vo-chong-a-phu

Hướng dẫn ôn tập luyện thi: Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài

Ôn tập luyện thi: “Vợ chồng A Phủ” của Tô Hoài

I. Tác giả, tác phẩm:

1. Tác giả: Tô Hoài

Tô Hoài (1920 – 2014) là một trong những nhà văn lớn của nền văn học Việt Nam hiện đại. Ông có vốn hiểu biết sâu sắc về phong tục tập quán của nhiều vùng văn hoá khác nhau trên đất nước ta.

Nổi tiếng với tác phẩm “Dế Mèn phiêu lưu kí” nhưng thành công nhất của Tô Hoài là những tác phẩm viết về hiện thực cuộc sống, con người đồng bào vùng Tây Bắc. Tiêu biểu là truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ”. Tác phẩm vừa là một bức tranh chân thực về số phận bi thảm của người dân nghèo miền núi dưới ách áp bức phong kiến và thực dân, vừa là một bài ca về sức sống và khát vọng tự do, hạnh phúc của con người.

2. Tác phẩm:

1. Xuất xứ – Hoàn cảnh ra đời:

– “Vợ chồng A Phủ” (1952) là một trong ba tác phẩm (Vợ chồng A Phủ, Mường Giơn và Cứu đất cứu mường) in trong tập “Truyện Tây Bắc”.

– Tác phẩm là kết quả của chuyến đi cùng bộ đội vào giải phóng Tây Bắc năm 1952. Đây là chuyến đi thực tế dài tám tháng sống với đồng bào các dân tộc thiểu số từ khu du kích trên núi cao đến những bản làng mới giải phóng của nhà văn.

– “Vợ chồng A Phủ” gồm có hai phần, phần đầu viết về cuộc đời của Mị và A Phủ ở Hồng Ngài, phần sau viết về cuộc sống nên vợ nên chồng, tham gia cách mạng của Mị và A Phủ ở Phiềng Sa. Đoạn trích là phần đầu của truyện ngắn.

2. Tóm tắt truyện:

Tác phẩm kể về cuộc đời của đôi trai gái người Mèo là Mị và A Phủ. Mị là một cô gái trẻ, đẹp. Cô bị bắt làm vợ A Sử – con trai thống lý Pá Tra để trừ một món nợ truyền kiếp của gia đình. Lúc đầu, suốt mấy tháng ròng, đêm nào Mị cũng khóc, Mị định ăn lá ngón tự tử nhưng vì thương cha nên Mị không thể chết. Mị đành sống tiếp những ngày tủi cực trong nhà thống lí. Mị làm việc quần quật khổ hơn trâu ngựa và lúc nào cũng “lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”. Mùa xuân đến, khi nghe tiếng sáo gọi bạn tình thiết tha Mị nhớ lại mình còn trẻ, Mị muốn đi chơi nhưng A Sử bắt gặp và trói đứng Mị trong buồng tối.

A Phủ là một chàng trai nghèo mồ côi, khoẻ mạnh, lao động giỏi. Vì đánh lại A Sử nên bị bắt, bị đánh đập, phạt vạ rồi trở thành đầy tớ không công cho nhà thống lí. Một lần, do để hổ vồ mất một con bò khi đi chăn bò ngoài bìa rừng nên A Phủ đã bị thống lí trói đứng ở góc nhà. Lúc đầu, nhìn cảnh tượng ấy, Mị thản nhiên nhưng rồi lòng thương người cùng sự đồng cảm trỗi dậy, Mị cắt dây cởi trói cho A Phủ rồi theo A Phủ trốn khỏi Hồng Ngài…

3. Chủ đề:

Truyện “Vợ chồng A Phủ” đặt ra vấn đề số phận con người – những con người dưới đáy xã hội – những con người bị tước đoạt hết tài sản, bị bóc lột sức lao động và bị xúc phạm nặng nề về nhân phẩm. Giải quyết vấn đề số phận con người, Tô Hoài đã thức tỉnh họ, đưa họ đến với cách mạng và cho họ một cuộc sống mới.

II. Phân tích tác phẩm:

1. Nhân vật Mị:

* Hình ảnh Mị trong đoạn văn mở đầu truyện:

– Một cô gái âm thầm, lẻ loi, sống như gắn vào những vật vô tri, vô giác: “Ai ở xa về, có việc vào nhà thống lý Pá Tra thường trông thấy có một cô con gái ngồi quay sợi gai bên tảng đá trước cửa, cạnh tàu ngựa”.

– Một cô con dâu nhà thống lý quyền thế, giàu sang “nhiều nương, nhiều bạc, nhiều thuốc phiện” nhất làng nhưng lúc nào cũng “cúi mặt”, “buồn rười rượi”, không nói, không cười.

Hình ảnh của Mị hoàn toàn tương phản với cái gia đình mà Mị đang ở. Hình ảnh ấy chỉ rằng Mị đã trải qua những tháng ngày cực khổ và cơ nhục biết chừng nào ở nhà thống lí; đồng thời báo hiệu một tương lai không bằng phẳng. Hình ảnh ấy là tấm gương phản chiếu một số phận nhiều uẩn khúc và một bi kịch của cõi nhân thế nơi miền núi cao Tây Bắc.

* Cuộc đời, số phận, tính cách của nhân vật Mị:

a. Trước hết, Mị là cô gái có ngoại hình đẹp và nhiều phẩm chất tốt, đáng lẽ có thể sống một cuộc sống hạnh phúc:

+ Mị là một cô gái trẻ đẹp và có tài thổi sáo.

+ Mị chăm làm, sẵn sàng lao động, không quản ngại khó khăn.

+ Mị yêu đời, yêu cuộc sống tự do, không ham giàu sang phú quý.

+ Mị rất hiếu thảo.

Có thể khẳng định, Mị là một hình tượng đẹp về người thiếu nữ Tây Bắc. Ở Mị toát lên cái đẹp vừa tự nhiên, giản dị vừa phóng khoáng, thẳm sâu như thiên nhiên núi rừng miền Tây Tổ quốc. Tuy nhiên, trái với những gì Mị đáng được hưởng, bi kịch đã đến với Mị một cách phũ phàng, gây ra bởi sức mạnh của cường quyền (cha con th thóng lí Pá Tra) và thần quyền (hủ tục miền núi)

b. Cô Mị với kiếp “con dâu gạt nợ” ở nhà thống lý Pá Tra :

– “Mị là con dâu gạt nợ” : Bề ngoài là con dâu vì Mị là vợ A Sử, nhưng bên trong Mị chỉ là một thứ gán nợ, bắt nợ để bù đắp cho khoản tiền mà bố mẹ Mị đã vay của nhà thống lý Pá Tra nhưng chưa trả được. Điều đau đớn trong thân phận của Mị là ở chỗ: nếu chỉ là con nợ thay cho bố mẹ thì Mị hoàn toàn có thể hi vọng vào một ngày nào đó sẽ được giải thoát sau khi món nợ đã được thanh toán (bằng tiền, bằng vật chất hoặc công lao động). Nhưng Mị lại là con dâu bị cướp về và “cúng trình ma” ở nhà thống lý. Linh hồn Mị đã bị con “ma” ấy “cai quản”. Đến hết đời, dù món nợ đã được trả, Mị cũng sẽ không bao giờ được giải thoát, được trở về với cuộc sống tự do. Thực tế, Mị trở thành nô lệ lao động và phục dịch trong nhà thống lí. Đây chính là bi kịch đau đớn trong cuộc đời Mị.

