Phân tích nghệ thuật xây dựng tình huống truyện độc đáo trong Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân

tinh-huong-truyen-doc-dao-trong-chu-nguoi-tu-tu-cua-nguyen-tuan

Phân tích nghệ thuật xây dựng tình huống truyện độc đáo trong “Chữ người tử tù” của Nguyễn Tuân

  • Mở bài:

Nguyễn Tuân là nhà văn tiêu biểu của nền văn học Việt nam thế kỷ XX. Ông có vị trí quan trọng và đóng góp lớn cho nền văn học Việt Nam hiện đại. Sáng tá của Nguyễn Tuân có vai trò thúc đẩy thể tùy bút, bút kí đạt tới trình độ nghệ thuật cao, làm phong phú thêm ngôn ngữ văn học dân tộc, đem đến cho nền văn xuôi hiện đại một phong cách tài hoa, độc đáo hiếm có. Truyện ngắn Chữ người tử tù là kiệt tác văn học của Nguyễn Tuân. Thành công đầu tiên của tác phẩm chính là ở việc nhà văn đã xây dựng được một tình huống truyện độc đáo, bất ngờ, éo le và ngang trái.

  • Thân bài:

Tình huống truyện là cái hoàn cảnh riêng được tạo nên bởi một sự kiện đặc biệt trong truyện khiến tại đó, cuộc sống hiện lên đậm đặc nhất và ý đồ tư tưởng của tác giả cũng được bộc lộ sắc nét nhất. Từ tình huống truyện, các sự kiện, biến cố của cốt truyện được phát triển. Qua tình huống truyện, tính cách nhân vật được bộc lộ rõ nét. Việc giải quyết những mâu thuẫn, xung đột trong tình huống truyện sẽ bộc lộ rõ tư tưởng chủ đề của tác phẩm và dụng ý nghệ thuật của tác giả. Sáng tạo nên các tình huống độc đáo biểu hiện khả năng quan sát, khám phá bản chất cuộc sống, bản chất con người của nhà văn.

Tình huống truyện trong “Chữ người tử tù” là cuộc gặp gỡ giữa Huấn Cao và Quản ngục. Không gian ở đây là nhà tù, nơi chứa đựng những cái xấu xa, tăm tối, những cặn bã của xã hội. Thời gian là những ngày cuối cùng của cuộc đời Huấn Cao trước khi ông phải ra pháp trường chịu án chém. Huấn Cao là kẻ cầm đầu những người phiến loạn chống lại triều đình mục nát, bị triều đình kết tội là “giặc” và bị xử án chém. Ông nổi tiếng có tài viết chữ đẹp. Quản ngục là viên quan của triều đình, đại diện cho bộ máy cai trị của chính triều đình mục nát ấy. Ông là người thiện lương, luôn khao khát được thưởng thức chữ đẹp ở trên đời.

Cuộc hội ngộ giữa Huấn Cao và Quản ngục chính là do trời định. Lúc đầu, khi viên quản ngục nhận phiến trát thứ nhất, biết được Huấn Cao là người viết chữ đẹp, trong lòng bần thần. Từ lâu đã ao ước có được chữ ông Huấn. Ông có “một tấm lòng biệt nhỡn liên tài”, vừa muốn biệt đãi, vừa muốn xin chữ Huấn Cao.  Huấn Cao là người có tài viết chữ đẹp.Song lại “khoảnh”, nghĩa là rất khí khái. Ông chỉ cho chữ người nào là tri kỉ. Huấn Cao có thái độ khinh bỉ, miệt thị Viên quản ngục không cần giấu giếm, vì ông chỉ coi Viên quản ngục là một kẻ tiểu nhân làm nghề thất đức. Thản nhiên nhận những biệt đãi như một thú bình sinh. Như vậy, mối quan hệ giữa Huấn Cao và Viên quản ngục không những không phải là tri kỉ mà  với thái độ đối nghịch của Huấn Cao đã tạo ra một vực sâu ngăn cách giữa họ.

