Đặc trưng phương tiện nhận thức của văn chương

dac-trung-phuong-tien-nhan-thuc-cua-van-chuong

Đặc trưng phương tiện nhận thức của văn chương

I. Hình tượng – phương tiện nhận thức của văn nghệ.

Xác định phương tiện nhận thức của văn chương là xác định tế bào của cơ thể sống, xác định yếu tố cơ bản để cấu thành tác phẩm văn chương, xác định công cụ tiếp cận cuộc sống của nhà văn, xác định cơ sở cho sự tồn tại của Khoa nghiên cứu văn chương và cơ sở tiếp thu văn chương của người thưởng thức.

Ðơn vị cơ bản (hoàn chỉnh, nhỏ nhất, có ý nghĩa) là điều kiện tồn tại của thế giới và là điều kiện tồn tại cho các hình thức nhận thức về thế giới. Mọi sinh vật trên trái đất đều được cấu tạo bằng tế bào (đơn bào hoặc đa bào). Tế bào là đơn vị sống nhỏ nhất. Sinh vật học lấy tế bào làm xuất phát điểm. Thế giới vật chất nói chung được cấu tạo bằng những nguyên tử. Nguyên tử là đơn vị trọn vẹn nhỏ nhất có ý nghĩa của vật chất. Nó là điều kiện tối thiểu của sự tồn tại vật chất. Trong khoa học tự nhiên đã vậy, trong khoa học xã hội cũng cần phải như vậy. Chính Mác đã nghiên cứu chủ nghĩa tư bản bắt đầu từ “hàng hóa”. Bằng việc nghiên cứu hàng hóa, Mác đã thấy được bản chất mâu thuẫn của chủ nghĩa tư bản. Lênin, trong tác phẩm “Bút ký triết học” phần “về phép biện chứng” đã chỉ cho ta thấy điều đó:

Trong Tư bản, Mác đã phân tích trước hết cái đơn giản nhất, quen thuộc nhất, chung nhất, thông thường nhất, cái thường gặp đến hàng nghìn triệu lần, mối quan hệ xã hội tư sản (xã hội thương phẩm): sự trao đổi hàng hóa, sự phân tích phát hiện trong cái đơn giản ấy (trong cái “tế bào” của xã hội tư bản) tất cả những mâu thuẫn,tức là tất cả những mầm móng của mọi mâu thuẫn xã hội hiện đại. Sau đó, sự trình bày của Marx vạch cho chúng ta thấy sự phát triển (cả sự lớn lên và sự vận động) của các mâu thuẫn ấy trong tổng số các bộ phận của nó, từ lúc bắt đầu cho đến lúc kết thúc của xã hội”.

Vậy, đối với văn chương nghệ thuật đơn vị cơ bản là gì? Tế bào đã cấu tạo nên cơ thể sống – chính thể tác phẩm là gì?

Ðã có ý kiến cho rằng từ là đơn vị cơ bản của tác phẩm văn chương. Ðành rằng, văn chương là nghệ thuật ngôn từ, ngôn từ là yếu tố thứ nhất của văn chương, tác phẩm văn chương là sự tổ chức ngôn từ theo một cách thức nào đó. Nhưng nếu xem từ là phương tiện nhận thức, là đơn vị cơ bản của tác phẩm thì sẽ không phân biệt được chất liệu cấu tạo nên tác phẩm với phương tiện nhận thức. Triết học, chính trị, và nhiều khoa học khác, tác phẩm của nó cũng là những ngôn từ. Vấn đề là tại sao cũng được xây dựng từ ngôn từ nhưng tác phẩm này là triết học, chính trị, khoa học … còn tác phẩm kia lại là nghệ thuật. Hơn nữa, ngôn từ là phương tiện giao tiếp, là công cụ giao tế, nó là của cải chung của xã hội chứ không phải của riêng nhà văn.

Lại có ý kiến cho rằng hình ảnh là tế bào của tác phẩm. Ý kiến này phần nào thấy được sự khác biệt giữa nghệ thuật ngôn từ và ngôn từ phi nghệ thuật. Nhưng, hình ảnh chỉ là sự phản ánh những thuộc tính của ngoại giới vào đầu óc con người. Nó mang tính chất tri giác. Nó chưa phải là kết quả của một sự nhận thức đúng đắn. Mặt khác, hình ảnh không phải là gia tài riêng của nghệ thuật. Trong các tác phẩm ngôn từ không phải nghệ thuật ta vẫn thường bắt gặp các hình ảnh. Những hình ảnh đó có tác dụng minh họa cho các phán đoán và kết luận trừu tượng, làm cho các kết luận ấy rõ ràng, sinh động và trực quan. Chẳng hạn, các nhà thiên văn nghiên cứu về sao chỗi Halây, ngoài việc khái quát nên bản chất và quy luật vận động của nó thì họ đã không thể không mô tả về nó và đặc biệt là chụp những bức ảnh về nó để minh họa cho kết  quả của mình.