– Đời “con dâu gạt nợ” của Mị ở nhà thống lý là một quãng đời thê thảm, tủi cực, sống mà như đã chết. Ở đó :

+ Mị dường như đã bị tê liệt cả lòng yêu đời, yêu cuộc sống lẫn tinh thần phản kháng.

+ Mị chỉ là một công cụ lao động.

+ Thân phận của Mị không bằng con trâu, con ngựa trong nhà.

+ Mị âm thầm, lầm lũi như một cái bóng.

+ Mị như một tù nhân của chốn địa ngục trần gian, đã hoàn toàn mất tri giác về cuộc sống.

Nhà văn Tô Hoài không chỉ gián tiếp tố cáo sự áp bức bóc lột của bọn địa chủ phong kiến miền núi mà còn nói lên một sự thật đau xót: dưới ách thống trị của cường quyền bạo lực và thần quyền hủ tục, người dân lao động miền núi Tây Bắc bị chà đạp một cách tàn nhẫn về tinh thần đến mức tê liệt cảm giác về sự sống, mất dần ý niệm về cuộc đời và sự tồn tại của bản thân. Từ những con người có lòng ham sống mãnh liệt, họ dần trở thành những người sống mà như đã chết, tẻ nhạt và vô thức như những đồ vật trong nhà. Sự hủy diệt ý thức sống của con người như thế thật đáng sợ.

c. Sức sống tiềm tàng mãnh liệt (đêm tình mùa xuân ở Hồng Ngài) của nhân vật Mị:

* Những tác động của ngoại cảnh :

+ Trước hết là khung cảnh mùa xuân.

+ Tiếp đó là “tiếng ai thổi sáo rủ bạn đi chơi” – tiếng sáo gọi bạn tình “vọng” vào tâm hồn Mị “thiết tha bổi hổi”.

+ Bữa cơm Tết cúng ma đón năm mới rộn rã “chiêng đánh ầm ĩ” và bữa rượu tiếp ngay bữa cơm bên bếp lửa.

Những biểu hiện của ngoại cảnh ấy không thể không tác động đến Mị, nhất là tiếng sáo. Bởi vì ngày trước Mị thổi sáo giỏi, bao nhiêu người mê, ngày đêm đã thổi sáo đi theo Mị. Tiếng sáo gọi bạn tình, “tiếng sáo rủ bạn đi chơi” chính là tiếng ca của hạnh phúc, là biểu tượng của tình yêu đôi lứa. Nó đã xuyên qua hàng rào lạnh giá bên ngoài để “vọng” vào miền sâu thẳm trong tâm hồn Mị, đánh thức cái sức sống vẫn được bảo lưu đâu đó trong cõi lòng người thiếu nữ Tây Bắc này.

* Diễn biến tâm lý, hành động:

+ Đầu tiên, Mị “ngồi nhẩm thầm bài hát của người đang thổi”.

+ Trong không khí của một đêm tình mùa xuân, trong cái nồng nàn của bữa rượu ngày Tết, “Mị cũng uống rượu”.

+ Mị “thấy phơi phới trở lại, trong lòng đột nhiên vui sướng như những đêm Tết ngày trước”. Mị cảm thấy mình “trẻ lắm. Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi.

+ Mị cảm thấy rõ hơn bao giờ hết cái vô nghĩa lý của cuộc sống thực tại: “Nếu có nắm lá ngón trong tay lúc này, Mị sẽ ăn cho chết ngay, chứ không buồn nhớ lại nữa”. Mị đã nhận ra cảnh khổ của mình. Ý thức tự tồn chớm đầu nảy nở nhưng hết sức mơ hồ.

+ “Trong đầu Mị đang rập rờn tiếng sáo”. Tiếng sáo như hối thúc Mị “quấn lại tóc”, “với tay lấy cái váy hoa vắt ở phía trong vách” để “đi chơi”. Mị muốn được sống với chính mình trong quá khứ bởi thực tại khổ đau nhưng quá khứ của Mị thì rất tươi đẹp.

+ Thật chẳng may, ngay lúc Mị chuẩn bị bước đi thì A Sử xuất hiện. Như một hung thần, hắn lạnh lùng và tàn ác vùi dập khát vọng của Mị. Mị thắp lên ngọn đèn, hắn thổi tắt. Mị xoã tóc, hắn buộc lên cao.  Mị muốn đi chơi, hắn trói Mị lại. Không một tiếng nói nhưng ta vẫn nhận thấy sự đe doạ khủng khiếp của kẻ thống trị vô cùng tàn bạo.

Những biến động mạnh mẽ trong tâm hồn Mị đã chuyển hóa thành hành động thực tế và hành động này dẫn đến những hành động tiếp theo không thể ngăn được. Nguồn sống mới trỗi dậy không ngừng thôi thúc Mị, khiến Mị tạm quên đi thực tại, bớt đi nỗi sợ hãi.

Rõ ràng, cái khát vọng sống, niềm khát khao hạnh phúc vẫn được bảo lưu ở đâu đó trong sâu thẳm tâm hồn nhân vật Mị. Nó giống như hòn than vẫn đang âm ỉ cháy dưới lớp tro tàn nguội lạnh và chỉ cần một ngọn gió thổi tới là nó có thể bùng cháy một cách mãnh liệt. Những tác động của ngoại cảnh là không nhỏ nhưng cái sức mạnh tiềm ẩn, không thể nào dập tắt của con người mới là điều mấu chốt quyết định sức sống của Mị.

d. Sức phản kháng táo bạo khi chứng kiến cảnh A Phủ bị trói (hành động cởi dây trói cho A Phủ )

Dù bị dập vùi một cách tàn nhẫn nhưng không vì thế mà lòng ham sống và khát khao hạnh phúc trong Mị bị triệt tiêu. Trái lại, trong những hoàn cảnh đặc biệt nó còn bừng dậy một cách mạnh mẽ và chuyển hóa thành sức phản kháng táo bạo. Có thể thấy rõ điều đó qua diễn biến tâm lí và hành động của Mị trong đêm cô cứu A Phủ rồi cùng anh bỏ trốn khỏi Hồng Ngài :

+ Ban đầu, trước cảnh tượng A Phủ bị trói, Mị hoàn toàn dửng dưng. Bởi cái cảnh bắt người, đánh người ở nhà thống lí đâu có gì lạ.

