Cảm nhận về vẻ đẹp tình người trong những năm chiến tranh qua hai tác phẩm Chiếc lược ngà và Những ngôi sao xa xôi.

cam-nhan-ve-ve-dep-tinh-nguoi-trong-nhung-nam-chien-tranh-qua-hai-tac-phamchiec-luoc-nga-va-nhung-ngoi-sao-xa-xoi

Cảm nhận về vẻ đẹp tình người trong những năm chiến tranh qua hai tác phẩm Chiếc lược ngà Những ngôi sao xa xôi.

 

Vẻ đẹp tình cha con thiêng liêng, bất diệt trong truyện ngắn Chiếc lược ngà.

Có câu nói: “Những tình cảm đẹp sẽ là động lực mạnh mẽ trong tâm hồn mỗi người! ” Vì lòng yêu cha, một cô bé nhỏ mới tám tuổi nhưng nhất quyết không nhận người khác làm bố, cho dù bị đánh. Vì lòng thương con,một người chiến sỹ dù ở sa trường vẫn luôn cặm cụi làm một chiếc lược để tặng đứa con gái bé bỏng. Có người nhận xét rằng “tình phụ tử không thể ấm áp và đẹp đẽ như tình mẫu tử”. Song nếu đọc truyện ngắn Chiếc lược ngà của Nguyễn Quang Sáng , có thể bạn sẽ phải có cái nhìn khác mới mẻ và chân thực hơn.

Câu truyện xoay quanh tình huống gặp mặt của bé Thu và ông Sáu. Khi ông Sáu đi kháng chiên chống Pháp,lúc đó bé Thu chưa đầy một tuổi. Khi ông có dịp thăm nhà thì con gái đã lên 8 tuổi. Song bé Thu lại không chịu nhận cha vì vết thẹo trên má làm ông Sáu không giống như bức ảnh chụp chung với má. Trong ba ngày ở nhà, ông Sáu dùng mọi cách để gần gũi nhưng con bé vẫn không chịu gọi một tiếng “Ba”. Đến khi bé Thu nhận ra cha mình thì cũng là khi ông Sáu phải ra đi. Ông hứa sẽ mang về tặng con một cái lược ngà. Những ngày chiến đầu trong rừng, ông cặm cụi làm chiếc lược cho con gái. Chiếc lược làm xong chưa kịp trao cho con gái thì ông đã hi sinh. Trước khi nhắm mắt ông chỉ kịp trao cây lược cho người bạn nhờ chuyển lại cho con mình.

Hình ảnh bé Thu là nhân vật trọng tâm của câu chuyện, được tác giả khắc họa hết sức tinh tế và nhạy bén, là một cô bé giàu cá tính, bướng bỉnh và gan góc. Bé Thu gây ấn tượng cho người đọc về một cô bé dường như lì lợm đến ghê gớm, khi mà trong mọi tình huống em cũng nhất quyết không gọi tiếng “Ba”, hay khi hất cái trứng mà ông Sáu gắp cho xuống, cuối cùng khi ông Sáu tức giận đánh một cái thì bỏ về nhà bà ngoại. Nguyễn Quang Sáng đã khéo léo xây dựng nhiều tình huống thử thách cá tính của bé Thu, nhưng điều khiến người đọc phải bất ngờ là sự nhất quán trong tính cách của bé, dù là bị mẹ quơ đũa dọa đánh, dù là bị dồn vào thế bí, dù là bị ông Sáu đánh,bé Thu luôn bộc lộ một con người kiên quyết, mạng mẽ.

Có người cho rằng tác giả đã xây dựng tính cách bé Thu hơi “thái quá”, song thiết nghĩ chính thái độ ngang ngạnh đó lại là biểu hiện vô cùng đẹp đẽ mà đứa con dành cho người cha yêu quý. Trong tâm trí bé Thu chỉ có duy nhất hình ảnh của một người cha “chụp chung trong bức ảnh với má”. Người cha ấy không giống ông Sáu, không phải bởi thời gian đã làm ông Sáu già đi mà do cái thẹo trên má. Vết thẹo, dấu tích của chiến tranh đã hằn sâu làm biến dạng khuôn mặt ông Sáu. Có lẽ trong hoàn cảnh xa cách và trắc trở của chiến tranh, nó còn quá bé để có thể biết đến sự khốc liệt của bom lửa đạn, biết đến cái cay xè của mùi thuốc súng và sự khắc nghiệt của cuộc sống người chiến sỹ. Cái cảm giác đó không đơn thuần là sự bướng bỉnh của một cô bé đỏng đảnh, nhiễu sách mà là sự kiên định, thẳng thắn, có lập trường bền chặt, bộc lộ phần nào đó tính cách cứng cỏi ngoan cường của cô giao liên giải phóng sau này.