Trong văn chương, “cái chung nhất, cái quen thuộc nhất, cái thường gặp hàng nghìn triệu lần” đấy là hình tượng. Người sáng tác luôn luôn trăn trở, suy nghĩ, phấn đấu cho sáng tác của mình có hình tượng đạt chất lượng cao. Doboline nói : đối với tôi “hình tượng luôn luôn nằm ở đầu ngòi bút”.

Biélinski cho rằng “nhà thơ tư duy bằng hình tượng, nhà thơ không chứng minh mà trình bày chân lí” . Ipxen: “Trước khi viết ra giấy một chữ nào,tôi cần nắm chắc hình tượng đã nảy sinh trong tôi”. Tchekhov, ở trong đầu ông hình thành “cả một đội ngũ sẵn sàng chờ lệnh”. Gorky gọi văn chương là khoa học về con người và “nghệ thuật bắt đầu nói mà độc giả quên mất tác giả, chỉ trông thấy và nghe thấy những con người do tác giả trình bày trước độc giả”.

Nếu nhà văn không xây dựng được hình tượng thì tác phẩm của anh ta sẽ rơi vào lí thuyết khô khan trừu tượng. Trường Chinh đã có một so sánh thú vị:

Không long lanh hình tượng
Chắp cánh ước mơ
Thì thơ đó chỉ thua vè một chút.

Vè, diễn ca thực sự là loại văn vần minh họa chủ trương đường lối. Hình tượng là phương tiện cơ bản, độc lập duy nhất để nhà văn nhận thức cuộc sống. Nghệ thuật và khoa học là hai hình thức nhận thức cơ bản của con người. chúng thống nhất với nhau ề mục đích nhận thức : phát hiện ra quy luật, bản chất  của thế giới để giúp con người tiến hành cải tạo thế giới ngày càng tích cực hơn. Khoa học và nghệ thuật tồn tại bên nhau để bổ sung cho nhau; làm cho nhận thức con người phong phú toàn diện, làm cho đời sống vật chất và tinh thần của con người được đầy đủ. Nhưng khoa học và nghệ thuật không bài trừ lẫn nhau chính vì chúng có những đặc trưng riêng. Chẳng hạn, nghệ thuật và khoa học đều có chức năng nhận thức thế giới. Nhưng đặc trưng chức năng nhận thức của nghệ thuật là ở chỗ không chỉ góp phần vào việc nhận thức thế giới mà còn giúp con người bồi dưỡng tâm hồn dưới ánh sáng của một lí tưởng đạo đức và thẩm mĩ nhất định.

Năng lực gây cảm xúc là một đặc tính tất yếu của nghệ thuật. Song, sự khác nhau quan trọng mà ta cần đặc biệt chú ý là ở phương tiện nhận thức của chúng. Khoa học nhận thức thế giới bằng công thức , định lí, định luật, khái niệm … trừu tượng. Còn nghệ thuật nhận thức thế giới bằng hình tượng cụ thể, cảm tính, trực tiếp. Ðến với một tác phẩm khoa học là đến với những công thức định lí, định luật, khái niệm. Tất cả những cái đó là hình thức tóm gọn bản chất thế giới muôn màu lại. Quá trình thâm nhập sau vào bản chất thế giới là quá trình nhà khoa học trừu tượng hóa các điểm cá biệt riêng lẽ của từng hiện tượng, sự vật để rút ra thuộc tính chung nhất của đối tượng. Thuộc tính chung nhất được biểu thị bằng một khái niệm nhất định. Chẳng hạn, sau quá trình nghiên cứu về nước từ nhiều thứ nước khác nhau người ta đã tìm ra thuộc tính cơ bản của nước là tổng hợp của hai chất Hydro và Oxy, cứ một phân tử nước có hai nguyên tử Hydro và một nguyên tử Oxy. Và người ta ký hiệu H2O. H2O là công thức trừu tượng và là một sự ký hiệu , quy ước. Công thức này không hề gợi cho ta một sự liên hệ trực tiếp nào giữa nó với nước cả.