+ Nhưng sau đó, khi chứng kiến dòng nước mắt chảy xuống gò má đã xạm đen lại của A Phủ, Mị đã đồng cảm, thương mình và thương người.

+ Thương mình, thương người, Mị nhận ra cái khổ của bản thân; đồng thời cũng nhận rõ tội ác của cha con thống lí.

+ Dù trong lòng vẫn có những sợ hãi nhưng Mị đã dũng dũng cảm cắt dây trói cứu A Phủ rồi cùng A Phủ bỏ trốn khỏi Hồng Ngài.

Đây là hệ quả tất yếu sau những gì đã diễn ra ở Mị. Từ đêm tình mùa xuân ở Hồng Ngài đến đêm cứu A Phủ là một hành trình tìm lại chính mình và tự giải thoát khỏi những “gông xiềng” của cả cường quyền bạo lực và thần quyền lạc hậu. Đó cũng là sự khẳng định ý nghĩa của cuộc sống và khát vọng tự do cháy bỏng của người dân lao động Tây Bắc.

2. Nhân vật A Phủ.

* A Phủ có một số phận bi thảm:

– Sớm mồ côi cha mẹ (cha mẹ chết trong một trận dịch đậu mùa).

– Bị bán lên miền núi bởi một người nghèo khó.

– Nghèo, không lấy nổi vợ vì phép làng và tục lệ cưới xin ngặt nghèo.

* A Phủ có một cá tính mạnh mẽ, một hình ảnh đẹp về người lao động miền núi Tây Bắc

– Có ý chí và nghị lực sống, A Phủ đã vượt qua mọi cơ cực để trở thành chàng trai Mông khỏe mạnh, tháo vát, trở thành niềm mơ ước của nhiều cô gái trong bản.

– Gan góc từ bé, ham lao động, A Phủ không quản ngại những công việc nặng nhọc, khó khăn, nguy hiểm.

– Không sợ cường quyền, sẵn sàng trừng trị kẻ xấu.

– Ham sống, yêu tự do, có sức sống tiềm tàng mãnh liệt.

– Dũng cảm, giỏi săn bắn, không sợ cả hổ dữ.

* A Phủ là một nạn nhân của giai cấp thống trị phong kiến miền núi tàn bạo.

– Chỉ vì đánh con quan mà bị phạt rất nặng, bị làng “bắt vạ”, trở thành một kiểu “nô lệ” trong nhà thống lí Pá Tra.

– Chỉ vì lỡ để hổ bắt mất một con bò mà bị cha con thống lí bắt trói, hành hạ dã man, có thể phải trả giá bằng cả tính mạng.

Nhân vật A Phủ vừa là bằng chứng sống về tội ác của giai cấp thống trị miền núi Tây Bắc vừa là một hình ảnh đẹp, tiêu biểu của người dân lao động ở một vùng núi cao nước ta.

3. Giá trị hiện thực, nhân đạo của tác phẩm

* Giá trị hiện thực:

– Truyện miêu tả chân thực số phận nô lệ cực khổ của người dân lao động nghèo Tây Bắc dưới ách thống trị của bọn cường quyền phong kiến miền núi (Mị, A Phủ).

– Truyện phơi bày bản chất tàn bạo của giai cấp phong kiến thống trị ở miền núi (cha con thống lí Pá Tra)

– Truyện đã tái hiện một cách sống động vẻ đẹp của bức tranh thiên nhiên và phong tục, tập quán của người dân miền núi Tây Bắc (cảnh mùa xuân, cảnh xử kiện A Phủ )

* Giá trị nhân đạo:

– Truyện thể hiện lòng yêu thương, sự đồng cảm sâu sắc với thân phận đau khổ của người lao động nghèo miền núi (nhân vật Mị, A Phủ).

– Phê phán, tố cáo quyết liệt tội ác của những thế lực cường quyền và thần quyền đã chà đạp lên nhân cách, nhân phẩm và số phận con người (cường quyền bạo lực, tàn ác và thần quyền hủ tục lạc hậu).

– Truyện khẳng định niềm tin vào vẻ đẹp tâm hồn, sức sống mãnh liệt và khát vọng hạnh phúc cháy bỏng của con người. Dù trong hoàn cảnh khắc nghiệt đến mức nào, con người cũng không mất đi khát vọng sống tự do và hạnh phúc (nhân vật Mị trong đêm tình mùa xuân, cởi trói A Phủ)

– Thông qua câu chuyện, nhà văn đã chỉ ra cho người dân miền núi Tây Bắc nói riêng, những số phận khổ đau nói chung con đường tự giải thoát khỏi những bất công, con đường làm chủ vận mệnh của mình (hành động cởi trói cho A Phủ, cùng A Phủ trốn khỏi Hồng Ngài).

* Đặc sắc nghệ thuật:

a. Nghệ thuật kể chuyện:

– Cách giới thiệu nhân vật đầy bất ngờ, tự nhiên mà ấn tượng. Cách dẫn dắt tình tiết khéo làm cho mạch truyện phát triển và vận động liên tục, biến đổi hấp dẫn mà không rối, không trùng lặp.

– Ngôn ngữ kể chuyện sinh động, chọn lọc và sáng tạo, lối văn giàu tính tạo hình thấm đẫm chất thơ.

b. Nghệ thuật miêu tả tâm lý và phát triển tính cách nhân vật:

– Nhà văn ít tả hành động mà chủ yếu khắc họa tâm tư, nhiều khi mới chỉ là các ý nghĩ chập chờn trong tiềm thức nhân vật.

c. Nghệ thuật tả cảnh đặc sắc:

– Cảnh thiên nhiên thơ mộng được miêu tả bằng ngôn ngữ giàu chất thơ và chất tạo hình (cảnh mùa xuân về trên núi Hồng Ngài).

– Cảnh miền núi với những nét sinh hoạt phong tục riêng, sinh động (Cảnh đêm tình mùa xuân, cảnh cúng trình ma, cảnh xử kiện).


Bài văn tham khảo:

Phân tích truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ”

  • Mở bài:

Những năm tháng kháng chiến anh dũng, hào hùng của dân tộc chính là đề tài thu hút sự quan tâm của tất cả các tác giả văn học. Hình tượng chủ yếu được tập trung đến là người lính, sự giác ngộ cách mạng của quân chúng nhân dân. Tô Hoài không nằm ngoài mạch chảy chung của văn học, nhưng cái riêng của ông chính là tìm đến những cái rất mới, rất lạ để phán ảnh hiện thực cuộc sống. Ngòi bút của ông hướng về những người nông dân miền núi, tìm và phát hiện vẻ đẹp của họ. Vợ chồng A Phủ chính là tác phẩm nghệ thuật thành công nhất, đánh dấu bước chuyển mình của tác giả. Đây là tác phẩm thấm đẫm tinh thần nhân đạo và chất hiện thực.

