Đặc sắc nghệ thuật trong xây dựng hình tượng Lorca của nhà thơ Thanh Thảo

dac-sac-nghe-thuat-trong-xay-dung-hinh-tuong-lor-ca.jpg

Đặc sắc nghệ thuật trong xây dựng hình tượng Lorca 

  • Mở bài:

Bài thơ “Đàn ghita của Lorca” là tiếng nói tri âm của người nghệ sĩ với một người nghệ sĩ, một người chiến sĩ với một người chiến sĩ. Sự đồng cảm của Thanh Thảo và Lorca trong bài thơ vừa cho người đọc hiểu về người nghệ sĩ Lorca vừa cho người đọc một cái nhìn trọn vẹn hơn về con người Thanh Thảo- một trí thức giàu suy t­ư và một người nghệ sĩ tràn đầy nhiệt huyết, lí tưởng.

  • Thân bài:

Đất nước Tây Ban Nha (với không gian văn hoá đặc trưng và không khí dữ dội của những xung đột chính trị và nghệ thuật):

“những tiếng đàn bọt nước
Tây Ban Nha áo choàng đỏ gắt”

Hình ảnh “áo choàng đỏ gắt” gợi ra một không gian văn hoá đặc trưng của đất nước Tây Ban Nha với những trận đấu bò và chiếc áo choàng đỏ rực của đấu sĩ. Màu “đỏ gắt” trong tự nhiên là cộng hưởng của màu áo đỏ với màu nắng rực cháy trên không gian đầy cát bỏng, trong ý nghĩa biểu tượng lại gợi liên tưởng đến tính chất dữ dội của một đấu trường đặc biệt- nơi diễn ra những xung đột gay gắt giữa khát vọng dân chủ và nền chính trị độc tài, giữa khát vọng cách tân nghệ thuật với nền nghệ thuật già nua.

Nói về Lorca song không vội nhắc đến tên Lorca, thay vào đó, danh từ “Tây Ban Nha” được dùng không chỉ một lần có tác dụng gợi cảm đặc biệt: vừa gợi hình tượng Lorca trong môi trường, không khí đặc trưng của đất nước Tây Ban Nha, vừa tạo liên tưởng đến một sự hoà nhập của Lorca trong đất nước quê hương mình. Hơn nữa, hình ảnh “áo choàng đỏ gắt” của nền văn hoá Tây Ban Nha không thích hợp để ghép với một cái tên cụ thể. Sự kết hợp “Tây Ban Nha áo choàng đỏ gắt” một mặt vẫn cho phép hiểu đó là hình ảnh của Lorca như một hiệp sĩ trên đấu trường thời đại một mặt nâng hình tượng Lorca thành một biểu tượng tráng lệ của thời đại đó.

Trong thực tế, Lorca đã khơi dậy phong trào đấu tranh chống lại chế độ độc tài phát xít và khởi xướng, thúc đầy những cách tân trong nghệ thuật. Trên lập trường chính trị, Lorca là người đi đầu khởi xướng những cách tân nên cũng không dễ dàng tìm được sự thấu hiểu và ủng hộ trong một nền nghệ thuật đã trở nên già cỗi. Lorca như một hiệp sĩ cô đơn trong cuộc hành trình, cô đơn như Đôn Kihôtê trong khát vọng tình yêu và trong cuộc chiến đấu chống lại quái vật và yêu ma.

Để thể hiện được thực tế đó của cuộc đời Lorca và đặc điểm đó của hình tượng Lorca, Thanh Thảo không kể một câu chuyện cụ thể và mạch lạc, cũng không xây dựng một hệ thống chi tiết tường minh và lôgic. Lối thơ tượng trưng, siêu thực khiến ngòi bút nhà thơ đầy ngẫu hứng trong lựa chọn hình ảnh. Sự thấu hiểu và ngưỡng mộ một tài năng khiến Thanh Thảo tiến đến xu hướng lý tưởng hoá để tạo nên một sự hoà nhập chuyển hoá của cá nhân Lorca và đất nước Tây Ban Nha:

“đi lang thang về miền đơn độc
với vầng trăng chếnh choáng
trên yên ngựa mỏi mòn

Tây Ban Nha
hát nghêu ngao
bỗng kinh hoàng
áo choàng bê bết đỏ
Lorca bị điệu về bãi bắn
chàng đi như người mộng du”

Âm thanh tiếng đàn ghita (Tây Ban Nha), hình ảnh chiếc áo đấu sĩ (matactor) và hình ảnh chàng hiệp sĩ lang thang, đơn độc với “vầng trăng chếnh choáng” và “yên ngựa mỏi mòn” gợi liên tưởng đến giấc mơ hiệp sĩ của Đôn Kihôtê lại cũng gợi ra một ấn tượng lãng mạn, say đắm, một hình tượng đậm chất lý tưởng và chất nghệ sĩ.