Một ngành khoa học sẽ có một hệ thống những khái niệm, công thức trừu tượng, có nội dung được xác định rõ ràng, chặt chẽ. Hệ thống những khái niệm, thuật ngữ, công thức là phương tiện nhận thức thế giới của nhà khoa học, là phương tiện truyền thụ kiến thức của nhà khoa học đến người khác, cũng tức là phương tiện tư duy của nhà khoa học. Do đó mà người ta nói nhà khoa học tư duy bằng khái niệm. Nhưng đến với nghệ thuật, ta không đến với những công thức khô khan trừu tượng. Ðến với nghệ thuật là đến với “thế giới đã qua bàn tay nhào nặn của con người nhưng chung quy vẫn là ở dạng thái cuộc sống”. Nghĩa là thế giới qua nghệ thuật không bị khô đi, cứng lại trừu tượng hóa ra. Một pho tượng, một bức tranh, một điệu múa, một cuốn phim ta không hề thấy công thức hay một khái niệm nào cả mà chỉ thấy những cảnh đời, những con người, những phong cảnh thiên nhiên có hình dáng, diện mạo, màu sắc, âm thanh, đường nét cụ thể. Ở đây, bằng giác quan ta có thể trực tiếp nhìn thấy, nghe thấy và cảm thấy hình hài cuộc sống.

Trong nghệ thuật có một sự nhập nhằng thú vị : nội dung của nó là sự phản ánh về đời sống, là ý thức tư tưởng của tác giả nhưng nhiều lúc người ta tưởng đó chính là cuộc sống. Có người kể rằng khi đọc xong truyện Phòng số 6 của Tchekhov Lénine đã nói với chị của mình rằng : “Tôi không thể ngồi trong phòng của mình được nữa, tôi đứng dậy và đi ra ngoài. Tôi có cảm giác là chính tôi đang bị giam trong phòng số 6 đó”. Mặc dầu Lénine rất tán thành ý kiến sau đây của Feuerbach: “Nghệ thuật không đòi hỏi người ta thừa nhận các tác phẩm của nó như là hiện thực”. Nhưng chính Lénine đã bị nghệ thuật cuốn hút đến mức tưởng nó là sự thực ngoài đời.

Hình thức phản ánh đời sống như đã nói trên, theo Tchernychevski là phản ánh hiện thực dưới “hình thức đời sống”. Biélinski đã so sánh 2 cách nhận thức thế giới của khoa học và nghệ thuật như sau: “Tự vũ trang bằng những con số thống kê để tác động vào trí tuệ của thính giavà độc giả, nhà chính trị kinh tế học chứng minh rằng tình hình của một giai cấp nào đó đang hưng thịnh hay đang suy đồi do những hậu quả của những nguyên nhân nào đó …

Biểu hiện quan trọng nhất của tính nghệ thuật xét về hình thức là sự hoàn thiện của hệ thống ngôn từ của hình tượng. Thật khó có thể nói thế nào là sự hoàn thiệb của hệ thống ngôn từ bởi vì không có một chuẩn mực ngôn từ nhất định nào cho hình tượng cả. Cũng không thể qui về sự giản dị hay phức tạp của cú pháp, sự chừng mực hay phong phú của từ loại, việc có hay không có những biện pháp tu từ, phương thức chuyển nghĩa v.v… Hệ thống ngôn từ đạt được ý nghĩa nghệ thuật chừng nào nó phục vụ đắc lực, tốt đẹp cho nhiệm vụ tư tưởng – thẩm mĩ của tác giả. Do đó, ngôn ngữ chỉ có giá trị nghệ thuật khi nó là chất liệu xây dựng hình tượng, phát huy năng lực tối đa khả năng nghệ thuật vốn có của mình trong hình tượng.

Người ta vẫn thường nói tới khả năng nghệ thuật của ngôn từ, đến đặc trưng của ngôn ngữ văn chương như tính hình tượng, tính biểu cảm, tính hàm xúc … song không phải sử dụng nhiều lớp từ có những đặc trưng trên thì tự nhiên tác phẩm đạt được tính nghệ thuật. Tất cả là ở chỗ sử dụng đúng và đắt, khai thác đúng ma lực của nó. Chữ tót trong từ điển đâu có ý nghĩa thẩm mĩ gì. Nhưng dưới bàn tay Nguyễn Du thì nó có ý nghĩa nghệ thuật, khi Nguyễn Du dùng để đặc tả một thế ngồi của Mác Giám Sinh: “Ghế trên ngồi tót sỗ sàng”. Người ta Nguyễn Du đã giết Mã Giám Sinh bằng một chữ “tót”.