  • Thân bài:

Mị là một cô gái trẻ, xinh đẹp, và giàu sức sống. Cô sinh ra trong một gia đình nghèo khổ, có món nợ truyền khiếp của bố mẹ. Và Mị chính là người phải gánh lấy món nợ truyền kiếp ấy. Thống lí Pá Tra muốn cô thành cô dâu gạt nợ, mà thực chất chính là bắt một kẻ người làm, người hầu không công về cho nhà mình. Bằng sự độc ác, xảo trá của mình, hắn đã lợi dụng hủ tục cướp vợ mà bắt cô trở về nhà, cúng trình mà nhà hắn, và cũng chính từ lúc ấy cuộc đời Mị bước vào trang bi ai, thảm kịch. Ngòi bút sắc sảo của Tô Hoài đã vạch trần bộ mặt, bản chất của giai cấp bóc lột ẩn sau những hủ tục cũ kĩ, thối nát. Mị mang tiếng được lấy về làm vợ nhưng thực chất chỉ là một kẻ nô lệ, một nô lệ mọt kiếp để người ta hành hạ, bóc lột.

Những ngày Mị ở nhà A Sử quả sống như trong địa ngục, cô không được nhận tình yêu thương, chia sẻ, ngược lại chỉ quần quật làm, đôi khi còn bị ngược đãi, đánh đập về thể xác. Mị lúc nào cũng “lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”. Nơi ở của cô chỉ là một căn phòng bé, chiếc cửa sổ bé xíu, nhìn ra ngoài chỉ thấy mờ mờ trăng trắng không biết là sương hay là nắng.

Dường như hoàn cảnh sống đó đã mài mòn ý chí, tinh thần ham sống của Mị, khiến Mị không còn tinh thần phản kháng, thật đau đớn và chua xót biết bao, “ở lâu trong cái khổ Mị quen rồi”. Quả thực không ai có thể ngờ rằng, một cô gái tràn đầy tình yêu cuộc sống, ham mê sống mãnh liệt như vậy lại có lúc buông xuôi cuộc đời, số phận của mình như vậy. Chính hoàn cảnh tù ngục đó đã bào mòn, đẩy Mị vào bước đường tê liệt ý thức. Tô Hoài đã tỏ ra vô cùng sắc sảo, khi lý giải nguyên nhân này bằng tâm lí “con ma nhà thống lí” đã nhận mặt mình từ buổi cúng trình ma, nên cả đời này cô chỉ có thể chôn vùi cuộc đời mình ở đây. Điều đó đã phản ánh sự tàn độc của bọn cường hào, dung thần quyền và cường quyền để áp chế đời sống vật chất và tinh thần của một con người. Tác giả đã cung cấp những thông tin vô cùng giá trí, bóc trần bản chất xã hội vô nhân đạo, cho thấy thân phận bất hạnh của những người nông dân nghèo khổ.

Nhưng nếu chỉ mang trong mình giá trị hiện thực, thì tác phẩm này của Tô Hoài chắc chắn sẽ không có được thành công vang dội đến vậy. Theo chúng tôi, điều quan trọng nhất tạo nên thành công của tác phẩm này chính là khả năng phân tích tâm lí nhân vật, để nhân vật tìm thấy ánh sáng cuối đường, đây đồng thời cũng chính là giá trị nhân đạo của tác phẩm.

Bằng khả năng phân tích tâm lí nhân vật bậc thầy, Tô Hoài đã logic hóa, điều chỉnh hợp lí diễn biến tâm trạng của nhân vật Mị. Mị từ chỗ bị tha hóa, bị mài mòn về ý thức và nghị lực sống vì bị đày ải, khổ cực qua, cô sống trong nhẫn nhịn, chiu đựng. Ban đầu về nhà thống lí Pá Tra cô còn có ý định ăn là ngón tự tử, nhưng sợ liên lụy cha, nhưng ngay cả khi cha đã chết đi thì tinh thần phản kháng của cô đã ông còn nữa. Cô làm việc như một cái máy, không ý thức cho tương lai, cho ngày mai…. Vậy yếu tố nào, nhân tố nào có thể tác động khiến cô thức tỉnh?

Điều kì diệu ấy chính là ở tiếng sáo. Tiếng sáo gọi bạn tình tha thiết, tiếng sáo cũng là tiếng gọi của cuộc sống ngày xưa. Hơn nữa tiếng sáo lại xuất hiện trong một khung cảnh đầy xuân sắc khiến Mị tha thiết, bồi hồi, khiến cô lập tức nhớ lại những năm tháng tuổi trẻ ngập đầy hành phúc. Cũng chính tiếng sáo đã giúp cô ý thức được “mình vẫn con trẻ” và “bao nhiêu người có chồng vẫn đi chơi xuân”. Tiếng sáo tiếp tục văng vẳng bên tai, càng làm tâm hồn cô thức tỉnh hơn nữa. Cùng với hơi men, đã khiến Mị có một quyệt định thật táo bạo, ấy là cô muốn đi chơi và hiện thực hóa nó bằng việc vào nhà để thay quần ào đí chơi, để được sống như một con người thực sự. Đây có thể coi một bước đột biến tâm lí rất lớn của Mị. Nó không hề phi logic mà ngược lại tấy hợp lí, đay là kết quả của quá trình tác động của hoàn cảnh đến với tính cách nhân vật.

Quá trình tâm lí thứ hai, chính là cuộc gặp gỡ và giải cứu bất ngờ A Phủ vào một đêm đông. Mị gặp A Sử bị trói đứng đâu phải chỉ một đêm đó, mà có lẽ là đã rất nhiều đêm rồi. Nhưng tại sao phải đến tận thời điểm đó cô mới giải cứu A Phủ. Bởi đó chính là giọt nước mắt rơi trong hõm má sâu hoắm của A Phủ từ từ rơi xuống đã tác động mãnh liệt đến tâm lí cô. Giọt nước mắt đó mang đến sự đồng cảm sâu sắc giữa những con người cùng khổ. Đến lúc này đây ý thức phản kháng của cô càng bùng lên mãnh liệt, nó đã thể hiện sáng rõ qua câu nói: “Người kia việc gì phải chết?”. Ý thức đã dần quay trở về trong cô. Và chính lúc đó cô cũng có một quyết định vô cùng táo tạo, tháo dây trói cho A Phủ và tự giải cứu chính mình. Hành động của Mị tuy là bột phát, nhưng nó cũng là kết quả của một quá trình bừng tình sau những đêm đông dài bị đóng bang về ý thức và tinh thường. Lòng đồng cảm, tình yêu thương và hơn hết là khát vọng tự do của một trái tim yêu cuộc sống mãnh liệt đã thúc đẩy cô thoát khỏi cuộc sống tù đày, khổ ải này.

Bằng ngòi bút phân tích tâm lí vô cùng chân thực, tinh tế, Tô Hoài đã khắc họa thành công quá trình đi từ khổ đau đến hạnh phúc, ánh sáng của người lao động. Hạnh phúc của họ không gì khác chính là khi tìm được ánh sáng lí tưởng của cách mạng. Cuộc đời của họ từ đây đã được mở sang một trang mới.