Nhưng xét cho cùng, cô bé ấy có bướng bỉnh, gan góc, tình cảm có sâu sắc, mạnh mẽ thế nào thì Thu vẫn chỉ là một đứa trẻ mới 8 tuổi, với tất cả nét hồn nhiên, ngây thơ của con trẻ. Nhà văn tỏ ra rất am hiểu tâm lý của trẻ thơ và diễn tả rất sinh động với tấm lòng yêu mến và trân trọng một cách đẹp đẽ, thiêng liêng những tâm tư tình cảm vô giá ấy. Khi bị ba đánh, bé Thu “cầm đũa gắp lại cái trứng cá để vào chén rồi lặng lẽ đứng dậy, bước ra khỏi mâm”. Có cảm giác bé Thu sợ ông Sáu sẽ nhìn thấy những giot nước mắt trong chính tâm tư của mình? Hay bé Thu dường như lờ mờ nhận ra mình có lỗi? Lại một loạt hành động tiếp theo “xuống bến nó nhảy xuống xuồng,mở lòi tói,cố làm cho dây lòi tói khua rổn rang, khua thật to, rồi lấy dầm bơi qua sông”.

Bé Thu bỏ đi lúc bữa cơm nhưng lại có ý tạo tiếng động gây sự chú ý. Có lẽ co bé muốn mọi người trong nhà biết bé sắp đi, mà chạy ra vỗ về, dỗ dành.Có một sự đối lập trong những hành động của bé Thu, giữa một bên là sự cứng cỏi, già giặn hơn tuổi, nhưng ở khía cạnh khác cô bé vẫn mong được yêu quý vỗ về. Song khi “chiều đó, mẹ nó sang dỗ dành mấy nó cũng không chịu về”, cái cá tính cố chấp một cách trẻ con của bé Thu được tác giả khắc họa vừa gần gũi, vừa tinh tế. Dù như thế thì bé Thu vẫn chỉ là một đứa trẻ 8 tuổi hồn nhiên,dẫu có vẻ như cứng rắn và mạnh mẽ trước tuổi.

Khi đến ngày ông Sáu phải đi, con bé cứng cỏi mạnh mẽ ngày hôm nào lại “như thể bị bỏ rơi”, ”lúc đứng ở góc nhà, lúc đứng tựa cửa và cứ nhìn mọi người vây quanh ba nó, dường như nó thèm khát cái sự ấm áp của tình cảm gia đình, nó cũng muốn chạy lại và ôm hôn cha nó lắm chứ, nhưng lại có cái gì chặn ngang cổ họng nó, làm nó cứ đứng nguyên ở ấy, ước mong cha nó sẽ nhận ra sự có mặt của nó. Và rồi đến khi cha nó chào nó trước khi đi, có cảm giác mọi tình cảm trong lòng bé Thu bỗng trào dâng. Nó không nén nổi tình cảm như trước đây nữa, nó bỗng kêu hét lên “Ba…”,” vừa kêu vừa chạy xô đến nhanh như một con sóc, nó chạy thót lên và dang hai tay ôm chặt lấy cổ ba nó”, ”Nó hôn ba nó cùng khắp. Nó hôn tóc, hôn cổ, hôn vai, hôn cả vết thẹo dài trên má của ba nó nữa”.

Tiếng kêu “Ba” từ sâu thẳm trái tim bé Thu, tiếng gọi mà ba nó đã dùng mọi cách để ép nó gọi trong mấy ngày qua,tiếng gọi ba gần gũi lần đầu tiên trong đời nó như thể nó là đứa trẻ mới bi bô tập nói, tiếng gọi mà ba nó tha thiết được nghe một lần. Bao nhiêu mơ ước, khao khát như muốn vỡ òa ra trong một tiếng gọi cha. Tiếng gọi ấy không chỉ khiến ba nó bật khóc mà còn mang một giá trị thiêng liêng với nó.Lần đầu tiên nó cảm nhận mơ hồ về niềm sung sướng của một đứa con có cha. Dường như bé Thu đã lớn lên trong đầu óc non nớt của nó. Ngòi bút nhà văn khẳng định một nhân vật giảu tình cảm, có cá tính mạnh mẽ,kiên quyết nhưng vẫn hồn nhiên, ngây thơ: Nhân vật bé Thu.