Từ trắng trong từ điển là tính từ chỉ một thứ màu, màu trắng. Nhưng khi nó xuất hiện trong bài thơ Viếng hồn trinh nữ của Nguyễn Bính thì mang nét nghĩa khác:

Sáng nay vô số lá vàng rơi,
Người gái trinh kia đã chết rồi.
Có một chiếc xe màu trắng đục,
Hai con ngựa trắng bước hàng đôi,

Đem đi một chiếc quan tài trắng,
Và những vòng hoa trắng lạnh người.
Theo bước những người khăn áo trắng,
Khóc hồn trinh trắng mãi không thôi.

Nghĩa đen thì vẫn là trắng đấy nhưng nghĩa nghệ thuật là sự tring trắng và việ lặp đi lặp lại nhiều lần từ trắng để mô tả đám tang của người con gái làm tăng thêm nỗi đau xót. Cái chết của con người đã là đau xót, nhưng cái chết của người con gái tring trắng nữa thì đau xót biết chừng nào. Cũng với cách lặp từ trắng trong bài thơ Cát trắng của Nguyễn Duy có khác:

Bên ni cửa Tùng mênh mông cát trắng
Bên tê cửa Tùng cát trắng mêng mông
Cát trắng bên ni sao trắng lạnh, trắng lùng
Trắng đất, trắng tay, trắng một vùng đất trắng.

Trắng ở đây không có liên quan gì với nét nghĩa trinh trắng ở bài thơ trên cả. Trắng ở đây phục vụ cho một tư tưởng – thẩm mĩ khác: sự trắng trơn, sạch bách của đất quê hương dưới gót giày giặc.

II. Hình tượng nghệ thuật điểm hình.

Văn chương phản ánh cuộc sống bằng hình tượng. Nói hình tượng là nói đến đặc trưng của văn chương nhưng chưa nói tới chất lượng của hình tượng đó. Tác phẩm nào cũng có tính hình tượng, vì đó là kết quả tất yếu của sự phản ánh có tính đặc thù của văn học. Nhưng không phải tác phẩm nào hình tượng văn chương cũng đạt được một chất lượng ngang nhau. Ðiển hình nghệ thuật là một khái niệm dùng để chỉ chất lượng của hình tượng.

Ðặc điểm cơ bản của hình tượng văn chương là sự thống nhất giữa tính cá biệt, cụ thể và khái quát. Và vì điển hình là khái niệm xác định chất lượng hình tượng, cho nên một hình tượng văn chương có tính khái quát cao và tính cụ thể đến mức độc đáo thì hình tượng trong đó trở thành điển hình.

Chẳng hạn, trong hàng loạt nhân vật của Tắt đèn thì hình tượng chị Dậu là điển hình. Ðiển hình văn học là hình tượng được khái quát một cách sinh động nhất, sâu sắc nhất, tính qui luật của con người, sự vật vả hiện tượng đời sống xã hội.

1. Ðặc điểm cơ bản của hình tượng điển hình.

a.  Tính cách điển hình.

Tính cách là những đặc điểm tâm lí tương đối ổn định nói lên cốt cách và phẩm chất của nhân vật. Vì tính cách là cốt cách, phẩm chất của nhân vật cho nên tính cách còn dùng để chỉ nhân vật.

Tính cách điển hình là tính cách có sự thống nhất sâu sắc giữa tính chung và tính riêng (tức là giữa cái khái quát và cái cụ thể).

Về mặt tính riêng (yêu cầu của tính riêng điển hình). Sự phong phú đa dạng của tính cách. Mác nói: Bản chất con người là tổng hòa của mọi mối quan hệ xã hội. Tính cách mà con người điển hình phải phong phú, đa dạng như chính những quan hệ đa dạng của nó trong cuộc sống. Kiều được Nguyễn Du mô tả trong rất nhiều mối quan hệ với gia đình và ngoài xã hội, với rất nhiều kiểu người khác nhau.

Tính xác định của tính cách tức là tính cá biệt, tính có một không hai, tính duy nhất của điển hình. Cuộc sống của con người là đa tạp nhưng hoàn toàn cụ thể, xác định. Do đó nghệ thuật cũng phản ánh cho được tính xác định đó.