Giá trị hiện thực và nhân đạo trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ quả thực thật khó mà tách bạch cho rõ rang. Hai yếu tố này đan xen, hòa quyện vào với nhau. Đồng thời còn kết hợp với nghệ thuật phân tích tâm lí nhân vật tài tình, logic càng nhấn mạnh, làm rõ hơn nữa hành trình đến với ánh sáng của nhân vật. Dù tác phẩm thấm đẫm giá trị hiện thực nhưng ta cũng không thể phủ nhận rằng trong từng câu từng chữ vẫn có những tình cảm hết sức chân thành đằm thắm. Phải có tình cảm như vậy thì ông mới phát hiện được vẻ đẹp khuất lấp, những biểu hiện tinh tế trong tâm trạng của nhân vật được.

  • Kết bài:

Với vợ chồng A Phủ, Tô Hoài nâng niu, trân trọng từng bước phát triển tâm lí, từng tình cảm yêu thương của họ. Để từ đó ông phát hiện ra sức sống mãnh liệt ở những con người này. Đồng thời ông cũng thể hiện sự cảm thông, trân trọng những khát vọng tự do, chân chính của họ. Hai yếu tố hiện thực và nhân đạo hòa quyện vào nhau đã giúp cho sự thành công của tác phẩm này.


Phân tích sức sống tiềm tàng mãnh liệt của nhân vật Mị trong đoạn trích:

Ngày Tết, Mị cũng uống rượu. Mị lén lấy hũ rượu, cứ uống ực từng bát. Rồi say, Mị lịm mặt ngồi đấy nhìn mọi người nhảy đồng, người hát, nhưng lòng Mị thì đang sống về ngày trước. Tai Mị văng vẳng tiếng sáo gọi bạn đầu làng. Ngày trước, Mị thổi sáo giỏi. Mùa xuân này, Mị uống rượu bên bếp và thổi sáo. Mị uốn chiếc lá trên môi, thổi lá cũng hay như thổi sáo. Có biết bao nhiêu người mê, ngày đêm đã thổi sáo đi theo Mị.

Rượu đã tan lúc nào. Người về, người đi chơi đã vãn cả. Mị không biết, Mị vẫn ngồi trơ một mình giữa nhà. Mãi sau Mị mới đứng dậy, nhưng Mị không bước ra đường chơi, mà từ từ bước vào buồng. Chẳng năm nào A Sử cho Mị đi chơi Tết. Mị cũng chẳng buồn đi. Bấy giờ Mị ngồi xuống giường, trông ra cái cửa sổ lỗ vuông mờ mờ trăng trắng. Đã từ nãy, Mị thấy phơi phới trở lại, trong lòng đột nhiên vui sướng như những đêm Tết ngày trước. Mị trẻ lắm. Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi. Bao nhiêu người có chồng cũng đi chơi ngày Tết. Huống chi A Sử với mị, không có lòng với nhau mà vẫn phải ở với nhau! Nếu có nắm lá ngón trong tay lúc này, Mị sẽ ăn cho chết ngay, chứ không buồn nhớ lại nữa. Nhớ lại, chỉ thấy nước mắt ứa ra. Mà tiếng sáo gọi bạn yêu vẫn lửng lơ bay ngoài đường.

Anh ném pao, em không bắt

Em không yêu, quả pao rơi rồi…

[…] Bây giờ Mị cũng không nói. Mị đến góc nhà, lấy ống mỡ, xắn một miếng bỏ thêm vào đĩa đèn cho sáng. Trong đầu Mị đang rập rờn tiếng sáo. Mị muốn đi chơi, Mị cũng sắp đi chơi. Mị quấn lại tóc, Mị với tay lấy cái váy hoa vắt ở phía trong vách. A Sử đang sắp bước ra, bỗng quay lại, lấy làm lạ. Nó nhìn quanh, thấy Mị rút thêm cái áo. A Sử hỏi:

– Mày muốn đi chơi à?

Mị không nói. A Sử cũng không hỏi thêm nữa. A Sử bước lại, nắm Mị, lấy thắt lưng trói hai tay Mị. Nó xách cả một thúng sợi đay ra trói đứng Mị vào cột nhà. Tóc Mị xõa xuống, A Sử quấn luôn tóc lên cột, làm cho Mị không cúi, không nghiêng được đầu nữa. Trói xong vợ, A Sử thắt nốt cái thắt lưng xanh ra ngoài áo rồi A Sử tắt đèn, đi ra, khép cửa buồng lại.

Trong bóng tối, Mị đứng im lặng, như không biết mình đang bị trói. Hơi rượu còn nồng nàn, Mị vẫn nghe tiếng sáo đưa Mị đi theo những cuộc chơi, những đám chơi. “Em không yêu, quả pao rơi rồi. Em yêu người nào, em bắt pao nào…”. Mị vùng bước đi. Nhưng tay chân đau không cựa được. Mị không nghe tiếng sáo nữa. Chỉ còn nghe tiếng chân ngựa đạp vào vách. Ngựa vẫn đứng yên, gãi chân, nhai cỏ. Mị thổn thức nghĩ mình không bằng con ngựa.

(Trích Vợ chồng A Phủ – Tô Hoài, Ngữ Văn 12, tập 2, NXB Giáo dục Việt Nam, 2016)

I. Mở bài:

– Tô Hoài là một trong những nhà văn lớn của nền văn học Việt Nam hiện đại.

– Ông có vốn hiểu biết sâu sắc về phong tục tập quán của nhiều vùng văn hoá khác nhau trên đất nước ta.

– Thành công nhất của Tô Hoài là những tác phẩm viết về hiện thực cuộc sống, con người vùng Tây Bắc, tiêu biểu là “Vợ chồng A Phủ”. Tác phẩm vừa là một bức tranh chân thực về số phận bi thảm của người dân nghèo miền núi dưới ách áp bức phong kiến và thực dân, vừa là một bài ca về sức sống và khát vọng tự do, hạnh phúc của con người

– Vẻ đẹp ấy đã ngời lên thật trọn vẹn qua diễn biến tâm trạng Mị và sức sống tiềm tàng mãnh liệt của nhân vật này qua đêm tình mùa xuân ở Hồng Ngài.

II. Thân bài:

“Sức sống tiềm tàng’’ là sức sống ẩn sâu kín trong tâm hồn con người, và chỉ bộc phát trong một điều kiện cụ thể nào đó. Ở nhân vật Mị, sức sống tiềm tàng trong tâm hồn cô chính là lòng yêu đời, yêu cuộc sống, sự phản kháng, sự khát khao vươn lên những điều tốt đẹp hơn nhằm thoát khỏi số phận đen tối của đời mình.

* Mị là một cô gái trẻ xinh đẹp, yêu đời, có nhiều phẩm chất tốt đẹp.

