Dàn bài phân tích đoạn thơ Việt Bắc (trích “Việt Bắc” của Tố Hữu).

dan-bai-phan-tich-doan-tho-viet-bac-trich-viet-bac-cua-to-huu

Phân tích đoạn thơ Việt Bắc (trích “VIỆT BẮC”) của nhà thơ Tố Hữu.

  • Mở bài:

Tố Hữu (1906 – 2002), là lá cờ đầu trong phong trào thơ ca cách mạng Việt Nam thế kỷ XX. Thơ Tố Hữu là tấm gương phản chiếu tâm hồn một người chiến sĩ cách mạng suốt đời phấn đấu, hi sinh vì tương lai tươi đẹp của dân tộc, cuộc sống hạnh phúc của con người.

“Việt Bắc” là tác phẩm xuất sắc in trong tập thơ cùng tên của Tố Hữu. Bài thơ là khúc ca hùng tráng và cũng là khúc tình ca về cách mạng, về cuộc kháng chiến và con người kháng chiến, thể hiện sự gắn bó, ân tình sâu nặng với nhân dân, đất nước trong niềm tự hào dân tộc… Việt Bắc cũng là khúc hát ân tình chung của những người cách mạng, những người kháng chiến, của cả dân tộc qua tiếng lòng của nhà thơ. Bên cạnh đó, bài thơ còn cất lên âm hưởng anh hùng ca vang dội, đưa ta về với một thời kì lịch sử hào hùng, trọng đại của đất nước.

  • Thân bài:

– Việt Bắc là quê hương cách mạng, là căn cứ địa vững chắc của cuộc kháng chiến, nơi đã che chở đùm bọc cho Đảng, Chính Phủ, bộ đội trong suốt những năm kháng chiến chống Pháp gian khổ. Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, tháng 7 năm 1954, Hiệp định Giơ-ne-vơ về Đông Dương được kí kết, hòa bình trở lại, miền Bắc nước ta được giải phóng. Tháng 10 năm 1954, các cơ quan Trung ương của Đảng và Chính phủ rời chiến khu Việt Bắc về thủ đô Hà Nội. Một trang sử mới của đất nước và một giai đoạn mới của cách mạng được mở ra. Nhân sự kiện trọng đại này, Tố Hữu viết bài thơ “Việt Bắc”.

1. Lời của nhân dân Việt Bắc đối với người về xuôi (20 câu đầu):

a. Giai điệu gợi sự nhớ thương.

– Khổ 1: Tác giả hóa thân vào Việt Bắc để hỏi người cán bộ về xuôi.

+ Chi tiết: “mười lăm năm ấy” → Gợi không khí truyện Kiều và nói đến thời gian của cuộc kháng chiến.

+ Hình ảnh “núi, nguồn”: Không gian Việt Bắc, gợi cội nguồn cách mạng.

→ Nội dung nhân dân Việt Bắc hỏi: Mình về có nhớViệt Bắc, có nhớ cội nguồn Cm không.

+ Sử dụng đại từ: “mình-ta” rất uyển chuyển, biến quan hệ tình yêu man nữ thành tình cảm Cm, vì thế mà nó trở nên sâu sắc.

+ Điệp từ: Nhớ tạo ra âm hưởng chủ đạo bài thơ: Lưu luyến thương nhớ tha thiết.

→ Lời thơ mượt mà, ngôn ngữ dung dị kết hợp với lối điệp từ, điệp câu, nhà thơ đã giúp ngưòi đọc cảm nhận về một thời, một vùng kháng chiến.

– Khổ 2: Tố Hữu nhập vai người cán bộ về xuôi để đáp lại tấm lòng của Việt Bắc.

– Câu hỏi tu từ: “Tiếng ai tha thiết…” →Trĩu nặng cảm xúc thể hiện sự tinh ý của cán bộ, nhận ra tấm lòng và dụng ý của Việt Bắc.

– Cặp từ láy: Bâng khuâng, bồn chồn, kết hợp nhuần nhị, diễn tả đúng tâm trạng lúc chia tay.

– Hình ảnh: “Cầm tay nhau…”, dấu chấm lửng cuối câu và ngắt nhịp có thay đổi 3/3/2 so với câu trước → Tình ý và mức độ xúc động quá lớn nên không nói được thành lời.

→ Với giai điệu tha thiết, lời thơ giàu chất trữ tình, nhà thơ đã khẳng định tấm lòng son sắt thủy chung của người cán bộ kháng chiến.

– Khổ 3, 4, 5: Tố Hữu lại nhập vai Việt Bắc và khơi dậy nỗi nhớ: Bằng hàng câu hỏi đồng dạng về mặt cấu trúc và kết cấu trùng điệp:

– Câu lục: Lúc thì “mình đi”…lúc thì “mình về”…Câu hỏi nào cũng gắn với từ nhớ nhằm khắc sâu tâm trạng.

– Câu bát: Gợi nỗi nhớ cụ thể:

+ Kỉ niệm về một thời kháng chiến: “mưa nguồn, suối lũ, những mây cùng mù, miếng chấm muối, mối thù nặng vai” → Hình ảnh thơ chân thực, gợi cảm, nỗi gian lao vất vả và tinh thần đoàn kết cùng chống kẻ thù chung.

+ Tình nghĩa đồng bào: Nhà thơ mượn cái thừa “trám bùi để rụng, măng mai”…để nói cái thiếu hụt của tình cảm do phải chia xa.

+ Hình thức đối lập: “hắt hiu lau xám >< đậm đà lòng son” → Tuy cuộc sống còn nghèo khó, gian nan nhưng giàu nghĩa tình, luôn thể hiện tấm lòng thủy chung gắn bó với cách mạng của Việt Bắc.

+ Di tích lịch sử trong không khí thiêng liêng, trang trọng → Với những chi tiết, hình ảnh đậm đà trữ tình dân tộc, nhà thơ không chỉ cảm động trước tấm lòng thủy chung nặng tình, nặng nghĩa mà còn bày tỏ tấm lòng biết ơn sâu sắc của mình với Việt Bắc.

b. Giai điệu nhắn nhủ: “Mình đi, mình có nhớ mình…”

– Cái độc đáo của câu thơ: Chữ mình ở ngôi thứ hai được lặp lại ba lần với ý nghĩa rất sâu:

+ Không quên Việt Bắc và đừng đánh mất chính mình.

+ Dự báo về những diễn biến tư tưởng trong giai đoạn hòa bình.

2. Việt Bắc qua lời của người ra đi – nỗi nhớ của người ra đi (Đoạn còn lại).

a. Nhớ cảnh và nhớ người: Người cán bộ về xuôi mang theo nỗi nhớ nhung tha thiết.

– Nhớ cảnh: Cảnh đẹp và thi vị rất Việt Bắc.