Không chỉ khắc họa thành công nhân vật bé Thu, truyện ngắn Chiếc lược ngà ca ngợi tình cha con sâu đậm mà đẹp đẽ. Bên cạnh hình ảnh bé Thu, hình ảnh ông Sáu được giới thiệu là người lính chiến tranh, vì nhiệm vụ cao cả mà phải tham gia chiến đấu, bỏ lại gia đình, quê hương; và đặc biệt ông là người yêu con tha thiết. Sau ngần ấy năm tham gia kháng chiến, ông Sáu vẫn luôn nung nấu khao khát cháy bỏng là được gặp con và nghe con gọi một tiếng cha. Nhưng cái ngày gặp lại con thì lại nảy sinh một nỗi éo le là bé Thu không nhận cha. Ông Sáu càng muốn gần gũi thì dường như sự lạnh lùng, bướng bỉnh của con bé làm tổn thương những tình cảm da diết nhất trong lòng ông. Còn gì đau đớn hơn một người cha giàu lòng thương con mà bị chính đứa con gái ấy từ chối.

Có thể coi việc bé Thu hất cái trứng ra khỏi chén như một ngòi nổ làm bùng lên những tình cảm mà bấy lâu nay ông dồn nén,chứa chất trong lòng. Có lẽ ông biết rằng mình cũng không đúng vì suốt bảy năm trời chẳng thể về thăm con,chẳng làm gì được cho con, nên nhân những ngày này ông muốn bù đắp cho con phần nào. Giá gì không có cái bi kịch ấy, giá gì bé Thu nhận ra ông Sáu sớm hơn, thì có thể ông Sáu và bé Thu sẽ có nhiều thời gian vui vẻ, hạnh phúc. Nhưng sợ rằng một câu truyện như vậy sẽ chẳng thể gây được cảm động cho người đọc với những xúc cảm khác nhau, có lúc dồn nén, có lúc lại thương xót,có lúc lại “mừng mừng tủi tủi” cho ông Sáu khi mà bé Thu cất tiếng gọi “Ba”, tiếng gọi muộn màng nhưng lại có ý nghĩa đẹp đẽ!

Ai có thể ngờ được một người lính dạn dày nơi chiến trường, quen với cái chết cận kề lại là người vô cùng yếu mền trước con gái mình. Những giọt nước mắt hiếm hoi của một cuộc đời từng trải nhiều gian khổ vất vả, song lại rơi khi lần đầu tiên ông cảm nhận được sự ấm áp của cha con thực sự! (“Không ghìm được xúc động và không muôn cho con thấy mình khóc,anh Sáu một tày ôm con,một tay rút khăn lau nước mắt”). “Ba về! Ba mua cho con một cây lược nghe ba!”, đó là mong ước đơn sơ của con gái bé bỏng trong giây pút cha con từ biệt. Nhưng đối với người cha thì đó là mơ ước đầu tiên và duy nhất,cho nên nó cứ thôi thúc trong lòng ông.

Tình cảm ông Sáu dành cho bé Thu trở nên thiêng liêng,cao cả và mãnh liệt hơn biết bao khi ông tự tay làm chiếc lược ngà cho con. “Khi ông Sáu tùm được khúc ngà sung sướng như trẻ con vớ được quà”, ” Ông thận trọng tỉ mỉ…”, ”Ông gò lưng khắc từng nét…”. Một loạt hành động cảm động như khẳng định tình cha con sâu đậm. Tất cả tình yêu, nỗi nhớ con dồn cả vào công việc làm chiếc lược ấy. Ông nâng niu chiếc lược như nâng niu đứa con bé nhỏ của mình. Lòng yêu con đã biến một người chiến sỹ trở thành một nghệ nhân sáng tạo tài tình, dù chỉ sáng tạo môt tác phẩm duy nhất trong đời. Cuối truyện có chi tiết ông Sáu đưa tay vào túi, móc lấy cây lược, đưa cho bác Ba và nhìn một hồi lâu. Ông Sáu hi sinh mà không kịp trăn trối điều gì, chỉ có một ánh mắt với niềm ước nguyện cháy bỏng mong người bạn của mình sẽ là người thực hiện nốt lời hứa duy nhất của mình với con. Tình cảm của ông sáu khiến người ta phải thấy ấm lòng và cảm động sâu sắc.