Sau đó, khi viên quản ngục nhận phiến trát thứ hai. Nhận thức được con người cao quý mà ông cảm phục, ngưỡng mộ đã không thoát khỏi được cái chết và thế là ông sẽ chẳng bao giờ có được chữ của Huấn Cao. Tình thế ấy buộc ông phải bày tỏ tất cả những tâm sự sâu kín trong lòng, niềm ao ước thầm lặng mà lớn lao: có được chữ ông Huấn. Còn về Huấn Cao, khi biết được tấm lòng của viên Quản ngục, Huấn cao xúc động và có phần ân hận: “Ta cảm cái tấm lòng biệt nhỡn liên tài của các người. Nào ta có biết một người như thầy Quản đây lại có sở nguyện cao quý như vậy. Thiếu chút nữa ta đã phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ”. Như vậy, mối quan hệ giữa Huấn Cao và Viên quản ngục có sự thay đổi lớn. Tấm lòng chân thành và thuần khiết của viên quản ngục đã xoá bỏ hoàn toàn vực sâu ngăn cách giữa hai nhân cách ấy.

Cuối cùng, Huấn Cao quyết định cho Viên quản ngục chữ. Thời gian diễn ra vào lúc nửa đêm đêm cuối cùng trong cuộc đời của người tử tù Huấn Cao. Không gian là nhà tù tối, chật hẹp, ẩm ướt, tường đầy mạng nhện, đất bừa bãi phân chuột, phân gián. Hình ảnh tối tăm, nhơ bẩn tượng trung cho cái phàm tục và tội ác. Ngọn đuốc đỏ rực, tấm lụa trắng tinh, mùi mực thơm là tượng trung cho ánh sáng, cái thiện, cái đẹp, sự tinh khiết. Ở đây, ánh sáng, cái thiện, cái đẹp đã chiến thắng, vượt lên trên bóng tối, cái ác, cái xấu.

Người cho chữ là người tử tù cổ đeo gông, chân vướng xiềng nhưng luôn ở tư thế bề trên, uy nghi lồng lộng. Người xin chữ là kẻ có quyền nhưng khúm núm, run run, kính cẩn, trọng vọng người tù. Nguyễn Tuân gọi đây là cảnh tượng xưa nay chưa từng có, vì cho chữ là thú chơi tao nhã của người có văn hóa. Nó diễn ra ở chốn thư phòng, không gian thoáng đãng. Người sáng tạo cái đẹp phải ở trong một tư thế thoải mái về thể xác lẫn tinh thần. Thế mà, giờ đây, hoàn toàn không phải là như vậy. Ở đây, ánh sáng, cái đẹp, cái thiện, cái cao cả đã chiến thắng bóng tối, cái xấu, cái ác, cái thấp hèn. Có những con người sống trong cái ác nhưng vẫn hướng tới cái thiện. Tình huống cho chữ thể hiện niềm tin vào con người của nhà văn Nguyễn Tuân.

Sau khi cho chữ, Huấn Cao còn khuyên viên quản ngục: “Nên thay chốn ở; nên tìm về nhà quê mà ở, hãy thoát khỏi cái nghề này. Ở đây khó giữ thiên lương; rồi cũng nhem nhuốc cả đời lương thiện. Lời khuyên của Huấn Cao khẳng định cái đẹp gắn liền với cái thiện; cái đẹp có thể sinh ra từ cái ác nhưng không thể sống cùng với cái ác. Cái đẹp có thể cứu vớt một con người. Như vậy, mối quan hệ giữa Huấn Cao và Viên quản ngục lúc này là tri âm, tri kỉ.

Đây là cuộc gặp gỡ bất ngờ và đầy éo le là bởi xét ở bình diện xã hội: họ là hai kẻ đối nghịch. Xét ở bình diện nghệ thuật: họ lại là tri kỉ, tri âm, là những tâm hồn khao khát cái đẹp. Hơn nữa nhà tù không phải là nơi dành cho những cuộc gặp gỡ. Đây là cuộc gặp gỡ đầy ngang trái là vì đó là cuộc gặp gỡ giữa hai loại tù nhân. Huấn Cao là tử tù. Ông bị cầm tù về thân thể nhưng luôn tự do về nhân cách, tâm hồn. Quản ngục là kẻ bị tù chung thân. Ông tự do về thân thể nhưng lại bị cầm tù về nhân cách. Đó còn là cuộc đối chứng giữa hai thứ nhà tù. Huấn Cao bị cầm tù trong cái nhà tù hữu hình. Quản ngục bị cầm tù trong cái nhà tù vô hình.