+ Một thiên nhiên đẹp, thú vị, nên thơ, rực rỡ, tràn ngập ánh sáng, màu sắc, đường nét đặc tả thiên nhiên bốn mùa. (Chọn đoạn thơ hay từ câu: “Ta về, mình có nhớ ta… Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung” để phân tích rõ, cụ thể hơn, đấy là phong cảnh núi rừng qua bốn mùa, mỗi mùa là một phác họa mang vẻ đẹp riêng): “Bản, khói, sương, bếp lửa, rừng nứa, trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương, mơ nở trắng rừng, tiếng ve kêu, tiếng mõ, tiếng chày nước giã gạo”.

– Nhớ người: nghĩa tình, thủy chung.

+ Con người Việt Bắc đáng yêu vì sống có tình có nghĩa, cần cù nhẫn nại chịu đựng hi sinh để che chở nuôi nấng cán bộ: “Chia xẻ bắp ngô củ sắn, địu con lên rẫy, nguời đan nón, cô em hái măng…”.

+ Sinh hoạt của đồng bào và cán bộ cách mạng cực kì thiếu thốn nhưng vẫn tràn đầy lạc quan, tin tưởng: Trong nỗi nhớ của người ra đi, con người và thiên nhiên hòa quỵên khiến cho những kỉ niệm ấy trở nên thân thương và da thiết, được tái hiện qua lựa chọn từ ngữ, hình ảnh giàu sức gợi, nghệ thuật điệp từ, điệp cấu trúc câu…

b. Nhớ về Việt Bắc anh hùng:

– Phác họa bức tranh Việt Bắc vừa chân thực vừa hoành tráng-thiên nhiên cùng con người đánh giặc cứu nước.

– Nhớ cảnh tượng hào hùng, sôi động, đầy khí thế của cuộc kháng chiến toàn dân ở chiến khu Việt Bắc. Cảnh tượng đó được nhà thơ đặc tả sinh động qua hình ảnh các con đường Việt Bắc trong những đêm kháng chiến, nổi bật là sức mạnh và niềm lạc quan của những lực lượng kháng chiến (8 câu đầu).

– Nhớ về những niềm vui chiến thắng trên khắp mọi miền đất nước: Bằng cách nhắc lại những tên đất, tên làng, tên sông, tên núi…ghi lại nhưng trận đánh từ nhỏ đến lớn và ngày càng dội đến kết thúc thắng lợi.

– Bốn dòng từ: “Ở đâu…..chí bền”: Ý thơ khẳng định vị trí quan trọng của Việt Bắc, lòng tin của toàn dân, toàn Đảng đối với lãnh tụ kính yêu mà nhà thơ gọi một cách vừa tôn kính vừa thân thương là Cụ Hồ.

3. Nghệ thuật biểu hiện:

– Việt Bắc là bài thơ có màu sắc dân tộc đậm đà, tiêu biểu cho pc thơ Tố Hữu. Viết bằng thể thơ lục bát, giọng thơ tâm tình, ngọt ngào, dễ ngâm, dễ hát.

– Nhà thơ sử dụng nhuần nhuyễn thể thơ lục bát, giọng thơ hào hùng, sôi nổi, chọn lựa những hình ảnh có sức gợi cảm, sử dụng linh hoạt, thành công các biện pháp tu từ: Hoán dụ, đối lập, láy từ, điệp âm, thậm xưng… làm nổi bật cảm hứng ngợi ca Việt Bắc, ngợi ca cuộc kháng chiến chống Pháp oanh liệt của nhân dân ta

– Thấm đượm ở đề tài, nội dung, hình thức nghệ thuật, đặc biệt là tình cảm của nhân vật trữ tình ở chiều sâu tư tưởng, cảm xúc: Nhớ về Việt Bắc là căn cứ địa vững chắc và là cơ quan đầu não của cuộc kháng chiến.

  • Kết bài:

Việt Bắc là khúc ân tình chung của những người cách mạng, của cả dân tộc qua tiếng lòng của tác giả. Cái chung hoà trong cái riêng, cái riêng tiêu biểu cho cái chung. Tình cảm, kỉ niệm đã thành ân tình, tình nghĩa với đất nước, với nhân dân và cách mạng.

– Thông qua nỗi nhớ về chiến khu Việt Bắc, tác giả khẳng định lòng biết ơn, lòng thủy chung sắc son của người cán bộ kháng chiến đối với nghĩa tình sâu nặng của quê hương và  con người Việt Bắc


* Tham khảo:

Phân tích chi tiết đoạn thơ Việt Bắc (trích VIỆT BẮC) của nhà thơ Tố Hữu.

  • Mở bài:

Tố Hữu là nhà thơ lớn của thi ca Việt Nam hiện đại. Các chặng đường thơ của Tố Hữu gần như song hành với các giai đoạn đấu tranh cách mạng của đất nước khiến thơ ông mang tính biên niên sử với nội dung trữ tình – chính trị đậm nét. Với sự thể hiện những nét tiêu biểu nhất trong phong cách nghệ thuật thơ Tố Hữu, Việt Bắc không chỉ là đỉnh cao của thơ Tố Hữu mà còn là một trong những thành công xuất sắc của thơ ca thời kì kháng chiến chống Pháp. Việt Bắc được coi là khúc hùng ca và bản tình ca về cách mạng về cuộc kháng chiến và con người kháng chiến.

  • Thân bài:

Việt Bắc là căn cứ địa vững chắc của cách mạng Việt Nam từ đầu những năm 40 tới khi kết thúc cuộc kháng chiến chống Pháp. Nơi đây, người dân Việt Bắc đã từng che chở, đùm bọc và đã sát cánh bên bộ đội, cán bộ kháng chiến để giành và bảo vệ nền độc lập của dân tộc.

Sau chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ, cuộc kháng chiến chống Pháp kết thúc thắng lợi, tháng 10-1954 các cơ quan trung ương của Đảng  và chính phủ từ biệt căn cứ địa cách mạng Việt Bắc trở về Hà Nội. Một loạt những vấn đề đặt ra trong đời sống tình cảm của dân tộc: liệu những người chiến thắng có giữ được tấm lòng thủy chung với đồng bào Việt Bắc và quê hương cách mạng? Có nhớ những tháng ngày gian khổ hào hùng và sâu nặng nghĩa tình trong kháng chiến? Việt Bắc sẽ có vị trí như thế nào trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước trong thời kì mới?…

Nhân sự kiện lịch sử trọng đại ấy của dân tộc, Tố Hữu sáng tác bài thơ Việt Bắc. Bài thơ gồm 2 phần: Phần đầu tái hiện những kỉ niệm của cách mạng và kháng chiến ở Việt Bắc; Phần sau gợi ra viễn cảnh tươi sáng của đất nước và ca ngợi công ơn của Đảng, Bác Hồ đối với dân tộc.