Người mất, người còn nhưng kỷ vật duy nhất, gạch nối giữa cái mất mát và sự tồn tại, chiếc lược ngà vẫn còn ở đây. Chiếc lược ngà là kết tinh tình phụ tử mộc mạc, đơn sơ mà đằm thắm, kỳ diệu, là hiện hữu của tình cha con bất tử giữa ông Sáu và bé Thu; và là minh chứng chứng kiến lòng yêu thương vô bờ bến của ông Sáu với con. Có thể chiếc lược ấy chưa chải được mái tóc của bé Thu nhưng lại gỡ rối được tâm trạng của ông. Chiếc lược ngà xuất hiện đánh dấu một kết cấu vòng tròn cho câu chuyện,và cũng là bài ca đẹp tồn tại vĩnh cửu của tình cha con.

Cái mất mát lớn nhất mà thiên truyện ngắn đề cập là những người đã khuất, là tổ ấm gia đình không còn trọn vẹn. Người đọc có thể bắt gặp tình huống này một lần nữa ở truyện Chuyện người con gái Nam Xương. Đó thật sự là tội ác, những đau thương mất mát mà chiến tranh tàn bạo đã gây ra. Chính chiến tranh đã làm cho con người phải xa nhau, chiến tranh làm khuôn mặt ông Sáu biến dạng, chiến tranh khiến cuộc gặp gỡ của hai cha con vô cùng éo le, bị thử thác, rồi một lần nữa chiến tranh lại khắc nghiệt để ông Sáu chưa kịp trao chiếc lược ngà đến tận tay cho con mà đã phải hi sinh trên chiến trường.Câu chuyện như một lời tố cáo chiến tranh phi nghĩa gây đổ máu vô ích, làm nhà nhà li tán, người người xa nhau vĩnh viễn.Song cái chúng ta thấy lại không có sự bi lụy ma là sức mạnh, lòng căm thù đã biến Thu trở thành một cô giao liên dũng cảm, mạnh mẽ, đã gắn bó với cuộc đời con người mất mát xích lại gần nhau để cung đứng lên hát tiếp bài ca chiến thắng.

Chiếc lược ngà như một câu chuyện cổ tích hiện đại, thành công trong việc xây dựng hình thượng bé Thu và gửi gắm thông điệp đẹp về tình cha con. Nhân vật ông Ba-người kể chuyện hay chính là nhà văn Nguyễn Quang Sáng, phải là người từng trải, sống hết minh vì cách mạng kháng chiến của quê hương, gắn bó máu thịt với những con người giàu tình yêu, nhân hậu mà rất kiên cường, bất khuất, nha văn mới có thể nhập hồn được vào các nhân vật, sáng tạo nhiều hình tượng với các chi tiết sinh động, bất ngờ, hơn nữa lại có giọng văn dung di, cảm động!

Chiến tranh là hiện thực đau xót của nhân loại, nhưng từ chính trong gian khổ khốc liệt,có những thứ tình cảm đẹp vẫn nảy nở: tình đồng chí,tình yêu đôi lứa, tình cảm gia đình, và cả tình của một người cha với con gái. Truyện ngắn Chiếc lược ngà là một áng văn bất hủ ca ngợi tình phụ tử giản dị mà thiêng liêng, với những con người giàu tình cảm và đẹp đẽ, như nhân vật bé Thu.

Cảm nhận về tình đồng chí đồng đội của các cô gái thanh niên xung phong trong Những ngôi sao xa xôi của Lê Minh Khuê.

Trong số những trang văn viết về chiến tranh, ta không khỏi không thổn thức trước những lời văn nhẹ nhàng mà tràn đầy cảm xúc của nhà văn nữ Lê Minh Khuê. Bà là một người con của vùng đất giàu văn nhân Thanh Hoá, từng tham gia vào cuộc kháng chiến chống Mĩ. Có lẽ vì từng trải qua chiến tranh với những hiểm nguy bão đạn mà bà viết về những con người nơi chiến trường luôn chân thực, xúc động. Tác phẩm Những ngôi sao xa xôi của bà là một truyện ngắn đặc sắc viết về những cô gái thanh niên xung phong, đặc biệt là tình đồng chí trong chất lính của những người trẻ đầy nhiệt huyết.

Ba cô gái trẻ Phương Định, Thao, Nho xung phong làm việc trên đường Trường Sơn, công việc của họ là quan sát cẩn thận những vị trí địch ném bom để san lấp hố bom, trường hợp có những quả bom chưa nổ thì tiến hành thực hiện việc phá bom. Đây là một công việc chứa những hiểm nguy bủa vây, có thể phải đối mặt với cái chết bất cứ lúc nào nếu không cẩn trọng hoặc một chút sơ ý. Và có lẽ, chính những nguy hiểm, gian khổ ấy đã tôi luyện họ thành những “kẻ nối đường” đầy dũng cảm, người ta gọi các cô gái ấy bằng một cái tên đầy trừu mến là “tổ trinh sát mặt đường”.