Tính xác định của điển hình được biểu hiện tập trung ở cá tính. Cá tính của nhân vật là những đặc trưng tương đối ổn định, nổi bật nhất, dễ thấy nhất, lắp đi lắp lại nhiều lần nhất như một cái khuôn, khuôn mọi biểu hiện của tính cách vào một số hình thái nhất định. Aêngghen viết: Tính cách nhân vật không những biểu hiện ở chỗ nó làm gì mà còn ở chỗ nó làm như thế nào.[1] Chính làm như thế nào của tính cách là cá tính của nó. Ví dụ: cùng là ghen cả nhưng cái ghen của hoạn thư hoàn toàn khác cái ghen của phụ nữ bình thường. Ðó là cái ghen biểu thị tính giảo quyệt của mụ.

Lưu ý tính riêng của điển hình không phải là một nét, một khía cạnh, hoặc từng nét từng khía cạnh mà là sự tổng hợp những nét, những khía cạnh cụ thể, những cái xác định. vì những nét riêng lẻ không thể tiêu biểu cho bản chất thẩm mĩ của hình tượng; hình tượng nghệ thuật phải là sự tổng hợp hữu cơ của những đặc tính riêng muôn hình muôn vẻ cái cụ thể sở dĩ nó cụ thể vì là nó kết hợp của vô số những xác định, là sự thống nhất của cái nhiều vẻ.

Muốn thể hiện nhân vật trong tính cá thể, xác định thì phải cá thể hóa – biện pháp cơ bản, tất yếu của việc xây dựng hình tượng nghệ thuật, nhằm làm cho hình tượng nghệ thuật trở nên cụ thể, cá biệt, cảm tính và đầy sức sống.

Về mặt tính chung:

Tính chung của tính cách là những đặc trưng có ý nghĩa khái quát, phổ biến của tính cách. Ðó là những đặc trưng quyết định phương hướng hành động hay bản chất xã hội của hành động nhân vật. Chị Dậu trong Tắt đèn là một phụ nữ rất mực yêu chồng, thương con, phẩm chất này (tính chung) đã quyết định những hành động hy sinh của chị. Yêu cầu của tính chung là tính khái quát rộng rãi. Mỗi tính cách điển hình phải tiêu biểu cho một tằng lớp người, một giai cấp nhất định, và là sự biểu hiện cho quy luật, cho mặt bản chất của đời sống xã hội.

Tính giai cấp là mặt chủ yếu, là đặc điễm quan trọng nhất của tính chung. Trong xã hội có giai cấp, con người là thành viên của một giai cấp. Cuộc đấu tranh giai cấp có tác dụng và ý nghĩa quyết định đến toàn bộ đời sống từng cá nhân. Mỗi con người xã hội từng đặc điểm riêng, nó còn mang những đặc điểm chung của giai cấp nhất định. Chị Dậu điển hình cho giai cấp nông dân lao động. Paven vlaxốp, Paven cortsaghin điển hình cho giai cấp công nhân. Ðặc điểm của tính cách giai cấp của điển hình được thể hiện cụ thể hơn các đặc điểm của tầng lớp, bộ phận cấu tạo nên giai cấp. Vì trong quá trình đấu tranh giai cấp, mỗi giai cấp được hình thành và cấu tạo nên từ những tầng lớp người khác nhau. Chí Phèo điển hình cho bộ phận nông dân – cố nông bị lưu manh hóa.

Tính giai cấp của con người trong xã hội là không đơn thuần mà phức tạp. Vì: bản chất của con người là tổng hòa những mối quan hệ xã hội. Mỗi con người mang bản sắc giai cấp xuất thân đã đành, nó còn mang bản chất của các giai cấp khác. Do đó, trong văn chương, mỗi nhân vật thường có tình trạng mang theo bản sắc nhiều giai cấp. AQ ngoài bản tính nông dân ra, y còn mang bản tính giai cấp khác. Ví như tư tưởng tiểu tư sản.