– Mị là cô gái HMông trẻ đẹp, có tài thổi sáo: “Trai đến đứng nhẵn cả chân vách đầu buông Mị”, “Mị thổi sáo giỏi, Mị uốn chiếc lá trên môi, thổi lá cũng hay như thổi sáo. Có biết bao nhiêu người mê, ngày đêm đã thổi sáo đi theo Mị”

– Mị là người con hiếu thảo, tự trọng: “Con nay đã biết cuốc nương làm ngô, con phải làm nương ngô giả nợ thay cho bố. Bố đừng bán con cho nhà giàu”.

– Cô yêu thích lao động, không ham giàu sang.

⇒ Bản chất tốt đẹp, hứa hẹn một cuộc đời hạnh phúc.

* Số phận bi thương của nhân vậ Mị.

– Nhà nghèo: Vì món nợ truyền kiếp bố mẹ vay gia đình nhà thống lí Pá Tra nên Mị bị bắt về làm dâu gạt nợ -> Mị là con nợ đồng thời cũng là con dâu nên số phận đã trói buộc Mị đến lúc tàn đời.

– Danh nghĩa là con dâu thực chất là con ở.

+ Bị vắt kiệt sức lao động: “Tết xong thì lên núi hái thuốc phiện, giữa năm thì giặt đay, xe đay, đến mùa thi đi nương bẻ bắp, và dù lúc đi hái củi, lúc bung ngô, lúc nào cũng gài một bó đay trong cánh tay để tước thành sợi”, “Con ngựa con trâu làm còn có lúc, đêm nó còn đứng gãi chân, đứng nhai cỏ, đàn bà con gái nhà này thì vùi vào việc làm cả đêm cả ngày”-> Bị biến thành một thứ công cụ lao động là nỗi cực nhục mà Mị phải chịu đựng.

+ Bị giam hãm về tinh thần (hủ tục): Bị giam cầm trong căn phòng “kín mít, có một chiếc cửa sổ một lỗ vuông bằng bàn tay. Lúc nào trông ra cũng chỉ thấy trăng trắng, không biết là sương hay là nắng”-> Sống với trạng thái gần như đã chết.

+ Bị A Sử đối xử tàn nhẫn.

=> Mị là nạn nhân của cường quyền, thần quyền-> số phận cay đắng tủi nhục của người phụ nữ nông dân miền núi dưới ách của thực dân phong kiến. Sống tăm tối, nhẫn nhục, đau khổ, tê liệt về tinh thần, buông xuôi theo số phận.

* Sức sống tiềm tàng mãnh liệt của nhân vật Mị trong đêm tình mùa xuân:

* Cảnh mùa xuân:

– “Hồng Ngài năm ấy ăn tết giữa lúc gió thổi vào cỏ gianh vàng ửng, gió và rét tất dữ dội. Nhưng trong các làng Mèo Đỏ, những chiếc váy hoa đã đem ra phơi trên mỏm đá xòe như những con bướm sặc sỡ”

– “Đám trẻ đợi tết, chơi quay cười ầm trên sân chơi trước nhà..”

– Mị nghe tiếng sáo gọi bạn “vọng lại thiết tha, bổi hổi”. Mị ngồi nhẩm bài hát của người đang thổi:

“Mày có con trai con gái rồi
Mày đi làm nương
Ta không có con trai con gái
Ta đi tìm người yêu”

* Tâm trạng của Mị trong đêm tình mùa xuân:

– Lúc uống rượu đón xuân:

– “Mị lén lấy hũ rượu, cứ uống ực từng bát”-> Mị đang uống cái đắng cay của phần đời đã qua, uống cái khao khát của phần đời chưa tới. Rượu làm cơ thể và đầu óc Mị say nhưng tâm hồn đã tỉnh lại sau bao ngày câm nín, mụ mị vì bị đày đọa.

– Khi nghe tiếng sáo gọi bạn:

+ Nhớ lại những kỉ niệm ngọt ngào của quá khứ: thổi sáo, thổi lá giỏi, “có biết bao người mê, ngày đêm đã thổi sáo đi theo Mị”

+ “… Mị thấy phơi phới trở lại, trong lòng đột nhiên vui sướng như những đêm Tết ngày trước… Mị muốn đi chơi…”

+ Mị có ý nghĩ lạ lùng mà rất chân thực: “Nếu có nắm lá ngón trong tay lúc này, Mị sẽ ăn cho chết ngay chứ không buồn nhớ lại nữa. Nhớ lại chỉ thấy nước mắt ứa ra”-> Mị đã ý thức được tình cảnh đau xót của mình.

+ Trong đầu Mị vẫn đang rập rờn tiếng sáo:

“Anh ném Pao, em không bắt
Em không yêu quả Pao rơi rồi”.

⇒ Tiếng sáo biểu tượng cho khát vọng tình yêu tự do đã thổi bùng lên ngọn lửa tâm hồn Mị

+ Những sục sôi trong tâm hồn đã thôi thúc Mị có những hành động: “lấy ống mỡ sắn một miếng bỏ thêm vào đĩa dầu”, Mị muốn thắp sáng lên căn phòng vốn bấy lâu chỉ là bóng tối, thắp ánh sáng cho cuộc đời tăm tối của mình. “quấn lại tóc, với tay lấy cái váy hoa vắt ở phía trong vách”. Mị muốn được đi chơi xuân, quên hẳn sự có mặt của A Sử.

– Khi bị A Sử trói đứng:

+ “Trong bóng tối, Mị đứng im lặng, như không biết mình đang bị trói. Hơi rượi còn nồng nàn, Mị vẫn nghe tiếng sáo đưa Mị đi theo những cuộc chơi, những đám chơi…” -> Quên hẳn mình đang bị trói, vẫn thả hồn theo những cuộc chơi, những tiếng sáo gọi bạn tình tha thiết bên tai.

+ “Mị vùng bước đi. Nhưng tay chân đau không cựa được…” -> Khát vọng đi chơi xuân đã bị chặn đứng.

+ “Mị nín khóc, Mị lại bồi hồi (…). Lúc lại nồng nàn tha thiết nhớ (…). Mị lúc mê lúc tỉnh…” -> Tô Hoài đặt sự hồi sinh của Mị vào tình huống bi kịch: khát vọng mãnh liệt – hiện thực phũ phàng, khiến cho sức sống của Mị càng thêm mãnh liệt.

→ Tư tưởng của nhà văn: Sức sống của con người cho dù bị giẫm đạp, trói buộc nhưng vẫn luôn âm ỉ và có cơ hội là bùng lên.

⇒ Giá trị nhân đạo sâu sắc:

+ Khi sức sống tiềm tàng trong con người được hồi sinh thì nó là ngọn lửa không thể dập tắt.

+ Nó tất yếu chuyển thành hành động phản kháng táo bạo, chống lại mọi sự chà đạp, lăng nhục để cứu cuộc đời mình.

* Nghệ thuật:

Tác phẩm khắc họa chân thực tính cách, tâm hồn nhân vật bằng giọng văn nhẹ nhàng, tinh tế, đượm màu sắc và phong vị dân tộc, vừa giàu tính tạo hình vừa giàu chất thơ.