Những từ láy “lang thang’, “đơn độc”, “chếnh choáng”, “mỏi mòn” rất có giá trị tạo hình biểu cảm được đún một cách hợp lí để gợi ra một hình tượng mang đậm cốt cách Tây Ban Nha: hình tượng một hiệp sĩ cô đơn với bước chân mỏi mệt trong cuộc hành trình đơn độc song lòng vẫn đắm say mải miết theo đuổi lý tưởng vì cái đẹp, cái cao cả của đời mình.

“Lang thang” là nay đây, mai đó, không dừng lại ở một nơi nào, không bó buộc trong một không gian nào- cốt cách tự do và hình ảnh người nghệ sĩ tự nguyện làm người du ca đi lang thang với cây đàn ghita hát lên bài ca lãng tử, dùng tiếng đàn giãi bày nỗi buồn đau và khát vọng yêu thương của nhân dân.

“Đơn độc” là một mình, không có ai bên cạnh- hình ảnh của Lorca trong cuộc đấu tranh chính trị và khát vọng cách tân nghệ thuật, cũng gợi tư thế của một hiệp sĩ với lí tưởng cao cả đẹp đẽ mà không phải ai cũng có thể thấu hiểu và ủng hộ.

“Chếnh choáng” là cảm giác của người đang say- say với cái đẹp và say với lí tưởng của mình dù cái đẹp ấy, lí tưởng ấy không được thực tại đón nhận và trân trọng.

“Mỏi mòn” là trạng thái hao sút dần về sức lực, thể chất- hình ảnh con người đã mệt mỏi, đã bị vắt kiệt sức lực trong cuộc hành trình đơn độc của mình.

“Kinh hoàng” (hoảng hốt, ghê sợ tột độ) gợi liên tưởng đến không khí khủng bố căng thẳng dữ dội của chế độ độc tài, cũng gợi liên tưởng đến bầu không gian kinh hoàng những ấn tượng chết chóc – nhất là khi đặt bên cạnh “áo choàng bê bết đỏ” và “tiếng ghita ròng ròng máu chảy”.

Bản thân các từ láy rất giàu giá trị biểu cảm, khi đặt trong các kết hợp đã tạo nên những hình ảnh vừa chân thực, vừa thi vị vừa cụ thể vừa có sức khái quát để tạo những ấn tượng đầy lãng mạn. “Đi lang thang” là bước chân của người nghệ sĩ với khúc du ca, “miền đơn độc” lại là một không gian trống trải quạnh vắng không sao tìm được ai cùng đi bên mình để có được một chút ấm áp => cuộc hành trình đơn độc của một hiệp sĩ- nghệ sĩ cô đơn.

“Vầng trăng chếnh choáng” là sự say đắm của vầng trăng hay của con người với vầng trăng; “vầng trăng” là hiện thân của cái đẹp. Con người nghệ sĩ say đắm với cái đẹp là điều bình thường. Nhưng ngay cả cái đẹp cũng bị quyến rũ, bị cuốn hút theo những khát vọng và cảm xúc của nghệ sĩ mới thật là điều kì lạ, độc đáo. Nó chứng tỏ cảm xúc ấy phải thật sâu sắc và khát vọng ấy phải thật mãnh liệt, thật cao cả. “Yên ngựa mỏi mòn” – những bước chân ngựa nặng nề mệt mỏi cùng với dáng vẻ mệt mỏi của con người trên yên ngựa- mệt mỏi vì đã phải đi một chặng đường xa mà cái đích vẫn xa vời, mệt mỏi và một mình đơn độc.