Ngoài tính giai cấp ra, tính chung của tính cách còn được biểu hiện ở đặc điểm giới tính, nghề nghiệp, dân tộc thời đại … vì mỗi con người, tuy là những cá nhân nhưng là thuộc một giới nhất định của xã hội, có cùng nghề nghiệp nhất định và nảy sinh phát triển trong điều kiện của một dân tộc và ở một thời đại cụ thể. Chính đặc trưng giới tính nghề nghiệp, dân tộc, thời đại góp phần làm xác định tính chung của điển hình. Về giới tính: chị dậu điển hình cho phụ nữ nông dân Việt Nam trong thời đại chưa có ánh sáng cách mạng rọi tới. Chị Út Tịch điển hình cho phụ nữ Việt Nam trong thời đại có Ðảng v.v…

Lưu ý: Nói đến đặc trưng tính chung của điển hình chính là xác định bản chất của điển hình. Mà nội dung trọng yếu của nó là bản chất giai cấp. Tính chung của điển hình vì vậy có một nội dung giai cấp rõ ràng chứ không phải tính chung của điển hình là tính người chung chung siêu giai cấp.

Còn hiện tượng một số nét, đặc điểm thuộc bản chất cố hữu giai cấp này, nhưng tìm thấy biểu hiện ở một số cá nhân thuộc giai tầng khác (ví dụ: lénine đã khẳng định về nhân vật Ôblômốp của Gontrasốp là không phải tính người chung chung. Mà là (như đã nói) bản chất giai cấp con người là không thuần khiết mà pha tạp. Muốn cho cá tính có tính khái quát rộng rãi thì người nghệ sĩ không thể chụp ảnh cuộc sống mà phải dùng đến phép “khái quát hóa” – Biện pháp xây dựng hình tượng trong đó nhà văn làm cho hình ảnh biểu tượng cụ thể, cá biệt mang ý nghĩa chung phổ biến và có khả năng phản ánh được thực chất của mọi hiện tượng mọi quá trình nào đó của hiện thực như nhà văn quan niệm. Tchenychevrki: “Nhà văn phải tẩy rữa tính hạn chế của sự vật bằng cách tập trung nhấn mạnh, nghĩa là phải tiến hành khái quát hóa”.

Khái quát hóa là biện pháp cơ bản, tất yếu để làm cho nhân vật trở nên điển hình. Flaubert: “Bao giờ cũng phải xây dựng nhân vật của mình đến mức điển hình tối đa. Ðiểm nổi bật ở các bậc thiên tài lỗi lạc là ở chỗ biết khái quát và sáng tạo, từ toàn bộ những đặc tính của nhiều nhân vật, các bậc thiên tài ấy đã xây dựng thành một nhân vật điển hình”.

Ý nghĩa, giá trị của tính chung là tạo nên giá trị nhận thức rộng rãi, tác dụng mạnh mẽ sâu sắc. Vì, mỗi một nhân vật có tính chung rộng rãi, sâu sắc thì nó như là tấm gương soi, mọi người đều soi thấy bóng dáng mình, nhìn nhận được sự ưu nhược của mình qua tấm gương để người ta sửa chữa. Chẳng hạn giai thoại về AQ trong AQ chính truyện mà Lỗ Tấn đã nêu trong Gào thét.

Tương quan giữa tính riêng và tính chung của tính cách: Tính cách điển hình là sự thống nhất giữa 2 đặc tính chung và tính cá biệt. Tương quan giữa tính chung và tính riêng trong điển hình là tính tương quan giữa cái chung và cái riêng.

Biélinski: “Ðiển hình ở trong nghệ thuật cũng chẳng khác gì loại và dạng ở trong tự nhiên, chẳng khác gì một anh hùng ở trong lịch sử. Ðiển hình là sự thống nhất của sự liên kết hữu cơ giữa 2 cực – cái chung và cái đặc biệt”.

Thể hiện cho bằng được mối liên kết hữu cơ này là yêu cầu có tính chất bắt buộc cho việc xây dựng hình tượng. Biélinski: “Cần phải làm cho nhân vật vừa làm những biểu hiện của cả một thế giới gồm nhiều người, lại vừa là một người, một chính thể, một cá biệt. Chỉ với điều kiện đó, chỉ có thông qua sự điều hòa giữa các mặt đối lập ấy với nhau, thì nhân vật đó mới có thể là một người điển hình”. Engels rất hài lòng về ưu điểm điển hình hóa trong tiểu thuyết “những người cũ và những người mới của Minna Kautski: “Tôi biết bà đã thể hiện nổi bật những cá tính của nhân vật, đó là biệt tài bà thường tỏ ra về phương diện này; mỗi cá tính là một điển hình, nhưng đồng thời là một cá nhân riêng biệt, tức là “con người này” – như ông già Hégel đã nói – và hẳn phải như thế.”