Tình huống trong truyện bộc lộ tính cách nhân vật. Nhân vật Huấn Cao có cơ hội bộc lộ rõ những phẩm chất cao đẹp: vừa hiên ngang, dũng liệt vừa tài hoa nghệ sĩ lại giữ được cái tâm trong sáng. Qua nhân vật Huấn Cao, nhà văn Nguyễn Tuân bày tỏ thái độ tiếc nuối cái đẹp và gửi gắm: hãy biết quí trọng cái đẹp; ca ngợi, kính trọng những con người chiến đấu hi sinh cho nghĩa lớn; ca ngợi nhân cách cao đẹp dù trong hoàn cảnh nào cũng không bị khuất phục. Cái đẹp có khả năng cảm hóa con người, làm cho người gần người hơn.

Viên quản ngục, qua tình huống éo le ấy, cũng thể hiện mình là một người có khí phách, biết “biệt nhỡn liên tài”, trân trọng tài năng và khí phách của người anh hùng đồng thời là người vẫn giữ được thiên lương trong sáng. Qua nhân vật viên Quản ngục, nhà văn Nguyễn Tuân gửi gắm: trong mỗi con người đều có một người nghệ sĩ, đều ẩn chứa một tâm hồn yêu cái đẹp, cái tài. Không phải ai cũng xấu hết, bên cạnh những cái chưa tốt, mỗi con người còn có thiên lương. Có khi, có lúc cái đẹp tồn tại trong môi trường cái ác, cái xấu. Nhưng không vì thế mà nó lụi tàn, trái lại nó càng mạnh mẽ và bền bĩ. Nó như hoa sen mọc trong đầm lầy vậy.

Tình huống truyện thúc đẩy cốt truyện phát triển (tạo không khí căng thẳng, lôi cuốn). Từ tình huống truyện, cốt truyện được triển khai, phát triển và lên đến cao trào trong cảnh cho chữ cuối tác phẩm. Chính tình huống độc đáo đã tạo cho câu chuyện sự lôi cuốn, hấp dẫn người đọc ngay từ đầu tác phẩm. Tình huống truyện cũng thể hiện tư tưởng, chủ đề tác phẩm: Khẳng định sự bất tử của cái đẹp, sự tất thắng của cái chân, cái thiện, cái mĩ trong cuộc đối đầu với những gì xấu xa, tăm tối, độc ác. Thông điệp nghệ thuật mà nhà văn gửi gắm qua tình huống truyện là thông điệp về sức mạnh cảm hóa kì diệu của nghệ thuật, của cái đẹp “Cái đẹp cứu rỗi nhân loại”. Tình huống truyện thể hiện rõ nét phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân: một người nghệ sĩ tài hoa, đầy cá tính, luôn tìm tòi, khám phá cái đẹp, cái đẹp độc đáo, phi thường nhưng vẫn mang giá trị nhân văn sâu sắc.

  • Kết bài:

Tình huống ấy chứa đựng một quan niệm sâu sắc: Cái đẹp là bất diệt. Dù thực tại có hắc ám, tăm tối và bế tắc đến đâu cũng không tiêu diệt được cái Đẹp. Nó mãi mãi là một lí tưởng nhân văn cao cả của cõi người này. Tình huống như thế cũng chứa đựng một niềm tin mãnh liệt, rằng: Cái đẹp sẽ làm cho cuộc đời này trong sáng hơn, cái Đẹp dẫn dắt con người hướng heo ánh sáng của nó…

1 Trackbacks / Pingbacks

  1. Chữ người tử tù (Nguyễn Tuân) (Bài 1, Ngữ văn 10, tập 1, Kết Nối Tri Thức) - Theki.vn

Để lại một phản hồi

Thư điện tử của bạn sẽ không được hiện thị công khai.