1. Nỗi niềm tâm trạng người ở lại trong sự thấu hiểu, đồng cảm, đồng vọng của người ra đi (24 câu đầu).

Nhà thơ đã khẳng định tình cảm son sắt của người dân Việt Bắc với kháng chiến cũng như sự thủy chung của những người kháng chiến với quê hương cách mạng:

“- Mình về mình có nhớ ta?
(……….)
Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu…”

Bốn câu thơ đầu là khúc dạo đầu ân tình chung thủy và niềm trăn trở nhớ thương của người ở lại với người ra đi. Nội dung chủ yếu của hai cặp câu lục bát này chính là những nỗi niềm da diết được thể hiện trong hai câu hỏi:

“- Mình về mình có nhớ ta?
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.
Mình về mình có nhớ không?
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn”.

“Mình” và “ta” là những đại từ nhân xưng quen thuộc trong ca dao xưa, là cách xưng hô bình dị, thương mến vô cùng của tình yêu đôi lứa. Hai câu hỏi trong đoạn mở đầu đã gợi nhắc tới những câu ca dao nói về cảnh chia tay bịn rịn nhớ nhung của lứa đôi : Mình về có nhớ ta chăng – ta về ta nhớ hàm răng mình cười, hay mình về ta chẳng cho về – ta nắm vạt áo ta đề câu thơ; mình về ta dặn câu này – dặn dặm câu nhớ, dặn vài câu thương; mình về có nhớ ta chăng – ta như  lạt buộc khăng khăng nhớ mình.  Tố Hữu đã mượn một hình thức ngôn từ quen thuộc của văn hóa dân gian để gửi gắm những nội dung tình cảm lớn lao của thời đại mới; những câu ca ngọt ngào của tình yêu đã trở thành những câu hỏi xao xuyến của nghĩa tình cách mạng, thể hiện nỗi nhớ nhung của người ở lại với người về xuôi.

Đoạn thơ sử dụng phép lặp quen thuộc trong ca dao xưa khiến nỗi nhớ trở nên miên man, da diết không thể nguôi ngoai; cũng đồng thời tạo nên âm hưởng day dứt, trăn trở góp phần thể hiện một trong những cảm hứng chủ đạo của bài thơ: liệu những người chiến thắng có giữ được tấm lòng chung thủy, có mãi nhớ tất cả những gì đã góp phần làm nên chiến thắng? Hai câu thơ lục bát có tới 4 chữ mình và chỉ có 1 chữ ta. Tương quan ngôn từ ấy đã đem lại cảm giác hình ảnh người ra đi tràn ngập không gian, đầy ắp trong nỗi nhớ của người ở lại, cũng đồng thời gợi một chút đơn côi, lặng thầm cho hình ảnh người ở lại nơi núi rừng hoang vắng, hắt hiu…

Nỗi niềm người ở lại được thể hiện trước hết trong câu hỏi hướng về thời gian:

“- Mình về mình có nhớ ta?
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng”.

Trong tiếng Việt, đại từ “ấy” luôn khiến những danh từ chỉ thời gian đứng trước nó bị đẩy về một quá khứ thật xa xăm, trở thành khoảng thời gian gợi nỗi nhớ thương, ngậm ngùi, tiếc nuối. Câu thơ cũng đồng thời gợi liên tưởng đến câu Kiều đằm thắm về mười lăm năm ấy biết bao nhiêu tình – một liên tưởng thấm thía cảm động bởi sự gợi nhắc tình sâu nghĩa nặng giữa Việt Bắc và những người kháng chiến. Trong câu thơ của Việt Bắc, “mười lăm năm ấy” là khoảng thời gian từ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh (1941-1945), và sau đó là những năm tháng kháng chiến chống Pháp (1946-1954), là khoảng thời gian Việt Bắc trở thành căn cứ địa của cách mạng, trở thành Thủ đô gió ngàn, đó là thời gian mà ta và mình từng gắn bó, chia ngọt sẻ bùi với biết bao nhiêu tình sâu nghĩa nặng, biết bao nhiêu thiết tha mặn nồng.

Nếu câu hỏi thứ nhất “Mình về mình có nhớ ta?” Làm xao xuyến lòng người khi phảng phất bóng dáng những câu ca về tình yêu thì câu hỏi thứ hai Mình về mình có nhớ không? Lại khiến người nghe trăn trở suy ngẫm về sự tha thiết, nghiêm nghị trong giọng điệu thơ. Câu thơ này hướng tới không gian:

“Mình về mình có nhớ không?
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn”.

Hai vế của câu thơ đan xen những hình ảnh của cả miền xuôi như cây, sông và miền núi như núi, nguồn. Hoàn cảnh chia xa, nỗi nhớ và sự gắn bó khăng khít đã hiện ngay trong cả chia tách và đan xen hòa quyện của ngôn từ. Nhìn cây, nhìn sông là những hình ảnh nhắc tới một thực tế chắc chắn trong tương lai khi người kháng chiến đã về xuôi, đã sống với quê hương, với đồng bằng, vì thế cũng có thể coi là biểu tượng cho việc trở về của người kháng chiến với chốn đô hội phồn hoa; còn nhớ núi, nhớ nguồn là để tâm hồn trở về với quá khứ, với Việt Bắc, điều này có xảy ra hay không còn tùy thuộc vào sự thủy chung của người ra đi. Câu thơ thể hiện mối tương quan giữa thực tế và mong đợi khiến những vế câu như tiềm ẩn một chữ có trăn trở: nhìn cây có nhớ núi, nhìn sông có nhớ nguồn, về xuôi rồi có còn nhớ Việt Bắc…?

Trong câu hỏi thứ hai, bên cạnh nỗi nhớ nhung, niềm trăn trở của người ở lại, ý thơ là đem đến những suy ngẫm sâu xa về nghĩa tình, đạo lí, cội nguồn chung thủy, về nét đẹp trong đời sống tinh thần của một dân tộc luôn nhắc nhau : uống nước nhớ nguồn. Đây cũng là một lẽ sống cao cả, một tình cảm lớn đã nhiều lần xuất hiện trong thơ Tố Hữu:

“Ngọt bùi có nhớ lúc đắng cay
Ra sông nhớ suối, có ngày nhớ đêm”

Bốn câu tiếp thoe là cảnh tiễn đưa bâng khuâng trong nỗi lưu luyến nhớ nhung của người đi kẻ ở:

“- Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân ly
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay…”

Câu thơ đầu nhắc tới “Tiếng ai tha thiết bên cồn” cho thấy những nhớ nhung xao xuyến, những day dứt trăn trở trong lòng người ở lại đã được người ra đi thấu hiểu, cảm nhận. “Ai” chính là người ở lại, nhưng tính chất phiếm chỉ đã đem lại cảm giác những câu hỏi tha thiết ở 4 câu đầu là tiếng của ai đó chưa nhìn rõ mặt, mới chỉ như những âm thanh vọng từ cỏ cây, núi rừng Việt Bắc, là tiếng lòng của người ở lại, tuy nhiên, sự tri âm tri kỉ, đồng thanh tương ứng đã khiến họ thấu hiểu lòng nhau, người ở lại thiết tha, người ra đi thiết tha, hô ứng, đồng cảm, đồng vọng.