Những người lính kháng chiến chống Pháp, tình đồng chí đồng đội xuất phát từ lý tưởng chung, hoàn cảnh chung, họ bên nhau san sẻ những niềm vui, khó khăn trong cuộc chiến. Dù có bao thách thức họ vẫn sát cánh bên nhau, luôn trong tư thế “sẵn sàng” được biểu hiện qua bài Đồng Chí của Chính Hữu. Trong kháng chiến chống Mỹ, tình đồng đội được thể hiện qua những cái bắt tay giữa rừng già bom đạn qua chiếc kính xe bị vỡ, là chung nhau bát đũa trong mỗi bữa cơm rừng trong thơ Phạm Tiến Duật. Đến với Những ngôi sao xa xôi của Lê Minh Khuê, tình đồng đội cũng đầy lấp lánh, tin yêu.

Trước hết, ta thấy ở các cô gái ấy là những người có chung một lòng, một chí hướng và một trách nhiệm với dân tộc. Cả Thao, Định và Nho đều yêu đất nước mình mới xung phong vào trận địa, họ đều muốn góp sức mình cho sự nghiệp chung của đất nước là giải phóng dân tộc. Theo tiếng gọi của Tổ quốc mình, họ đã tự nguyện lên đường, đến nơi mà “chẳng biết ngày mai ai còn ai mất” bằng một trái tim đầy dũng cảm, bằng cả tuổi xuân của mình.

Thứ hai, tình đồng chí của bà con người ấy còn được biểu hiện qua công việc. Ở họ luôn có sự hợp tác ăn ý cùng nhau, ai cũng nghiêm túc thực hiện phần việc của mình, lo lắng cho nhau. Những lần hiểm nguy, ai cũng dành nhau cho gian khó, nhận nơi khó khăn, nguy hiểm để làm: “tôi một quả trên đồi. Nho hai quả dưới lòng đường. Chị Thao một quả dưới cái chân hầm ba- ri-e cũ”. Những lần hoàn thành xong công việc, họ đều nhìn nhau cười để tỏ sự hài lòng, cũng là nụ cười chứa chan sự yêu thương dành cho nhau.

Thứ ba, ở cả Nho, Thao và Phương Định, cả ba con người ấy đều có những sở thích khác nhau. Nếu Nho thích may vá, thêu thùa, Phương Định thích hát, bịa ra những lời mới mà hát cho bằng được, đôi khi lại thích ngồi bó gối mơ màng thì Thao lại vui vẻ với sở thích chép lời bài hát. Tuy mỗi người mỗi sở thích nhưng họ vẫn luôn tôn trọng, quan tâm đến sở thích của nhau, và vui vẻ với những sở thích của người đồng đội mình.

Thứ tư, tình đồng đội còn được thể hiện trong sự thấu hiểu tính cách của nhau, quan tâm nhau đầy chu đáo. Ta không khỏi xúc động và lo lắng cùng nhân vật khi đọc những dòng văn viết trong cảnh phút giây Phương Định chờ đợi Thao và Nho đang trinh sát trên cao điểm. Phương Định cũng luôn dành những lời đầy tốt đẹp cho những người động đội của mình như Nho và chị Thao.

Trong một lần thực hiện nhiệm vụ, Nho bị thương nặng, cả chị Thao và Nho đều dành lo lắng, cẩn thận chăm sóc cho cô em gái nhỏ như những người thân trong gia đình mình vậy.

Lấp lánh trong toàn bộ truyện ngắn chính là tình đồng chí cao đẹp. Ở họ luôn luôn có sự đồng nhất ý chí, quan tâm và yêu thương nhau. Họ là những người lính trẻ dũng cảm, hiên ngang và đầy lạc quan, yêu đời, giàu mơ ước. Qua hình ảnh các cô gái thanh niên xung phong trẻ ta cảm nhận được những tình cảm nơi chiến trường mà có bao súng đạn vẫn không thể giết chết được, đó là sự vĩnh cửu của tuổi trẻ, sự trường tồn của tình đồng chí, đồng đội.

Xem thêm:

Hãy bình luận đầu tiên

Để lại một phản hồi

Thư điện tử của bạn sẽ không được hiện thị công khai.