Khi kết hợp lại tất cả các yếu tố ngôn ngữ trong đoạn thơ, ta có một nét phác đầu tiên khá chân thực, chính xác và vô cùng gợi cảm về Lorca: “áo choàng đỏ gất cùng với âm thanh tiếng đàn li – la li – la li – la đi lang thang về miền đơn độc với vầng trăng chếnh choáng trên yên ngựa mỏi mòn” gợi một liên tưởng thú vị: con người nghệ sĩ đã đồng hành cùng vầng trăng chếnh choáng, song thật khó để xác định xem con người đang chếnh choáng trên yên ngựa mỏi mòn hay chính vầng trăng kia đang chếnh choáng trên yên ngựa. Có lẽ là cả hai. Từ đó, ta có thể hình dung ra hình tượng của một chàng lãng tử với cuộc hành trình về miền xa thẳm. Chàng lãng tử ấy mang trong tâm hồn mình cả cuộc sống dữ dội và giấc mơ lãng mạn, cả ý chí kiên cường và những xúc cảm say đắm làm chếnh choáng cả vầng trăng. Đồng thời ta cũng có thể hình dung ra hình tượng một người nghệ sĩ cô đơn trên hành trình đi tìm cái Đẹp trong thế giới bạo tàn, cô đơn trong chính cuộc đấu tranh vì tự do và cái Đẹp mà nhân tố không phải ai cũng thấu hiểu.

Lorca và số phận thảm khốc được gợi ra trước hết qua một tương phản:

“Tây Ban Nha
hát nghêu ngao”

Lorca với tâm hồn thanh thản và cốt cách tự do hiện lên như một người du ca hát lên bài ca lãng tử:

“bỗng kinh hoàng
áo choàng bê bết đỏ
Lorca bị điệu về bãi bắn
chàng đi như người mộng du”

Dân tộc Tây Ban Nha với cảm xúc choáng váng tột độ, đau đớn tột cùng và ghê sợ, bàng hoàng khi Lorca – hiện thân của khát vọng tự do- bị bắt và bắn chết tàn bạo. Ở đây nhà thơ như nhập thân vaò hình tượng, đồng thời cũng tự phân thân để trải nghiệm đến tận cùng hai tâm trạng- tâm trạng của Lorca và tâm trạng của dân tộc Tây Ban Nha mà Lorca là đại diện ưu tú. Nỗi kinh hoàng của dân tộc Tây Ban Nha không chỉ là vì cái chết của Lorca mà còn vì cách ứng xử tàn bạo, vô nhân đạo trước khát vọng tự do của con người.

Ở khổ thơ đầu, hình ảnh “áo choàng đỏ gắt” gợi ra cốt cách tự do và tính cách dữ dội, phong cách anh hùng và cá tính nghệ sĩ thì ở khổ thơ này, hình ảnh “áo choàng bê bết đỏ” lại gợi tấm thảm kịch của con người mang khát vọng tự do. “Áo choàng đỏ gắt” là một biểu tượng có chức năng khái quát, “áo choàng bê bết đỏ” lại là một sự kiện cụ thể (Lorca bị điệu về bãi bắn)

Thanh Thảo không đi sâu miêu tả sự kiện Lorca bị giết mà chỉ gợi một ấn tượng dữ dội về nó để biêt hiện cảm xúc đau đớn của chính mình và gợi nỗi đau trong lòng người đọc. Song trong cảm nhận và biểu hiện của Thanh Thảo, nỗi đau không phải điều cuối cùng đọng lại. Cái đọng lại sau cùng là niềm tin vào sự bất tử của Lorca.

Lorca đi tới sự bất tử bằng tiếng đàn của mình. Được gợi mở bằng một so sánh đặc biệt: “chàng đi như người mộng du”. Trong không khí của đoạn thơ, “đi” là một hành động thụ động của đôi chân (vì con người thể xác đã bị bắt, bị điệu về bãi bắn), còn trong mạch vận động của hình tượng, đây l¹i lµ một bước chuyển đột ngét từ sự sống bên ngoài vào sự sống bên trong, từ vận động của đôi chân đến sự vận động của tâm hồn, từ hành trình tới sự kết thúc vật chất đến sự khởi đầu bất tử của tinh thần. Vì “mộng du” tức là thoát khỏi thế giới thực tại để sống và bay bổng trong một thế giới khác- ở đây là thế giới của sự sống- một sự sống mạnh mẽ và phóng khoáng, tươi tắn mà lãng đãng để không thể nào huỷ diệt được.