Những âm thanh ấy cứ quấn quýt, vương vấn theo từng bước chân khiến người đi: “Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi”. Sự đăng đối trong hai vế câu thơ đã góp phần thể hiện sự đăng đối đồng điệu trong cảm xúc con người. Bâng khuâng là từ láy gợi ra những trạng thái cảm xúc mơ hồ khó tả bởi sự đan xen buồn vui, luyến tiếc, nhớ nhung khiến con người như ngơ ngẩn. Bồn chồn là tâm trạng thấp thỏm nôn nao khiến con người không yên, tuy cũng là từ láy miêu tả trạng thái cảm xúc nhưng bồn chồn nhiều khi không dừng lại ở những nỗi niềm trong tâm tưởng mà còn có thể ngoại hiện trong ánh mắt, dáng vẻ, hành động… vì thế, câu thơ không chỉ thể hiện nỗi bịn rịn, nhớ nhung trong lòng mà còn gợi tả cả những bước chân ngập ngừng, lưu luyến của người đi.

Trong giờ phút chia li, nếu tiếng ai là những âm thanh mơ hồ vì thực ra nó là tiếng lòng người ở lại, là tiếng vọng từ trong tâm tưởng, trong cảm nhận của người ra đi thì hình ảnh chiếc áo chàm lại cụ thể đến nao lòng:

“Áo chàm đưa buổi phân li”

Đây là biểu tượng đơn sơ mà xúc động về những người dân Việt Bắc nghèo khổ, nghĩa tình. Sắc áo chàm có thể nhòa mờ trong khói sương rừng núi nhưng sẽ vĩnh viễn in đậm trong nỗi nhớ thương của người về xuôi. Hình ảnh hoán dụ về chiếc áo chàm vừa gợi ra trang phục đặc trưng của người Việt Bắc vừa khắc họa tính cách mộc mạc, tấm lòng son sắt của họ với cách mạng, với kháng chiến. Câu thơ đồng thời cho thấy sự xót xa và niềm cảm phục, thương mến của người đi với những người Việt Bắc.

Những nỗi niềm lưu luyến trong cảnh chia tay được thể hiện rõ nét trong cử chỉ cầm tay nhau chứa chan ân tình xúc động; trong sự lặng im vì biết nói gì hôm nay, khi mọi lời nói đều bất lực, đều không thể diễn tả những nỗi niềm đang dâng trào mãnh liệt; sự ngập ngừng đặc biệt hiện ra trong nhịp thơ 3/3/2 bồn chồn day dứt thay thế cho nhịp chẵn êm đềm thông thường của thể thơ lục bát:

“Cầm tay nhau, biết nói gì hôm nay”

Đoạn thơ đã miêu tả cảnh chia tay giữa người dân Việt Bắc với những người kháng chiến từ nỗi bâng khuâng trong tâm trạng, sự ngập ngừng mỗi bước chân đi, cử chỉ cầm tay nhau thân thương, trìu mến cho đến cả sự im lặng không lời đầy cảm xúc…bốn câu thơ vừa là sự đồng vọng, nhớ nhung của người về xuôi với người ở lại, vừa tái hiện cảnh tiễn đưa bịn rịn, lưu luyến sâu nặng nghĩa tình trong ngày chiến thắng.

Những nỗi niềm băn khoăn trăn trở của người ở lại tiếp tục thể hiện trong 6 câu hỏi của đoạn thơ tiếp theo:

“- Mình đi, có nhớ những ngày
Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù?
Mình về, có nhớ chiến khu
Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai?
Mình về, rừng núi nhớ ai
Trám bùi để rụng, măng mai để già”

Nếu hai câu hỏi ở phần đầu mới chỉ gợi ra hình ảnh khái quát của quá khứ mười lăm năm ấy với những gắn bó thiết tha, của chiến khu Việt Bắc với núi với nguồn thân thuộc thì những câu hỏi trong đoạn thơ sau đã hướng tới những kỉ niệm thật cụ thể, xúc động. Đoạn thơ gồm 6 câu hỏi của người ở lại với người ra đi, những câu hỏi dồn dập, gấp gáp bởi nỗi nhớ trào dâng khi giờ phút chia tay đang đến gần. Sự đắp đổi nhịp nhàng trong điệp ngữ ở các câu 6 mình đi có nhớ…mình về có nhớ…; sự đăng đối trong 2 vế của các câu 8 với nhịp 4/4, đó là những yếu tố tạo nên nhịp điệu ngân nga, dìu dặt ngọt ngào cho đoạn thơ. Nhịp điệu trữ tình ấy đã góp phần thể hiện sự tinh tế nỗi vấn vương xao xuyến giăng mắc trong lòng kẻ ở lẫn người đi kể từ đó, quá khứ đầy ắp những kỉ niệm ngọt ngào trở về.

Trong những lời nhắc nhở da diết của người ở lại với người ra đi, Việt Bắc hiện lên thật sống động từ những khắc nhiệt của thiên nhiên với mưa nguồn, suối lũ, lau xám, mây mù…tới cuộc sống kháng chiến gian khổ, thiếu thốn với miếng cơm chấm muối, từ những trang sử hào hùng khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh tới những sự kiện trọng đại của cách mạng và kháng chiến nơi Tân Trào, Hồng Thái…

Những câu hỏi tha thiết của người ở lại đã làm rõ cội nguồn tạo nên sự gắn bó sâu nặng giữa mình và ta, giữa đồng bào Việt Bắc và những người kháng chiến. Họ đã cùng nhau chia sẻ từ những gian khổ thiếu thốn khi nhường nhau miếng cơm chấm muối đến những tâm tư nỗi niềm khi chung nhau mối thù nặng vai; họ đã sát cánh bên nhau trong những năm tháng ác liệt hào hùng từ thời mặt trận Việt Minh tới 9 năm kháng chiến chống Pháp…sự chia sẻ trong quá khứ tạo nên sự gắn bó trong hiện tại và nghĩa tình thủy chung trong tương lai. Gian truân vất vả chỉ càng làm ngời lên vẻ đẹp trong tâm hồn của những người dân Việt Bắc nghèo khổ mà sắc son, trung hậu, nghĩa tình, một lòng với cách mạng và kháng chiến.