Mối quan hệ xuyên thắm hữu cơ của tính chung và tính riêng trong điển hình là yêu cầu tất yếu. Vì, nghệ thuật yêu cầu nhận thức cuộc sống trong tính sinh động cảm tính của nó. Bản thân cuộc sống – đối tượng của nhận thức nghệ thuật là cái hiện tượng và cái bản chất không tách rời nhau. Nhận thức nghệ thuật không thuần túy lôgich mà còn là tư duy hình tượng: không chia nhỏ đối tượng, không đi từ cá biệt đến trừu tượng mà là một quá trình bao quát đối tượng trong sự thống nhất giữa nội dung bản chất và hình thức ngay từ đầu.

b.  Hoàn cảnh điển hình.

Hoàn cảnh là môi trường hoạt động của nhân vật, là phạm vi hiện thực khách quan tác động đến quá trình hoạt động của nhân vật. Con người tồn tại và phát triển trong những điều kiện tự nhiên và xã hội nhất định. Môi trường này chính là hoàn cảnh của con người. Môi trường hoạt động chủ yếu của con người là môi trường xã hội. Cho nên, nội dung cơ bản của hoàn cảnh : quan hệ xã hội. Trong xã hội có giai cấp, quan hệ xã hội là quan hệ giai cấp.

Hoàn cảnh điển hình là hoàn cảnh của các nhân vật được miêu tả trong tác phẩm, vừa có tính chất tiêu biểu và độc đáo, thể hiện được những tương quan bản chất của đời sống trong những mối liên hệ phát triển biện chứng của chúng với nhau.

Không có người nào là không tồn tại trong một hoàn cảnh. Hoàn cảnh, vì vậy, là việc làm tất yếu để từ đó nhà văn tạo nên tính cách trong quá trình phản ánh. Nhưng phản ánh nghệ thuật không phải là sự sao chép những cảnh ngộ tầm thường mà sự phân tích, phát hiện, thể hiện nội dung chủ yếu, mâu thuẫn cơ bản của những tương quan xã hội.

Yêu cầu của hoàn cảnh điển hình:

Trước hết, hoàn cảnh điển hình là hoàn cảnh thể hiện được những mâu thuẫn cơ bản của xã hội, những tương quan bản chất của đời sống xã hội, những vấn đề cơ bản bức thiết của thời đại. Engels nhấn mạnh đặc trưng này qua việc nhận xét vở kịch “Franz von sickingen” của Lassalle: “Các nhân vật thì thực sự đại biểu cho những giai cấp và những trào lưu nhất định, do đó tiêu biểu cho những tư tưởng nhất định của thời đại họ, và động cơ hành động của họ không phải là những ham thích vụn vặt cá nhân, mà là cái trào lưu lịch sử lôi cuốn họ.”

Hoàn cảnh điển hình không phải là môi trường, bối cảnh đơn thuần, mà là “trào lưu lịch sử” – hoàn cảnh thể hiện được tương quan bản chất của xã hội. Trong thực tế, không phải bất kỳ một tác phẩm văn học nào cũng thể hiện được đặc trưng quan trọng này của hoàn cảnh điển hình. Engel phê phán Cô gái thành thị của Harkness là không điển hình về hoàn cảnh : “Các tính cách của cô khá điển hình trong những giới hạn trong đó những tính cách ấy hành động, nhưng về các hoàn cảnh bao quanh họ bắt họ hành động thì người ta có thể nói là không được điển hình đầy đủ.”

Những sáng tác Tự lực văn đoàn trong văn chương Việt Nam 30 – 45 không xây dựng được một hoàn cảnh điển hình nào. Trong lúc đó Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan, Nam Cao lại xây dựng được những hoàn cảnh điển hình: thể hiện được mâu thuẫn của thời đại một cách sâu sắc – mâu thuẫn giữa nông dân lao động với địa chủ phong kiến, thực dân.

Hoàn cảnh điển hình thể hiện bản chất, quy luật cuộc sống do đó nó không chấp nhận lối miêu tả bên lề cuộc sống (kiểu Tự lực văn đoàn) lối tô hồng hiện thực (kiểu văn học lãng mạn). Hoàn cảnh điển hình là hoàn cảnh đang vận động và phát triển theo quy luật phát triển của xã hội. Vì : bản thân cuộc sống đối tượng của văn chương là vận động phát triển không ngừng. Yêu cầu của nghệ thuật là biểu hiện cuộc sống trong tính sinh động của nó cho nên hoàn cảnh không thể là một bức ảnh chụp, một khung cảnh tĩnh, một hoàn cảnh ngưng đọng hay đứng im. Muốn vậy, nghệ sĩ phải có quan điểm biện chứng, phát triển để nắm bắt hết quy luật vận động của đời sống.