Thanh Thảo đã gợi ra một sự hoá thân, hoà nhập tuyệt đỉnh giữa hình tượng tiếng đàn và hình tượng Lorca: khi Lorca bị điệu về bãi bắn cũng là lúc tiếng đàn ngân lên (tiếng ghita nâu, tiếng ghita lá xanh). Khi Lorca bị bắn là khi tiếng ghita dạo khúc cao trào rồi tắt lịm (tiếng ghita tròn bọt nước vỡ tan, tiếng ghita ròng ròng máu chảy). Khi xác của Lorca bị ném xuống giếng là khi sự sống của tiếng đàn trỗi dậy “như cỏ mọc hoang”. Và khi dư ba của tiếng đàn “như cỏ mọc hoang” là khi “Lorca bơi sang ngang trên chiếc ghita màu bạc”…

Hình tượng tiếng đàn- Lorca đã vượt khỏi giới hạn vật chất của hình ảnh và âm thanh để trở thành hình tượng tinh thần có sức sống bất diệt bằng lối liên tưởng độc đáo:

“giọt nước mắt vầng trăng
long lanh trong đáy giếng”

Hình ảnh “vầng trăng” xuất hiện hai lần đều không phải như những thực thể của thế giới khách quan mà như một biểu tượng gắn liền với những năng lượng tinh thần đặc biệt. Lần thứ nhất, trăng xuất hiện trong trạng thái “chếnh choáng” rất nghệ sĩ. Lần thứ hai lại được gợi ra trong một nỗi đau rất con người mà cũng thẳm sâu như chính vũ trụ- nơi trăng kia hiện diện. Ở câu thơ này, vầng trăng trước hết thuộc về vò trụ bát ngát với ánh sáng dịu dàng và vẻ đẹp mĩ lệ.

Đối lập với vầng trăng là đáy giếng- nơi kẻ thù ném xác Lorca hòng xoá dấu vết tội ác, nơi tăm tối mịt mùng, không sao soi thấu được, nơi lưu giữ hiện thân của đau thương và tội ác xấu xa. Hai hình ảnh tương phản này gợi hai thế giới hoàn toàn cách biệt, xa lạ và không thể nào tìm mối liên hệ. Vậy mà Thanh Thảo đã phát hiện ra mối liên hệ giữa chúng bằng một liên tưởng độc đáo. Tr­ước hết, “giọt nước mắt vầng trăng” vừa có thể hiểu là giọt nước mặt của vầng trăng (trăng khóc cho cái chết oan khuất của Lorca hay chính là vũ trụ đã cảm thấu nỗi đau khôn cùng của con người), vừa có thể hiểu rằng là giọt nước mắt của vũ trụ rơi vào đáy giếng để soi sáng sự thật bị chôn vùi. “Đáy giếng” là nơi chôn vùi thân xác Lorca, nơi cất giấu một bí mật về tội ác của chế độ độc tài, “đáy giếng” cũng là nơi đón nhận sự toả sáng của mối đồng cảm sâu xa từ vũ trụ.

Sức tưởng tượng mạnh mẽ: “Đường chỉ tay đã đứt” là sự chấm dứt cuộc sống vật chất, “dòng sông rộng vô cùng” là cuộc đời vô hạn vẫn tiếp tục chảy trôi. Mối tương quan ấy gợi một cảm giác bi quan: có lẽ sự tồn tại hữu hạn, mong manh của một đời người ngắn ngủi đứt gãy nửa chừng sẽ bị dìm cho chìm nghỉm dưới đáy sông, sẽ trở nên vô nghĩa trước cái vô cùng của sóng nước. Thế nhưng Thanh Thảo lại bằng tưởng tượng đem đến một cảm nhận hoàn toàn ngược lại:

“đường chỉ tay đã đứt
dòng sông rộng vô cùng
Lorca bơi sang ngang
trên chiếc ghi-ta màu bạc”