Những gắn bó ân tình suốt 15 năm ấy đã làm tăng thêm nỗi nhớ nhung và cảm giác chống vắng cho núi rừng khi chia biệt:

“Mình về, rừng núi nhớ ai
Trám bùi để rụng, măng mai để già”

Câu 6 vẫn mang hình thức của một câu hỏi nhưng không dùng để hỏi người đi mà chỉ để thể hiện nỗi lòng người ở lại. Rừng núi là hoán dụ cho người dân Việt Bắc ở lại nơi rừng xanh núi đỏ heo hút, hoang sơ, ai chính là mình, người ra đi. Nỗi nhớ nhung và một chút mặc cảm ngậm ngùi được bộc lộ gián tiếp qua cách nói tránh và cấu trúc câu nghi vấn khiến ý thơ càng thêm xao xuyến. Tính chất phiếm chỉ khiến hình ảnh người đi càng trở nên xa xôi hơn trong ánh mắt nhớ nhung của những người dân Việt Bắc mộc mạc, chân thành. Câu 8 gồm 2 vế đối xứng nhắc đến trám rừng và măng mai là những sản vật quen thuộc và quý giá của núi rừng. Phép điệp trong cấu trúc để rụng…để già gợi nên hình ảnh cuộc sống như ngưng trệ, núi rừng như hoang phế sau lưng người đi cùng cảm giác buồn bã, hụt hững, trống trải trong lòng người ở lại. Dường như sau khi người ra đi, trám bùi trên cây không ai hái, rụng xuống đất không ai nhặt, măng mai để già hoang phí giữa rừng sâu – người ra đi đã để lại một khoảng trống mênh mông trong lòng người Việt Bắc giữa heo hút núi rừng.

Sự gắn bó khiến họ thêm hiểu nhau, thêm thương cảm và trân trọng. Câu hỏi: “Mình đi, có nhớ những nhà / Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son” là một lời nhắc nhở cảm động với người ra đi: xin đừng bao giờ quên những con người nghèo khổ mà son sắc kiên trung, một lòng đi theo cách mạng và kháng chiến.

Phép tương phản trong 2 tiểu đối của câu 8 đã trở thành những nét khắc họa đặc trưng nhất cho cuộc sống và con người Việt Bắc. “Hắt hiu lau xám” vừa là hình ảnh thực gợi tả không gian hoang vắng, tiêu sơ, buồn bã của núi rừng, vừa mang ý nghĩa ẩn dụ cho cuộc sống nghèo khổ của nhân dân nơi đây. Nhà là hoán dụ cho con người, đậm đà lòng son là những hình ảnh ẩn dụ ca ngợi tấm lòng trung hậu, nghĩa tình của những người dân Việt Bắc nghèo khổ. Và có lẽ chính màu lau xám hắt hiu của núi rừng càng làm đậm thêm những tấm lòng son sắt, thủy chung:

“Mình về, còn nhớ núi non
Nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh
Mình đi, mình có nhớ mình
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa?”

Câu thơ “Mình đi, mình có nhớ mình” có nhiều cách hiểu căn cứ vào những nét khác nhau của từ mình ở cuối câu thơ. Có thể hiểu chữ mình ấy là ta – người ở lại, khi ấy, câu hỏi sẽ xao xuyến một nỗi nhớ nhung, day dứt một niềm trăn trở: mình về mình có nhớ ta – mình đi, mình có còn nhớ đến ta không, đây cũng là nỗi niềm da diết trong suốt bài thơ. Cách hiểu cho thấy sự hòa nhập gắn kết thật đằm thắm giữa ta và mình, tuy hai mà một, không thể chia xa, không thể tách lời. Lại cũng có thể hiểu mình là người ra đi. Và khi ấy, câu hỏi sẽ là một lời nhắc nhở tha thiết, sâu xa và nghiêm nghị: mình đi, mình có nhớ và có giữ được mãi là con người mình khi xưa ấy, con người mà ta đã yêu mến, trân trọng, nhớ thương; có mãi còn là con người bất khuất, nghĩa tình thủy chung nhân hậu đã sát cánh bên ta trong kháng chiến, đã cùng ta chia ngọt sẻ bùi trong suốt mười lăm năm ấy? Câu hỏi vì thế cũng trở thành lời nhắc: Đừng đánh mất chính con người mình trong cuộc sống phồn hoa đô hội, đừng bao giờ quên mảnh trăng giữ rừng khi đã trở về với ánh đèn thành phố, đừng bao giờ quên những năm tháng kháng chiến gian khổ, hào hùng khi trở về với cuộc sống hòa bình!

Sau câu hỏi “Mình đi, mình có nhớ mình”, câu 8 khẳng định lại một lần nữa tấm lòng gắn bó sắc son của Việt Bắc với cách mạng và kháng chiến, lí do của tình yêu, nỗi nhớ và đạo lí thủy chung trong lòng người đi:

Mình đi, mình có nhớ mình
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa?”

Câu thơ đã được nhà thơ gửi gắm những tầng nghĩa sâu sắc khi mái đình Hồng Thái, cây đa Tân Trào được tách ra trong 2 vế với những tập hợp ngôn từ mới mẻ. Vế thứ nhất là 2 danh từ riêng: Tân Trào, Hồng Thái, đó là những địa danh gắn liền với những sự kiện lịch sử quan trọng của dân tộc và kháng chiến: Đình Hồng Thái là nơi họp Quốc dân đại hội tháng 8-1945, thành lập ủy ban dân tộc giải phóng và phát lệnh Tổng khởi nghĩa; bên gốc đa Tân Trào, đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân đã là lễ xuất phát chuẩn bị cho tổng khởi nghĩa. Vế sau là 2 danh từ chung trong đó mái đình cây đa chính là những hình ảnh bình dị, quen thuộc của làng quê Việt Nam, là nơi tụ họp, hẹn hò, là không gian gần gũi thân yêu với cả cộng đồng và đôi lứa. Hai tiểu đối trong câu thơ đã thể hiện sự gắn bó sâu sắc của người dân với cách mạng và kháng chiến: Khi Việt Bắc trở thành quê hương cách mạng, khi người dân Việt Bắc một lòng đi theo cách mạng thì những sự kiện lớn lao của cách mạng sẽ trở thành sự quan tâm sâu sắc, thiêng liêng, thành những tâm tư sâu nặng trong lòng người; những địa danh gắn với các sự kiện quan trong của cách mạng và kháng chiến cũng trở nên gần gũi như cây đa, bến nước, con đò, tình cảm của người dân Việt Bắc dành cho những người kháng chiến cũng trở nên thân yêu như tình làng nghĩa xóm hay tình yêu đôi lứa…

Có thể nhận ra ngôn ngữ giao đối trong đoạn thơ đầu, khi sau những câu hỏi trăn trở của người ở lại là những đồng vọng xao xuyến của người ra đi. Và bây giờ, sau rất nhiều những câu hỏi băn khoăn, nhớ nhung của người Việt Bắc, 4 câu cuối của đoạn thơ tiếp tục khẳng định nỗi nhớ, sự thủy chung son sắt của người ra đi từ biệt quê hương cách mạng về xuôi:

“- Ta với mình, mình với ta
Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh
Mình đi, mình lại nhớ mình
Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu…”

Câu thơ đầu gồm hai tiểu đối trong đó nhà thơ sử dụng phép lặp đan xen giữa ta – mình cùng từ với như một thứ keo gắn kết Ta với mình, mình với ta. Kết cấu ngôn ngữ đặc sắc ấy đã gợi tả sự quấn quýt, giao hòa giữa người đi, kẻ ở khăng khít không thể tách rời. Sau câu thơ thể hiện sự gắn bó thân thiết giữ mình và ta là một lời khẳng định sắt son của người ra đi:

“Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh”.