III. Kết bài:

– Mị không chỉ có sức sống tiềm tàng mà còn tiềm ẩn một sức mạnh phản kháng. Đó là vẻ đẹp của người lao động trong hoàn cảnh khốn cùng, bị áp bức bóc lột dã man vẫn không thôi khát vọng sống, khát vọng thay đổi cuộc đời.

– Miêu tả sức sống tiềm tàng của Mị, Tô Hoài đã ngợi ca những phẩm chất tốt đẹp của người phụ nữ miền núi khi họ phải sống dưới ách thống trị hà khắc của bọn lãnh chúa phong kiến miền núi trong xã hội thực dân phong kiến ngày xưa.

– Qua đó, nhà văn nhấn mạnh chân lí của cuộc sống: ở đâu có áp bức, ở đó có đấu tranh, dù sự đấu tranh đó vùng lên tự phát như Mị. Tư tưởng nhân đạo của nhà văn toát lên ở đó,…


Phân tích giá trị hiện thực, giá trị nhân đạo trong tác phẩm “Vợ chồng A Phủ” của Tô Hoài

  • Mở bài:

Tây Bắc là tập truyện ngắn của Tô Hoài được nhận Giải thưởng của Hội Văn học – Nghệ thuật 1954 – 1955. Trong tập Tây Bắc. “Vợ chồng A Phủ” truyện ngắn đặc sắc hơn cả. Thông qua cuộc đời và số phận của Mị và A Phủ, nhà văn dựng lại quãng đời tăm tối, đau khổ của người dân miền núi trước Cách mạng, nêu cao khát vọng sống và vạch ra con đường giải phóng cho họ. Đó chính là giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo cúa tác phẩm.

  • Thân bài:

Cuộc đời của Mị và A Phủ có hai giai đoạn gắn với hai cảnh đời sáng – tối đối chọi nhau. Giai đoạn đầu khi ở Hồng Ngài, Mị và A Phủ đều là nô lệ cho nhà thống lí Pá Tra. Đó là quãng đời tăm tối, bị đối xử như con trâu, con ngựa. Giai đoạn sau, khi ở Phiềng Sa là một cuộc sống khác hẳn, Mị và A Phủ đã đổi đời, đứng lên chiến đấu đê bảo vệ mình, bảo vệ đất nước. Như vậy, phản ánh hiện thực, tác phẩm Vợ chồng A Phủ đã chọn hai đề tài chính: đề tài về cuộc sống bị áp bức, tủi nhục của người dân miền núi dưới chế độ nô lệ thực dân và cùng với nó là bộ mặt tàn bạo của bọn “thổ ti lang đạo” cuối cùng là đề tài về sự thức tỉnh của đồng bào các dân tộc vùng cao Tây Bắc vùng dậy chiến đấu để giải phóng và tự giải phóng.

Trước hết, Vợ chồng A Phủ là một bức tranh chân thực về số phận bi thảm của người dân nghèo miền núi dưới ách áp bức của bọn chúa đất phong kiến thực dân được phản ánh qua cuộc đời Mị và A Phủ.

Mị là một có gái trẻ đẹp, giàu lòng yêu đời, chăm chỉ và hiếu thảo. Mị đã từng được yêu và có những đêm tình mùa xuân hạnh phúc. Nhưng vì món nợ truyền kiếp của cha mẹ mà Mị bị cướp về làm con dâu gạt nợ cho nhà thống lí Pá Tra. Mị bị biến thành nông nô, bị chà đạp cả về nhân phẩm lẫn thể xác. Quãng đời sống trong nhà thống lí là một quãng đời đau thương, tăm tối, áp bức nặng nề đã biến một cô gái hồn nhiên, đa cảm thành hiện thân của nhẫn nhục, cam chịu. Mị sống câm lặng lầm lũi, quanh năm vùi đầu vào những công việc khổ sai. Mị còn bị ràng buộc bởi mê tín thần quyền. Một khi đã đem ra “cúng trình ma” thì người đàn bà phải tuân theo sự trói buộc vô hình suốt cả một đời. Cho nên, biết khố, biết nhục, biết mình bị đày đọa nhưng không dám phán kháng chống lại sự đày đọa khổ nhục ấy. Hơn nữa, những con người như Mị thật bé nhỏ trước thế lực tàn bạo của cường quyền. Bị giam hãm trong “địa ngục trần gian’’ của nhà thống lí Pá Tra, Mị chết mòn theo ngày tháng, Mị “lúc nào cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi”, “lùi lũi như như con rùa nuôi trong xó cửa”. Bị cầm tù trong ngục thất tinh thần, Mị không còn nhớ đến cả tuổi của mình nữa, Mị đang bị tê liệt dần cả về cảm xúc, ý thức, tâm hồn, tình cảm. Cái ác của bọn thống trị là không những bóc lột -. đày đọa con người về vật chất, thể xác mà còn giết chết dần ở con người những giá trị nhân bản tốt đẹp. Con người bị biến thành công cụ, thành những con vật chịu sự sai khiến.

Mị và A Phủ đều là nô lệ trong nhà thống lí. Nhưng con đường đến nhà thống lí thì mỗi người một kiểu. Mị vì món nợ truyền kiếp mà phải thành nô lệ còn A Phủ vốn không nợ nần gì nhà thống lí nhưng cũng không thoát được, cũng rơi vào cảnh nô lệ. A Phủ là một thanh niên nghèo suốt đời làm thuê, làm mướn. Cha mẹ chết trong một trận dịch đậu mùa. Chính cuộc sống cùng khổ ấy đã hun đúc ở A Phủ mộ sức sống mạnh mẽ, lòng ham chuộng tự do và một tính cách gan góc của người lao động đáng quý. A Phủ là đứa con của núi rừng, hồn nhiên chỉ vì dám đánh con quan mà bị bắt, bị đánh đập tàn nhản, bị phạt và trở thành nô lệ cho nhà thống lí. Cuộc đời A Phủ và cảnh xử kiện lạ lùng đã mở ra một khía cạnh khác trong giá trị hiện thực của tác phẩm: xã hội phong kiến miền núi trước cách mạng, chân lí, lẽ phái bao giờ thuộc về “con quan”, thuộc về kẻ giàu, kẻ mạnh; kẻ thống trị. Người nghèo kháng lại sự bất công thì bị đánh đập, bị tước quyền tự do, bị biến thành nô lệ không chi suốt đời mà đời con đời cháu cũng không thoát được Hơn nữa, hủ tục nặng nề ngàn đời là hiện thực phản ánh áp bức kiểu trung cổ miền núi. Hủ tục đó đã đẩy biết bao người nghèo vào thảm cảnh của sự cùng cực đói khổ. Những hủ tục ấy vừa tiếp tay vừa là cóng cụ cho bọn phong kiến thống trị người dân, chà đạp lên nhân phẩm của họ. Việc A Phủ bị bắt làm nô lệ nhà thống lí Pá Tra càng tăng thêm sức tố cáo của tác phẩm.