Hoàn cảnh trong văn chương hiện thực phê phán thường là không phát triển (Như Chí Phèo trong Chí Phèo). Hoàn cảnh trong văn học lãng mạn tuy có phát triển nhưng bị lí tưởng hóa theo thiện ý chủ quan của nghệ sĩ (Như Giăng Văngiăng trong Những người khốn khổ…)

Hoàn cảnh trong văn chương hiện thực xã hội chủ nghĩa là một quá trình phát triển (Như Nilốpna, Paven Vlaxốp trong Người mẹ…)

c.  Quan hệ giữa tính cách và hoàn cảnh:

Quan hệ tương hỗ, thúc đẩy lẫn nhau: tính cách được nảy sinh trong một hoàn cảnh nhất định, hoàn cảnh thúc đẩy tính cách phát triển. Là con đẻ của hoàn cảnh, tích cách có tác dụng thúc đẩy hoàn cảnh. Tuy nhiên quan hệ này trong thực tiễn sáng tác không phải mọi phương pháp nghệ thuật đều thể hiện được một chất lượng ngang nhau. Chỉ có đến chủ nghĩa hiện thực mới thể hiện được mối quan hệ này với chất lượng mới.

Engels đã vạch ra đặc trưng, yêu cầu này cho chủ nghĩa hiện thực : “Theo tôi, ngoài chi tiết chân thực, chủ nghĩa hiện thực còn đòi hỏi sự tái hiện những tính cách điển hình trong hoàn cảnh điển hình”.

Hoàn cảnh thúc đẩy tính cách. Hoàn cảnh xác định tính cách: “Tính cách của con người do các hoàn cảnh tạo nên”. Sự phong phú của tâm hồn, tư tưởng của con người tùy thuộc ở sự phong phú của những quan hệ thực tế của con người. Tính cách của chị Dậu hoàn toàn do những quan hệ thực tế của chị với môi trường xung quanh mà có.

Hoàn cảnh vận động và phát triển bắt buộc tính cách vận động và phát triển theo. Cuộc sống không đứng im, đứng im là tương đối, vận động là tuyệt đối. Vì bị đèn nén đến cực độ (hoàn cảnh thúc ép) chị Dậu vùng lên đánh lại người nhà Lí trưởng. Và khi “vùng lên” tính cách chị Dậu đã thay đổi.

Tính cách tác động trở lại hoàn cảnh: Con người là con đẻ của hoàn cảnh, nhưng nó không phải là sản phẩm thụ động của hoàn cảnh. Trong quá trình phát triển, con người ngày càng làm chủ tự nhiên và xã hội, và trở thành chủ thể lịch sử. Con người tạo nên lịch sử. Như thế chính con người tạo nên hoàn cảnh. Văn chương phản ánh đời sống con người không phải chủ yếu là phản ánh cái hoàn cảnh như một lực lượng siêu nhiên đẻ ra những con người, mà phải thể hiện hoàn cảnh do con người tạo nên đó. Engels : “hoàn cảnh sáng tạo ra con người trong chừng mực con người sáng tạo ra hoàn cảnh”.

Truyện Vợ chồng A Phủ: từ cuộc sống tối tăm dưới ách bọn chúa đất, những người nông dân sống như trâu ngựa, được ánh sáng cách mạng soi đường đã vùng lên giải phóng quê hương, làm chủ cuộc sống.

Tóm lại : Tính cách điển hình và hoàn cảnh điển hình là 2 đặc điểm cơ bản nhất của hình tượng  điển hình, chúng làm cho hình tượng điển hình luôn luôn có tính chân thực cao, chúng là thước đo tài năng sáng tạo nghệ thuật của nhà văn. Chính trên ý nghĩa ấy mà Biélinski viết: “Tính cách điển hình là huy chương của nhà văn, là một trong những dấu hiệu nổi bật nhất của sức sáng tạo nghệ thuật và là dấu hiệu của tính mới mẻ trong sáng tác”.

Hãy bình luận đầu tiên

Để lại một phản hồi

Thư điện tử của bạn sẽ không được hiện thị công khai.