Nghĩa tiếng Hán của cụm từ sau trước chính là thủy chung, sống có trước có sau là đạo lí thủy chung truyền thống của người Việt Nam từ bao đời nay. Nhưng với những ý nghĩa của cụm từ sau trước, ý nghĩa thơ không chỉ khẳng định sự thủy chung mà còn lí giải sự thủy chung một cách sâu xa, thuyết phục. Sau trước còn gợi một khoảng thời gian dài từ trước đến sau, từ quá khứ qua hiện tại đến tương lai, thức lâu mới biết đêm dài, thời gian khiến con người thêm hiểu lòng nhau. Khi đã có những năm tháng gắn bó trong quá khứ, khi cùng nhau chung vai gánh vác những khó khăn gian khổ, cùng nhau chia sẻ những tâm tình, tình cảm giữa họ thêm mặn mà, đằm thắm; đinh ninh là chắc chắn, là không quên, không đổi, tình cảm đã mặn mà trong quá khứ sẽ mãi bền chặt theo thời gian, không bao giời nhạt phai, thay đổi.

Hai câu cuối như một lời thề chung thủy:

“Mình đi, mình lại nhớ mình
Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu…”

Nếu người ở lại băn khoăn trăn trở trong một câu hỏi hàm chứa bao ý nghĩa sâu xa: Mình đi, mình có nhớ mình thì người đi cũng trả lời trong một sự hô ứng, đồng vọng, đồng cảm: Mình đi mình lại nhớ mình. Vẫn là cách sử dụng tinh tế đại từ mình ở cuối câu thơ với nhiều nét nghĩa: Nếu hiểu mình là người ở lại, câu trả lời của người đi thể hiện nỗi nhớ nhung tha thiết của những con người có sự gắn bó, hòa nhập sâu sắc bởi ta với mình tuy một mà hai; nếu hiểu mình là người đi, câu thơ sẽ là lời khẳng định: Ánh đèn thành phố và cuộc sống hòa bình sẽ không bao giờ có thể khiến người trở về quên vầng trăng tình nghĩa, không bao giờ quên quá khứ đẹp đẽ, nghĩa tình, càng không bao giờ đánh mất chính mình, không bao giờ phụ tình yêu thương của Việt Bắc.

Câu 8 xuất hiện một hình ảnh so sánh phảng phất phong vị ca dao đình bao nhiêu ngói thương mình bấy nhiêu. Hình ảnh Nguồn bao nhiêu nước, nghĩa tình bấy nhiêu trước hết đã nhấn mạnh sắc thái và mức độ của nỗi nhớ. Nỗi nhớ vốn là một khái niệm trìu tượng, nay được cụ thể hóa, được định lượng hiện hữu như nước trong nguồn, đầy ắp, lặng thầm và vô tận; sau nữa, hình ảnh nước trong nguồn còn gợi những suy ngẫm sâu xa về nguồn cội, về đạo lí thủy chung tình nghĩa Uống nước nhớ nguồn, hình ảnh so sánh trong câu thơ còn như thầm đáp lại sự trăn trở của Việt Bắc: “Mình về mình có nhớ không – Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn?”

2. Nỗi nhớ sâu sắc của người ra đi với thiên nhiên, con người Việt Bắc, với cuộc sống sinh hoạt thời kháng chiến.

Nhà thơ đã thể hiện nỗi nhớ sâu đậm của người ra đi với những vẻ đẹp thơ mộng của thiên nhiên Việt Bắc:

“Nhớ gì như nhớ người yêu
Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương
Nhớ từng bản khói cùng sương
Sớm khuya bếp lửa người thương đi về.
Nhớ từng rừng nứa bờ tre
Ngòi Thia sông Ðáy, suối Lê vơi đầy

Cả 3 cặp câu lục bát đều bắt đầu bằng một chữ nhớ thật tha thiết. Sắc thái và mức độ của nỗi nhớ được miêu tả qua một so sánh ngọt ngào, thấm thía:

“Nhớ gì như nhớ người yêu”.

Nhớ người yêu là nỗi nhớ ám ảnh, thường trực, không thể nguôi ngoai, vơi cạn, một nỗi nhớ nhiều khi mãnh liệt đến phi lí như cảm nhận của Xuân Diệu: “Uống xong lại khát là tình / Gặp rồi lại nhớ là mình với ta”, đó là nỗi nhớ từng khiến chính Tố Hữu đã ngạc nhiên: “Lạ chưa, vẫn ở bên em – Mà anh vẫn nhớ, vẫn thèm gặp em”. Có thể coi đây là một so sánh thể hiện sắc thái đặc biệt nhất và mức độ cao nhất cho nỗi nhớ của con người. Qua so sánh ấy, Tố Hữu đã bộc lộ sự gắn bó sâu nặng và nỗi nhớ thương của người về xuôi với mảnh đất và con người Việt Bắc.

Và có lẽ chính sự liên tưởng ngọt ngào tới tình yêu đã khiến những hình ảnh sau đó của thiên nhiên Việt Bắc cũng thấm đẫm hương vị tình yêu. Từng cảnh vật của Việt Bắc trong mọi thời gian và không gian đã liên tiếp, dồn dập hiện ra trong nỗi nhớ của người đi: Việt Bắc khi thơ mộng với ánh trăng bàng bạc thấp thoáng nơi đầu núi, khi ấm áp nhạt nhòa trong ánh nắng chiều lưng nương, lúc lại mơ hồ huyền ảo giữa những bản khói cùng sương, và nhất là luôn nồng đượm ân tình bởi sự quấn quýt với hình ảnh con người khi sớm khuya bếp lửa người thương đi về…

Nếu trong câu thơ đầu, người Việt Bắc mới chỉ hiện lên trong so sánh với nỗi nhớ người yêu thì tới câu thơ này, họ đã thực sự trở thành người thương trong lòng người về xuôi. Những cảnh vật ở Việt Bắc dù có tên như ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê hay không tên như bờ tre, rừng nứa…, tất cả đều in đậm trong nỗi nhớ của người ra đi, đó là nỗi nhớ không thể nguôi ngoai, vơi cạn dù nước suối sông có lúc vơi đầy. Từ nhớ và cụm từ nhớ từng điệp lại nhiều lần trong đoạn thơ cho thấy nỗi nhớ da diết sâu đậm của người đi không chỉ với những cảnh vật cụ thể, thân thuộc mà còn là nỗi nhớ bao trùm, toàn vẹn với tất cả những gì thuộc về Việt Bắc.

