cùng, của những người dưới đáy vô vọng. Tính chất chật hẹp tù túng của không gian được thể hiện qua Tắt đèn, như nhà nghiên cứu Phan Cự Đệ nhận xét: “ Chỉ hơn 100 trang mà các sự kiện, các mâu thuẫn cọ sát nhau đến nảy lửa. Tất cả câu chuyện sưu thuế, đánh đập, chè chén, bán con, bán chó…liên tiếp xảy ra trong vòng một ngày ở một làng quê nhỏ bé”. Đó là không gian chật hẹp với thế “Quần ngư tranh thực” trong Chí Phèo, không gian nhà trọ tù túng trong Đời thừa… Văn học hiện thực phê phán còn có xu hướng viết về không gian mở (Giông tố, Vỡ đê). Đó là không gian chứa đầy nghịch lí, mâu thuẫn, đẩy con người vào thế bị dồn ép.

Bên cạnh không gian nghệ thuật, một yếu tố quan trọng góp phần tạo nên “Hoàn cảnh điển hình” là thời gian nghệ thuật. Thời gian nghệ thuật của văn xuôi hiện thực phê phán là thời gian hiện thực hàng ngày (không có thời gian tương lai), đôi khi tương lai cũng lóe lên nhưng rồi tắt ngấm. Để khắc họa tính cách của những nhân vật điển hình rơi vào hoàn cảnh bế tắc thì thời gian thường là thời gian dồn nén (tận cùng, cuối tuần, cuối ngày, cuối năm, cuối vụ thuế), làm tăng thêm tình trạng gay gắt của hoàn cảnh, tạo điều kiện để nhân vật bộc lộ tính cách.

b. Nghệ thuật khắc họa tính cách nhân vật:

Nhân vật là yếu tố trung tâm của tác phẩm, làm nên linh hồn của tác phẩm. Tính cách nhân vật được khắc họa qua một số yếu tố như: Ngoại hình, nội tâm nhân vật. Dân gian vẫn có câu “Trông mặt mà bắt hình dong”, ngoại hình là một trong những yếu tố quan trọng để khắc họa tính cách nhân vật. Trên thực tế, không chỉ chủ nghĩa hiện thực mới tuân thủ nguyên tắc ấy. Nhưng sự khác biệt cơ bản là ở chỗ: Nếu văn học lãng mạn nghiêng về lí tưởng hóa nhân vật thì văn học hiện thực miêu tả nhân vật như nó vốn có trong đời sống. Không ít nhân vật được lấy từ nguyên mẫu trong đời sống. Khuôn mặt của Chí Phèo được Nam Cao miêu tả rất kĩ ngoại hình, Chí sau khi ở tù về “Trông đặc như thằng săng đá. Cái đầu cạo trọc lốc, cái răng cạo trắng hớn, cái mặt thì đen mà rất cơng cơng, hai mắt gườm gườm trông gớm chết”.

Sự tha hóa của Chí đến bắt đầu từ sự thay đổi diện mạo bên ngoài. Bi kịch tâm hồn đau đớn của nhân vật Hộ trong Đời thừa được bộc lộ ngay qua ngoại hình nhân vật “Cái trán rộng hơi nhăn. Đôi lưỡng quyền đứng sừng sững trên bờ hai cái hố sâu của má thì bóng nhẫy. Cả cái mũi cao và thẳng tắp cũng bóng lên như vậy. Cái mặt hốc hác ấy, nghiêng nghiêng bên trên quyển sách, trông khắc khổ đến thành dữ tợn”.

Không chỉ miêu tả ngoại hình, nhà văn hiện thực còn chú ý khai thác lời nói, hành động của nhân vật. Trong mối quan hệ gắn bó với hiện thực, các đoạn đối thoại của nhân vật đều gần với lời nói hàng ngày, bình dị, tự nhiên, đậm đà bản sắc dân tộc.

Dưới ngòi bút của các nhà văn hiện thực, phần nội tâm sâu kín của nhân vật cũng được bộc lộ rõ nét. Sự thức tỉnh sâu sắc về ý thức cá nhân đã giúp các nhà văn hiện thực không dừng lại ở việc mô tả hiện thực đời sống mà còn hướng tới làm sống dậy hiện thực tâm lý con người. Khám phá thế giới nội tâm con người cũng là đóng góp quan trọng của văn học lãng mạn. Những cảm giác bâng khuâng, những rung động, những cảm giác mong manh đã hiện lên phong phú, phức tạp song nó mới chỉ dừng lại ở cái tôi khép kín. “Các nhà văn hiện thực đã miêu tả tâm lý cá nhân gắn liền với tâm lý xã hội”[5, 174]. Ở phương diện này, Nam Cao được coi là cây bút phân tích tâm lý nhân vật đã đạt trình độ bậc thầy. Chúng tôi sẽ tiếp tục trình bày cụ thể vấn đề hơn ở phần tiếp theo của chuyên đề.

c. Nghệ thuật trần thuật.

Nghệ thuật trần thuật biểu hiện ở một số yếu tố như: Cách sử dụng điểm nhìn trần thuật, giọng điệu trần thuật, nhịp điệu trần thuật. Điểm nhìn trần thuật và giọng điệu trần thuật tương đối phong phú. Các tác giả thường sử dụng điểm nhìn bên ngoài nhân vật, tức là khi người kể chuyện có khoảng cách với nhân vật. Ở các tác giả có xu hướng khai thác tâm lý nhân vật như Nam Cao điểm nhìn có xu hướng dịch chuyển từ điểm nhìn bên ngoài vào điểm nhìn bên trong nhân vật. Điều này được thể hiện rõ trong những lời nửa trực tiếp khi tác giả nhập thân vào dòng suy nghĩ của nhân vật. Nói về giọng điệu trần thuật. Mỗi nhà văn sẽ có “Một giọng nói riêng”. Giọng điệu góp phẩn thể hiện thái độ của tác giả đối với sự việc, nhân vật. Giọng điệu trong văn Vũ Trọng Phụng thiên về đả kích, mỉa mai; Giọng điệu trong văn Nguyên Hồng đầy yêu thương; Giọng điệu trong văn Nam Cao bề ngoài lạnh lùng, tàn nhẫn mà sôi nổi, thiết tha…

Nhịp điệu trần thuật chủ yếu được xác định bởi sự tiến nhanh hay chậm của các tình tiết, sự kiện, biến cố. Nếu văn học lãng mạn thường có nhịp điệu thong thả, chậm rãi khi thể hiện những mối tình thơ mộng thì văn học hiện thực giai đoạn (1930-1945) có xu hướng thể hiện trong tác phẩm nhịp điệu khẩn trương, gấp gáp, đầy căng thẳng, dữ dội. Đó là không khí căng thẳng ở làng Đông Xá trong những ngày thúc sưu thuế. Là nhịp điệu dồn dập trong Số đỏ khi Xuân tóc đỏ nhanh chóng từng bước leo lên bậc thang danh vọng.

Hãy bình luận đầu tiên

Để lại một phản hồi

Thư điện tử của bạn sẽ không được hiện thị công khai.