Vai trò của người đọc trong tiếp nhận văn học.

vai-tro-cua-nguoi-doc-trong-tiep-nhan-van-hoc

Vai trò của người đọc trong tiếp nhận văn học.

I. Tiếp nhận văn học.

1. Tiếp nhận trong đời sống văn học.

Tiếp nhận văn học là quá trình người đọc hoà mình vào tác phẩm, rung động với nó, đắm chìm trong thế giới nghệ thuật được dựng lên bằng ngôn từ, lắng tai nghe tiếng nói của tác giả, thưởng thức cái hay, cái đẹp, tài nghệ của người nghệ sĩ sáng tạo. Bằng trí tưởng tượng, kinh nghiệm sống, vốn văn hoá và bằng cả tâm hồn mình, người đọc khám phá ý nghĩa của từng câu chữ, cảm nhận sức sống của từng hình ảnh, hình tượng, nhân vật,…làm cho tác phẩm từ một văn bản khô khan biến thành một thế giới sống động, đầy sức cuốn hút.

– Tiếp nhận văn học là hoạt động tích cực của cảm giác, tâm trí người đọc nhằm biến văn bản thành thế giới nghệ thuật trong tâm trí mình.

– Phân biệt “tiếp nhận”“đọc”: “tiếp nhận” rộng hợn “đọc” vì tiếp nhận có thể bằng truyền miệng hoặc bằng kênh thính giác (nghe).

2. Tính chất tiếp nhận văn học.

– Tiếp nhận văn học thực chất là một quá trình giao tiếp (tác giả và người tiếp nhận, người nói và người nghe, người bày tỏ và người chia sẻ, cảm thông). Vì vậy, gặp gỡ, đồng điệu hoàn toàn là điều khó. điều này thể hiện ở hai tính chất cơ bản sau:

+ Tính chất cá thể hóa, tính chủ động, tích cực của người tiếp nhận. Các yếu tố thuộc về cá nhân có vai vai trò quan trọng: năng lực, thị hiếu, sở thích, lứa tuổi, trình độ học vấn, kinh nghiệm sống,… Tính khuynh hướng trong tư tưởng, tình cảm, trong thị hiếu thẩm mĩ làm cho sự tiếp nhận mang đậm nét cá nhân. Chính sự chủ động, tích cực của người tiếp nhận đã làm tăng thêm sức sống cho tác phẩm.

+ Tính đa dạng, không thống nhất: cảm thụ, đánh giá của công chúng về một tác phẩm rất khác nhau, thậm chí cùng một người ở nhiều thời điểm có nhiều khác nhau trong cảm thụ đánh giá. Nguyên nhân ở cả tác phẩm (nội dung phong phú, hình tượng phức tạp, ngôn ngữ đa nghĩa,…) và người tiếp nhận (tuổi tác, kinh nghiệm, học vấn, tâm trạng,…)

3. Các cấp độ tiếp nhận văn học.

a. Ba cấp độ tiếp nhận văn học:

– Cấp độ thứ nhất: cảm thụ chỉ tập trung vào nội dung cụ thể, nội dung trực tiếp của tác phẩm, nội dung trực tiếp của tác phẩm. Đây là cách tiếp nhận đơn giản nhưng khá phổ biến.

– Cấp độ thứ hai: cảm thụ qua nội dung trực tiếp để thấy được nội dung tư tưởng của tác phẩm.

– Cấp độ thứ ba: cảm thụ chú ý đến cả nội dung và hình thức để thấy được giá trị tư tưởng và giá trị nghệ thuật của tác phẩm.

b. Yêu cầu tiếp nhận văn học có hiệu quả:

– Nâng cao trình độ.

– Tích luỹ kinh nghiệm.

– Trân trọng tác phẩm, tìm cách hiểu tác phẩm một cách khách quan, toàn vẹn.

– Tiếp nhận một cách chủ động, tích cực, sáng tạo, hướng tới cái hay, cái đẹp, cái đúng.

– Không nên suy diễn tuỳ tiện.

II. Người đọc trong quá trình tiếp nhận văn chương.

1. Người đọc như một yếu tố bên trong của sáng tác văn chương.

– Người đọc không đồng sáng tạo với nhà văn, nhưng lại là một yếu tố bên trong của sáng tác. người đọc đối với sáng tạo nghệ thuật cũng giống như một người tiêu dùng trong lao động sản xuất. Với tư cách là một đòi hỏi, một nhu cầu, bản thân sự tiêu dùng là một yếu tố nội tại của hoạt động lao động sản xuất (C.Mác). Người tiêu dùng là mục tiêu của sản xuất, người đọc là mục tiêu của sáng tác. Chính nhu cầu của người tiếp nhận, người tiêu dùng, người sử dụng văn chương là yếu tố có ý nghĩa quyết định đối với quá trình văn chương. Người đọc hiện lên trước nhà văn dưới một hệ thống câu hỏi: Viết cho ai?, Viết để làm gì?, Viết như thế nào?. Người đọc yêu cầu, đòi hỏi, chờ đợi và phê bình nhà văn. Nhà văn sáng tác để đáp ứng đòi hỏi bạn đọc. Người đọc tạo nên mối quan hệ trực tiếp với tác phẩm của sáng tác – tiếp nhận.