Thấp thoáng hiện ra trong bức tranh rừng núi ở đoạn trên, đến đoạn thơ sau (31- 42), người Việt Bắc đã trực tiếp xuất hiện qua những hoài niệm xúc động về cuộc sống sinh hoạt thời kháng chiến:

“Thương nhau, chia củ sắn lùi
Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng
Nhớ người mẹ nắng cháy lưng
Ðịu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô
Nhớ sao lớp học i tờ
Ðồng khuya đuốc sáng những giờ liên hoan
Nhớ sao ngày tháng cơ quan
Gian nan đời vẫn ca vang núi đèo.
Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều
Chày đêm nện cối đều đều suối xa…

Ta về, mình có nhớ ta
Ta về ta nhớ những hoa cùng người”

Như để trả lời câu hỏi tha thiết của người dân Việt Bắc: “Mình đi có nhớ những ngày”, người đi đã khẳng định: “Ta đi ta nhớ những ngày”, và ngay sau đó là sự lí giải thấm thía, chân tình cho nỗi nhớ: Mình đây ta đó, đắng cay ngọt bùi – họ đã từng bên nhau trong suốt mười lăm năm ấy, từ khi kháng Nhật thuở Việt Minh cho đến những năm tháng kháng chiến chống Pháp, đã từng chung vai sát cánh, đã từng chia sẻ với nhau bao cay đắng, ngọt bùi từ mưa nguồn suối lũ, lau xám, mây mù cho đến bát cơm chấm muối, mối thù nặng vai, cùng nhau viết nên những trang sử hào hùng oanh liệt nơi Tân Trào, Hồng Thái… Những ngày tháng ấy đã làm nên sự gắn bó, thấu hiểu, nghĩa tình. Và đó cũng là nguyên nhân làm nên nỗi nhớ sâu đậm của người ra đi với người ở lại.

Mở đầu cả đoạn thơ nói về nỗi nhớ là một chữ thương xót lòng, sau đó, quá khứ đã hiện ra với cả gian truân và tình nghĩa:

“Thương nhau, chia củ sắn lùi
Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng”

“Sắn lùi”, “bát cơm sẻ nửa”, “chăn sui” là những hình ảnh cụ thể và chân thực cho thấy cuộc sống kháng chiến không chỉ có kẻ thù mà còn có cả cái đói, cái rét, họ đã cùng đồng bào Việt Bắc vượt qua những khó khăn, thử thách không chỉ bằng sức mạnh của lòng dũng cảm mà còn bằng sức mạnh của tình thương. Những động từ chia…sẻ…đắp cùng đã thể hiện những nghĩa tình cảm động giữa người dân Việt Bắc và bộ đội, cán bộ, họ đã chia sẻ vói nhau từng miếng ăn ngày đói đến hơi ấm trong đêm lạnh. Tình thương đã đem đến cho họ sức mạnh để chiến đấu và chiến thắng, tình thương cũng là cội nguồn sâu xa nhất của nỗi nhớ nhung và tình nghĩa thủy chung.

Hình ảnh cuộc sống gian khổ, đói nghèo và sự vất vả, cực nhọc của người dân Việt Bắc trong những công việc thầm lặng hằng ngày góp phần phục vụ cách mạng và kháng chiến đã trở thành nỗi nhớ xót xa trong lòng người đi:

Nhớ người mẹ nắng cháy lưng
Ðịu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô

Câu thơ miêu tả hình ảnh cụ thể, quen thuộc trong cuộc sống hằng ngày của người dân Việt Bắc: Những người mẹ địu con cùng đi làm rẫy, làm nương. Hai thanh sắc liên tiếp trong cụm từ nắng cháy cùng hàm nghĩa ẩn dụ không chỉ gợi ra cả một vạt nương ngập nắng, gợi ra những tia nắng gay gắt chói chang làm cháy rát lưng người mà còn khiến câu thơ như nhói lên niềm thương xót. Câu thơ sau có tới ba động từ: Địu…lên…bẻ như muốn thể hiện công việc vất vả,cơ cực của người mẹ Việt Bắc, nhưng đổi lại thành quả lao động lại chỉ là từng bắp ngô nhỏ nhoi, ít ỏi. Không gian làm việc khắc nghiệt cùng sự tương phản giữa công việc và thành quả cho thấy sự cực nhọc của con người trong cuộc sống lao động phục vụ kháng chiến, làm tăng thêm cả nỗi xót thương lẫn niềm cảm phục trong trái tim người đi.

Người ra đi không chỉ nhớ những hình ảnh của cuộc sống đói nghèo hay gian nan vất vả, tâm trí họ còn in đậm những kỉ niệm đẹp đẽ, thân thương, những nếp sống yên bình thơ mộng của cuộc sống núi rừng thời kháng chiến. Nỗi nhớ hướng tới những lớp học i tờ – hình ảnh cảm động của phong trào Bình dân học vụ, xóa nạn mù chữ ngày đầu kháng chiến; hình ảnh gợi tới những tiếng đánh vần ngọng nghịu, những nét chữ viết vụng về, những say mê, háo hức của người dân miền núi khi được học con chữ của cách mạng, của Bác Hồ trong những lớp học tranh thủ ngoài thời gian lao động và chiến đấu:

“Nhớ sao lớp học i tờ
Ðồng khuya đuốc sáng những giờ liên hoan”

Nỗi nhớ còn hướng tới những đêm liên hoan đầm ấm giữa người dân Việt Bắc với cán bộ kháng chiến, nhớ từ âm thanh tha thiết của tiếng ca vang núi đèo tới những lung linh, náo nức của đồng khuya đuốc sáng:

“Nhớ sao ngày tháng cơ quan
Gian nan đời vẫn ca vang núi đèo”.
Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều
Chày đêm nện cối đều đều suối xa…

Những cảnh tượng bình dị, thân thuộc của cuộc sống nơi núi rừng còn hiện ra trong những âm thanh rất gợi cảm của tiếng mõ rừng chiều, tiếng chày đêm nện cối, tiếng suối thoảng xa vời vợi…, những âm thanh vừa gợi cảm giác êm đềm, yên ả, vừa phảng phất chút hoang vắng tiêu sơ, cho thấy tình cảm thắm thiết, nỗi nhớ thương sâu đậm, nỗi xao xuyến bùi ngùi của người ra đi với cuộc sống và con người nơi chiến khu Việt Bắc.

Vẻ đẹp thiên nhiên và con người Việt Bắc qua bức tranh tứ bình:

“Ta về, mình có nhớ ta
(…..)
Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung
“.

Đây là đoạn thơ đặc sắc nhất thể hiện sinh động và thấm thía nỗi nhớ nhung tha thiết của người ra đi với cảnh và người Việt Bắc. Trong đoạn thơ, thiên nhiên và con người Việt Bắc đã hiện lên với những sắc màu, dáng vẻ thân thuộc, đẹp đẽ và bình dị, thấm đượm tình thương nỗi nhớ của người đi.