“Bơi” là hành động để tồn tại và khẳng định sự tồn tại trên dòng sông, “bơi sang ngang” là không bị cuốn đi và không muốn buông trôi theo dòng nước- phải chống chọi với sức băng cuốn của sóng nước song cũng thể hiện rõ tư thế đứng cao hơn mọi sự chảy trôi thông thường; bơi bằng và trên chiếc “ghita màu bạc” là dùng cây đàn ghita chở tải sự sống của mình vượt lên mọi sự băng hoại, chảy trôi. Chiếc đàn ghia ta đã chở sự sống và linh hồn Lorca vượt qua giới hạn ngắn ngủi của đời người để đến với cõi vô cùng của cuộc sống. Đó vừa là thực tế, vừa là niềm tin tuyệt đối của Thanh Thảo vào sự bất tử của Lorca.

Vậy là, sự tưởng tượng xét đến cùng lại bắt nguồn từ nhận thức về giá trị tinh thần của tiếng đàn Lorca, từ giá trị của tiếng nói và những cống hiến của Lorca cho nghệ thuật. Vậy là ta lại thấy ở đây một khía cạnh nữa trong quan niệm nghệ thuật của Thanh Thảo: sự sống vật chất của người nghệ sĩ chỉ là hữu hạn song sản phẩm nghệ thuật mà nghệ sĩ tạo ra sẽ đưa nghệ sĩ vào cõi bất tử.

Dòng tưởng tượng tiếp tục trào dâng mạnh mẽ về sự sống bất diệt và niềm kiêu hãnh của Lorca: “lá bùa cô gái Digan” là vật có phép thiêng để trừ tà và tránh tai hoạ. Ném “lá bùa” vào “xoáy nước” là sẵn sàng đối mặt với hiểm hoạ và định mệnh trong cuộc đời- hành động làm bật lên tư thế đầy kiêu hãnh (“xoáy nước” là hiểm hoạ trên dòng sông số phận, “ném lá bùa” là ném sự bảo vệ về sinh mạng).

“Ném trái tim” lại là sự dâng hiến trọn vẹn trong thanh thản và vô tư những rung cảm trong sáng, chân thành và thiêng liêng nhất của chính mình- hành động làm bật lên sự cao cả của tấm lòng, sự cao thượng trong tình cảm. Cả t­ thế kiêu hãnh và trái tim cao thượng đều là dấu hiệu của cốt cách nghệ sĩ- hiệp sĩ, nó làm tỏa sáng vẻ đẹp của hình tượng Lorca (hai lần Thanh Thảo dùng từ “ném”.

Lần thứ nhất là hành động của một hiệp sĩ dám coi khinh cái chết bởi cái chết do kẻ thù gây ra cũng không thể ngăn cản tư tưởng, tâm hồn Lorca hòa vào sự sống bất tử của nhân dân. Lần thứ hai là hành động của một nghệ sĩ sẵn sàng và tự nguyện dâng trọn tâm hồn mình cho cuộc đời để ra đi trong yên lặng. Chính sự dâng hiến vô tư và tự nguyện ấy đã khiến tiếng đàn ghita của Lorca ngân vang bất diệt không chỉ bằng âm thanh mà còn bằng cả dư âm. Hai lần Thanh Thảo mô tả tiếng đàn “li – la li – la li – la”.

Lần thứ nhất là những âm thanh vang lên trong không gian dữ dội của đất nước Tây Ban Nha thành lời ca tranh đấu. Lần thứ hai là những âm thanh vang lên trong “lặng im bất chợt”, vang lên từ cõi vô cùng và sự bất diệt. Lần thứ nhất là âm thanh thực. Lần thứ hai đã là những dư âm không dứt để khơi dậy và nối dài cảm xúc, rung động và tỏa sáng lí tưởng cao cả đẹp đẽ của Lorca).

  • Kết bài:

“Đàn ghita của Lorca” là một bài thơ hay. Hay ở chỗ không chỉ tạo dựng chân dung người nghệ sĩ – chiến sĩ Phêđêricô Gaxia Lorca một cách trung thực và gợi cảm mà còn giúp người đọc cảm nhận sâu sắc vẻ đẹp tâm hồn và tính cách đậm chất Tây Ban Nha của Lorca.

Hãy bình luận đầu tiên

Để lại một phản hồi

Thư điện tử của bạn sẽ không được hiện thị công khai.