– Nhưng ai là người đọc, người tiếp nhận văn chương? Loại hình học người đọc văn chương chia ra nhiều loại người đọc khác nhau.

+ Ðứng về phía người tiếp nhận, người ta chia người đọc ra 4 loại. Thứ nhất là người đọc tiêu thụ. Ðây thường là loại người đọc đọc ngấu nghiến cốt truyện, ham thích tình huống éo le gay cấn, nhiều khúc mắc cạm bẫy. Loại này đọc lướt nhanh vào giờ nhàn rỗi, tìm thú giải trí, có những đánh giá dễ dãi. Thứ hai là, loại đọc điểm sách. Loại người này có ý thức tìm ở văn chương những thông tin mới về cuộc sống, đạo đức … để thông báo cho độc giả của các báo. Thứ ba là loại người đọc chuyên nghiệp – những người giảng dạy nghiên cứu phê bình ở các trung tâm nghiên cứu. Thứ tư là những người sáng tác – nhà văn, nhà thơ đọc theo cảm hứng bất chợt hoặc để tham gia viết những trang phê bình ngẫu hứng.

+ Ðứng ở góc độ sáng tác người ta chia người đọc ra làm ba loại.

  • Thứ nhất: người đọc thực tế. Tức là những người đọc, người tiếp nhận sáng tác tồn tại một cách cụ thể, cá thể. Họ là những người A, người B nào đó trong đời sống, tiếp nhận văn chương theo cá tính, theo sở thích cá nhân. Như vậy, trước mắt người sáng tác có biết bao nhiêu người đọc thực tế. Nhưng nhà văn không viết để đáp ứng cho từng người cụ thể mà viết cho người đọc nói chung.
  • Thứ hai: người đọc giả thiết. Ðây là loại độc giả của từng tác giả. Loại này tồn tại trong tác giảsuốt quá trình sáng tác từ nảy sinh ý đồ cho đến kết thúc. Nhà văn có chủ đích hướng tới họ là chủ yếu.
  • Thứ ba: người đọc hữu hình hay người đọc bên trong là loại người đọc tồn tại bên trong tác phẩm như một nhân vật luôn đối diện và đối thoại với nhà văn, nhưng không phải nhân vật mà là hiện thân của người đọc bên ngoài tác phẩm. Tố Hữu viết bài thơ Kính gửi cụ Nguyễn Du, suốt bài thơ tác giả nói với cụ Nguyễn cụ thể nhưng thực tế Tố Hữu chủ yếu viết cho người đọc thực tế hôm nay, nói với người hôm nay. Trong thơ Tố Hữu dạng nhân vật này thường hay xuất hiện dưới đại từ em như một đối tượng thân thiết gần gũi để tâm sự:
    – Em ơi Ba Lan mùa tuyết tan.
    – Em ạ ! Cu-ba ngọt lịm đường.

+ Ðứng ở góc độ thời gian, người ta chia người đọc ra làm 3 loại:

  • Thứ nhất: người đọc hiện tại, tức loại người đọc đang sống đồng thời với tác giả, họ thực sự tiếp nhận tác phẩm của tác giả và lên tiếng khen chê trực tiếp với tác giả. Trong số người đọc hiện tại, có thể chia ra làm nhiều lớp theo cách khác nhau: người đọc bình thường; người đọc của người đọc – nhà phê bình; người đọc thiếu nhi, thanh niên, công nhân, nông dân, trí thức…
  • Thứ hai: người đọc quá khứ. Ðây là loại người đọc không thể và không bao giờ tiếp nhận tác phẩm cả. Nhưng nhiều khi nó quyết định thành bại của tác phẩm. khi Tố Hữu viết Kính gửi cụ Nguyễn Du thì đây phải là bức thư gởi cụ Nguyễn Du nào đó đang sống thực sự ở đâu đó, mà là gửi cho linh hồn cụ Nguyễn Du. Và chính Nguyễn Du lúc sinh thời cũng đã có loại người đọc như thế. đó là Tiểu Thanh (xem bài thơ Ðộc Tiểu Thanh ký. Nhân vật nàng trong màu tím hoa sim của Hữu Loan cũng lại là một người đọc quá khứ.
  • Thứ ba: người đọc tương lai. Loại người đọc này chưa tồn tại thực tế sẽ có thể, hoặc không thực sự đọc tác phẩm nhưng vẫn xuất hiện trong quá trình làm tác phẩm của tác giả, và có khi là chủ đích hướng tới của nhà văn. Nhà văn muốn gởi thế kỉ mai sau, muốn nói chuyện với người 300 năm sau như Nguyễn Du đã nói: “Bất tri tam bách dư niên hậu / Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như”. Stendhal thì chờ người đọc nửa thế kỉ sau.