Hết ngày này qua ngày khác, A Phủ phải làm việc cật lực, chăn dắt đàn bò, hàng mấy chục con. Chắng may một con bò bị hổ vồ mất, A Phủ bị đánh trói vào cột chờ chết. Trong tay bọn thống trị, tính mạng con người thật bằng một con vật.

Cuộc đời nô lệ khổ đau của Mị và A Phủ là điển hình cho thân phận người ngheo miền núi dưới chế độ cũ. Bần cùng hóa con người, chà đạp lên nhân phẩm đối xử với con người không bằng con vật, đó là bản chất cùa chế độ “thổ ti lang đạo”.

Giá trị hiện thực của tác phẩm còn thể hiện trong những nội dung miêu tá cảnh tàn bạo của bọn chúa đất phong kiến và bè lũ thực dân. Điều này được thể hiện sâu sắc qua hình ảnh cha con thống lí Pá Tra trong mối quan hệ với Mị và A Phủ.

Nhà Pá Tra giàu có. nhiều nương, nhiều bạc, nhiều thuôc phiện. Hắn làm giàu bằng việc bóc lột sức lao động, bằng chế độ lao dịch, bằng cho vay lãi nặng rồi bắt người ta để trừ nợ. Cha con thống lí còn rất nhẫn tâm. Tô hoài đã rất nhiều lần nói tới cảnh đánh người, trói người của Pá Tra và A Sử bằng những chi tiết rất thực:” A Sử lầm lì trói đứng Mị vào cột nhà, tóc Mị xõa xuống, A Sử cuốn luôn tóc lên cột rồi y tắt đèn, đóng cửa lại.” Cái kĩ càng rành rẽ trong hành độngbiểu hiện sự tàn ác tới thản nhiên của A Sử. Mị phải thức suốt đên xoa thuốc dấu cho A Sử, mỗi lần buồn ngủ quá thiếp đi “ A Sử bèn đạp chân vào mặt Mị”, Thống lí Pá Tra thì quyết định trói A Phủ cho tới chết , mà trói như thế nào? A Phủ bị trói từ trân lên tận đầu. Không chỉ tàn ác thản nhiên chúg còn hại nước cấu kết với thực dân làm giàu để áp bức bóc lột người dân. Dưới thời phong kiến thực dân bọn lang đạo chúa đất ở vùng cao mặc sức làm mưa làm gió.

Phản ánh hiện thực khốn khổ của nhân dân Tây Bắc, Tô Hoài không tô vẽ không nói quá sự thật. Tất cả đều được hiện lên như một bức tranh chân thực sống động. Tài năng và cũng là đóng góp của Tô Hoài là đã làm cho bức tranh hiện thực về miền núi cao Tây Bắc trở nên hết sức phong phú với những chi tiết phong phú và sinh động về cuộc sống con người. Đó là vì Tô hoài có một thời gian đi thực tế và cũng ăn cùng sống với nhân dân nên mới có một vốn sống thực tế đáng quí như thế.

Khi viết về đồng bào Tây Bắc, ngòi bút Tô Hoài thể hiện một tinh thần nhân đạo rõ rệt. Nhà văn cảm thông sâu sắc với những kiếp người trâu ngựa như Mị và A Phủ, đứng về phía họ để phản ánh, đấu tranh. Nhưng sâu sắc hơn cả là nhà văn đã phát hiện được những phẩm chất đáng quí- đó là sức sống là khát vọng tự do vẫn âm ỉ trong đáy sâu tâm hồn của những con người nô lệ như Mị. Cái sức sống tiềm tàng ấy cùng với khát vọng mãnh liệt ấy khi có cơ hội sẽ bừng lên. Cách nhìn của nhà văn trong tác phẩm hết sức nhân bản. Tác giả đã dồn bút lực tập trung khắc họa diễn biến tâm lí hồi sinh của Mị. Đó là vào một đêm tình mùa xuân” Mị lén lấy hũ rượu uống ừng ực từng bát một”. Mị sống với quá khứ tuổi xuân của mình” trong đầu Mị rập rờn những tiếng sáo đưa Mị đi theo những cuộc chơi”.” Mị thấy phơi phới trở lại”.” Mị còn trẻ, Mị vẫn còn trẻ lắm, Mị muốn đi chơi”. Giữa lúc lòng ham muốn trỗi dậy mãnh liệt nhất, A Sử đã phũ phàng dập tắt. Những những giây phút trỗi dậy ấy có ý nghĩa thức tỉnh để dẫn tới hành động cắt dây trói giải cứu A Phủ ở đoạn tiếp đó.

Trước cảnh A Phủ bị trói, bắt gặp “dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại” Mị thốt lên trong lòng ”Trời ơi! Nó bắt trói người ta đến chết. Chúng nó thật độc ác giọt nước mắt tuyệt vọng của A Phủ đã đánh thức tình thương trắc ẩn của Mị, cùng với những phản kháng âm ỉ đã dẫn Mị tới hành động táo bạo: cắt dây trói cứu A Phủ và vùng chạy theo A Phủ. Đây là hành động cứu người và tự cứu mình của Mị.

Nhà văn đã rất thấu hiểu nỗi khổ của người dân miền núi, từ đó thấy được sự thức tỉnh, sự vùng dậy của họ, trước hết là thoát khỏi dây trói của cường quyền và thần quyền. Rồi họ dừng lại ở Phiềng Sa, thành vợ chồng và đi theo cách mạng.

Quá trình giác ngộ cách mạng của vợ chồng A Phủ. Tiêu biểu cho con đường đến với Đảng, đến với cách mạng của đồng bào các dân tộc ít người ở miền núi Tây Bắc. Tô Hoài khi tái hiện bức tranh hiện thực với những nét bản chất của nó, không thể không miêu tả quá trình vận động mang tính qui luật của cuộc sống. Đây cũng là giá trị nhân đạo và tiến bộ của Vợ chồng A Phủ.

Bên cạnh giá trị nhân đạo sâu sắc, tác phẩm còn mang đậm giá trị nghệ thuật. Tác phẩm khắc họa chân thực những nét riêng biệt về phong tục, tập quán, tính cách và tâm hồn con người dân tộc bằng một giọng văn nhẹ nhàng, tinh tế, đượm màu sắc và phong vị dân tộc, vừa giàu tính tạo hình vừa giàu chất thơ.

  • Kết bài:

Có thể nói, tác phẩm “Vợ chồng A Phủ” là một tác phẩm mang giá trị nhân đạo sâu sắc. Tác phẩm đã lên tiếng tố cáo những thế lực xấu xa, đồng thời thể hiện tiếng nói thông cảm, trân trọng và đồng tình dành cho khát vọng tự do, sức sống tiềm tàng của nhân vật Mị và A Phủ.

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Lên đầu trang