+ Lại có cách chia người đọc theo ý thức hệ. Cách này, chia người đọc ra làm 2 loại.

  • Thứ nhất: người đọc bạn bè, đây là loại người đọc chỉ hướng, cùng quan điểm xã hội, lập trường tư tưởng. Phần lớn các tác giả có đông đảo bạn đọc loại này. Ðây là loại bạn đọc chí cốt mà Tố Hữu đã nói: Tôi buộc hồn tôi với mọingười. để hồn tôi với bao hồn khổ.
  • Thứ hai: loại người đọc đối thủ. Loại người đọc này trái với chí hướng, lập trường giai cấp xã hội của mình. chẳng hạn cụ Ngáo trong bài thơ Hởi cụ Ngáo của Tố Hữu.

– Tính quyết định của người đọc đối với quá trình sáng tác văn chương là ở chỗ nếu không có người đọc thì không có bản thân quá trình sáng tác. Nghệ thuật như là một hình thức giao tiếp. Nó ra đời để đáp ứng nhu cầu giao lưu, trao đổi giữa người viết văn và người đọc văn, nhưng trước hết là để thỏa mãn nhu cầu tự bộc lộ mình của người sáng tác. Người đọc lúc này sẽ là nơi gởi gắm tâm sự của nhà văn. Ở đây người đọc trở thành người phục vụ nhà văn. Ðến lượt mình, nhà văn lại trở thành người phục vụ bạn đọc. Ðây là một mục tiêu quan trọng của sáng tạo nghệ thuật. Nghệ thuật phục vụ người đọc ở 2 phương diện. Một là thỏa nhu cầu nghệ thuật của họ. Hai là đào tạo họ thành những người sính nghệ thuật. Rồi những người sính nghệ thuật đó lại yêu cầu nghệ sĩ không được tự thỏa mãn mà phải nâng mình lên. Ðây là một sự phát triển theo đường tròn xoáy ốc. Tác phẩm nghệ thuật – và mọi sản phẩm khác cũng thế, – đều tạo một thứ công chúng sính nghệ thuật và có khả năng thưởng thức cái đẹp, như vậy là sản xuất không những chỉ sản sinh ra một đối tưọng cho chủ thể, mà còn sản sinh ra một chủ thể cho đối tượng. (C. Mác)

2. Vai trò của người đọc đối với đời sống lịch sử của văn chương.

– Cấu trúc nội tại của tác phẩm với tính đa thanh, đa giọng điệu, nhiều tầng nghĩa do thuộc tính phản ánh và khái quát đời sống và chất liệu ngôn từ đã tạo nên phương diện khách quan của đời sống lịch sử tác phẩm nghệ thuật. Còn người đọc thực tế tạo ra phương diện chủ quan của đời sống lịch sử tác phẩm nghệ thuật. Chính vai trò năng động sáng tạo của bạn đọc đã làm cho đời sống lịch sử của nghệ thuật vô cùng phong phú, sinh động.

– Ta có thể thấy những yếu tố cụ thể từ phiá người đọc tham gia vạch ra con d8ường lịch sử của văn chương:

+ Khác với tiếp nhận khoa học, tiếp nhận nghệ thuật có một công chúng rộng rãi. Tính chất dân chủ rộng rãi của tiếp nhận sẽ vẽ ra gương mặt đa dạng của tác phẩm. Mọi người, mọi lứa tuổi, mọi giới tính, mọi nghề nghiệp, giai cấp đều có thể tiếp nhận văn chương và tiếp nhận theo cách của mình. Do đó, ở trong mỗi một độc giả sẽ có một hình tượng mà hình tượng đó sẽ không trùng khít với hình tượng tác phẩm và cũng không trùng khít với hình tượng mà người khác cùng tiếp nhận. Quyết định tới tính đa dạng và đa diện của nghệ thuật từ phía chủ thể tiếp nhận là do tuổi tác đã đành, còn do cá tính cảm xúc, quan điểm thẩm mĩ, thị hiếu thẩm mĩ khác nhau; lại còn do trình độ văn hóa, địa vị xã hội, thành phần giai cấp, năng lực của từng người…

+ Mặt khác, lại còn tâm lí tiếp nhận của công chúng. Công chúng tiếp nhận có nhiều kiểu. Loại tiếp nhận để giết thì giờ lúc chờ đợi, hay rảnh rỗi. Loại này chủ yếu đọc ngấu nghiến tiếp nhận một cách bàng bạc, hời hợt. Loại người tiếp nhận sâu về phương diện đồng cảm, đồng điệu của hình tượng. Với những người này hình tượng trở nên sống động một cách kỳ lạ: y như thật. Có người đã tưởng thật. Có người thuơng khóc, hay uất ức thực sự đối với nhân vật: loại người tiếp nhận thiên về lí trí. Loại này khai thác sâu phương diện khái quát của hình tượng. Họ nặng suy tư, suy tính. Hình tượng nghệ thuật đến với họ đều ở bề chìm. Loại người tiếp nhận sơ lược, nắm bắt hình tượng không trọn vẹn. Hình tượng nghệ thuật đến với những người này không toàn bích và chỉ ở một số phương diện, khía cạnh nào đấy. Cuối cùng là loại người tiếp nhận trọn vẹn. Loại người này tiếp nhận hình tượng một cách đa diện, cả chiều cao, chiều sâu, bề chìm bề nổi nhận ra phong cách nghệ thuật, thi pháp và tư tưởng tác phẩm.

– Tiếp sức, định hướng, chế ước người đọc đó là điều kiện lịch sử – xã hội. Trong điều kiện xã hội phát triển, đời sống văn hóa nâng cao người có điều kiện tiếp nhận nghệ thuật và tiếp nhận tốt hơn trong xã hội có điều kiện kinh tế thấp. Trong điều kiện xã hội có những biến động nào đấy về chính trị -xã hội, ví du,ï đang hoà bình chuyển sang chiến tranh và ngược lại thì việc tiếp nhận nghệ thuật của công chúng cũng sẽ bị ảnh hưởng v.v… Ðã có một thời công chúng tiếp nhận vở chèo Lưu Bình – Dương Lễ ở phương diện tình bạn cao cả đầy ân nghĩa của Dương Lễ; dám cho vợ đi tìm Lưu Bình để nuôi ăn học thành đạt. Trong chế độ đa thê, năm the, bảy thiếp, thì người tiếp nhận, kể cả phụ nữ cũng rất tán đồng Dương Lễ. Nhưng trong chế độ chúng ta – chế độ phụ nữ được giải phóng, được tôn trọng thì người ta không tán thành cách làm của Dương Lễ. Và vở chèo đó không được dàn dựng, không được tiếp nhận như trước đây nữa.

– Tất cả những điều trên đây chúng ta chỉ mới nói với vai trò người đọc trong tiếp nhận ở góc độ thiên về phương diện nào đó của hình tượng, nhưng chưa nói tới việc người đọc mở rộng giới hạn nghĩa cho hình tượng. Nói mở rộng giới hạn nghĩa không có nghĩa là người đọc viết thêm vào tác phẩm, mà người đưa tác phẩm vào hoàn cảnh của mình, quan hệ với mình và phát hiện ra nghĩa cho tác phẩm từ những quan hệ mới, có thể thấy điều này qua lịch sử tiếp nhận Truyện Kiều của Nguyễn Du và nhiều trường hợp tiêu biểu khác. Hình tượng cô Tấm trong truyện cổ tích Tấm – Cám được các loại người nhận khác nhau cảm nhận khác nhau. Ðối với người bình dân xưa, cô Tấm điển hình cho quan niệm đạo đứcở hiền gặp lành. Ðối với Chế Lan Viên, cô Tấm là của tài năng diệu kỳ:

Ôi đất nước của vạn nghìn cô Tấm
Xé vỏ thị bà tiên ra mà làm chuyện bất ngờ

– Ở Phó Ðức Phương, cô Tấm là hiện thân của vẻ đẹp trong lao động, của tình yêu lao động : Những cô Tấm ngày xưa như vẫn còn đây trong mùa trẩy hội.

– Ðến đây ta thấy được vấn đề bức thiết đặt ra cho nghệ thuật là cần phải đào tạo người đọc, để người tiếp nhận biết cách đọc, thói quen đọc, kỹ năng đọc. Có thể có 4 bước cho người đọc như sau:

+ Trước hết, lựa chọn sách đọc. chọn những sách phù hợp với khát vọng lớn lao, chính đáng của con người như hoà bình, tự do, chống bạo lực, tình yêu, tình bạn, tình người.

+ Thứ đến, định hướng đọc: đọc để làm gì? Ðể thỏa mãn nhu cầu hiểu biết, giáo dục, thẩm mĩ, giải trí, giao tiếp v.v…

+ Thứ ba, phương pháp đọc: tìm các mã của văn bản, các đặc trưng phong cách, các thao tác phân tích, thống kê, đối chiếu.

+ Thứ tư, đánh giá tác phẩm: Giá trị nội dung và tư tưởng xét trên nhiều chiều đồng đại và lịch đại v.v

Hãy bình luận đầu tiên

Để lại một phản hồi

Thư điện tử của bạn sẽ không được hiện thị công khai.