Mở đầu đoạn tứ bình là hai câu chủ đề:

“Ta về, mình có nhớ ta
Ta về ta nhớ những hoa cùng người”

Đây là câu hỏi đầu tiên từ phía người đi, một câu hỏi ngọt ngào, phảng phất hương vị của tình yêu; có thể thấy người ra đi hỏi mà không chờ lời đáp, không có sự băn khoăn, trăn trở, hỏi chỉ để bộc lộ nỗi bồi hồi xao xuyến phút chia xa. Và có lẽ cũng vì thế nên ngay sau câu hỏi đã là lời khẳng định: Ta về, ta nhớ những hoa cùng người. Hai câu thơ đầy ắp những ta và mình, những mình nhớ, ta nhớ…Yếu tố điệp của ngôn từ cho thấy hình ảnh họ đầy ắp trong lòng nhau và nỗi lưu luyến nhớ thương cứ giăng mắc như tơ vương quấn quýt.

Nỗi nhớ của người đi hướng tới hoa cùng người. “Hoa” có thể hiểu theo nghĩa cụ thể với hoa chuối đỏ tươi hay hoa mơ nở trắng rừng…; nhưng cũng có thể hiểu hoa là hình ảnh hoán dụ cho vẻ đẹp của thiên nhiên, cảnh sắc. Khi về xuôi, người kháng chiến da diết nhớ về thiên nhiên và con người Việt Bắc, hai đối tượng ấy thật ra không thể tách rời mà luôn hòa quyện, gắn bó, sự gắn bó được thể hiện ngay trong các từ những, cùng kết nối, quấn quýt giữa hoa và người. Để làm rõ hơn điều đó, trong 8 câu thơ sau, cứ một câu nói về nỗi nhớ với thiên nhiên lại tiếp đến một câu bộc lộ nỗi nhớ với con người. Kết cấu này khiến đoạn thơ mang bóng dáng thể hứng trong ca dao (Trên trời có đám mây xanh…), nhưng nếu trong ca dao, cảnh chủ yếu để tạo cảm hứng cho tình – tức cảnh sinh tình, thì trong đoạn thơ của Việt Bắc, cảnh vừa là nền cho con người xuất hiện , vừa là một phần trong nỗi nhớ của người ra đi bên cạnh nỗi nhớ sâu đậm với con người.

Tám câu sau là bức tranh thiên nhiên và con người Việt Bắc trong nỗi nhớ của người ra đi. Có thể coi 8 câu thơ này là một bức tranh tứ bình đặc sắc của núi rừng Việt Bắc. Tuy nhiên, khác những bộ tứ bình truyền thống tả cảnh theo trình tự: Xuân, hạ, thu, đông; bốn mùa của Việt Bắc hiện ra trong hai thời điểm của quá khứ và hiện tại. Mùa đông, mùa xuân, mùa hạ là những cảnh sắc hiện lên trong hoài niệm về quá khứ khi thời gian đã sàn lọc để kí ức người ra đi chỉ lưu giữ lại những ấn tượng sâu sắc, đẹp đẽ nhất về thiên nhiên và con người Việt Bắc. Mùa thu là bức tranh cuối cùng của bộ tứ bình, cảnh thu không chỉ là cảnh sắc thơ mộng của thiên nhiên mà còn là mùa thu hòa bình trong hiện tại, là mùa thu chia li với bao vấn vương, lưu luyến. Tranh tứ bình truyền thống vốn hướng tới miêu tả ngoại cảnh, với điệp từ nhớ trong đoạn thơ, Tố Hữu đã cho thấy trong nỗi nhớ của người ra đi, đây là những bức tranh tâm cảnh. Thiên nhiên Việt Bắc hiện lên rất bình dị, gần gũi, mỗi mùa có một vẻ đẹp riêng. Màu sắc trong bộ tứ bình khi rực rỡ chói chang, khi thơ mộng, dịu mát; cảnh tượng trong bộ tứ bình lúc tươi tắn, rộn ràng, lúc lại trống vắng, hắt hiu; thiên nhiên trong bộ tứ bình có cảnh ngày với nắng vàng, với hoa mơ trắng…, lại có cả cảnh đêm với ánh trăng thu…Và đặc biệt nhất trong bộ tứ bình tuyệt đẹp của Việt Bắc, thiên nhiên luôn hòa quyện, quấn quýt, gắn bó với con người:

“Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Ðèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng.
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Rừng thu trăng rọi hoà bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung”.

Mở đầu là bức tranh Việt Bắc sự mùa đông qua sự phác họa tinh tế cả về hình khối, màu sắc và ánh sáng:

“Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Ðèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng”

Hai câu thơ vừa mở rộng không gian nghệ thuật với chiều rộng mênh mông của rừng xanh, vừa đưa không gian ấy lên chiều cao ngút ngàn của đèo núi, chiều cao vời vợi của bầu trời. Trên nền xanh thăm thẳm, hùng vĩ của rừng đại ngàn là sắc đỏ tươi của hoa chuối. Màu đỏ tươi nổi bật trên nền xanh vừa tạo cảm giác chói chang, ấm áp, mỗi bông hoa như một ngọn lửa thắp sáng và xua đi cái lạnh lẽo của núi rừng mùa đông, vừa cồn cào như những ánh mắt dõi theo, như những bàn tay vẫy gọi đầy lưu luyến níu bước người ra đi. Ánh nắng trên đèo cao càng làm khu rừng sáng và ấm hơn, bức tranh thiên nhiên cũng vì thế mà được mở rộng phóng khoáng hơn. Sự phối hợp khéo léo giữa ánh sáng và màu sắc khiến bức tranh mùa đông càng trở nên rực rỡ: Màu xanh thăm thẳm của rừng sâu, màu đỏ tươi tắn của hoa chuối, màu vàng ấm áp của nắng mùa đông, và đặc biệt là ánh phản quang của nắng trên nước thép sáng loáng của con dao người đi rừng. Trong nỗi nhớ nhung của người về xuôi, sự khắc nghiệt của mùa đông nơi núi rừng Việt Bắc đã hoàn toàn được thay thế bằng vẻ đẹp thơ mộng đầy sức níu kéo.

Trên nền thiên nhiên khoáng đạt ấy là hình ảnh con người với dao gài  thắt lưng, sự xuất hiện của con người càng làm tăng thêm vẻ đẹp ấm áp, thơ mộng cho mùa đông Việt Bắc. Người dân Việt Bắc hiện ra qua một nét vẽ phác đơn sơ mà đầy ấn tượng của bút pháp chấm phá trong hội họa, đó là hình ảnh dao gài thắt lưng. Đặt sau cụm từ nắng ánh ở trạng thái động, câu thơ như một góc bất ngờ của nghệ thuật nhiếp ảnh kì thú, tạo hình con người trong tư thế làm chủ, tỏa sáng từ trên cao. Với con dao đi rừng lấp lóa gài ngang lưng, với vóc dáng lồng lộng trên đèo cao đầy nắng, tầm vóc con người như lớn lao, mạnh mẽ, rắn rỏi hơn giữa núi rừng hùng vĩ, làm tăng thêm sự cảm phục, ngưỡng mộ và yêu mến vô cùng trong lòng người đi.

Việt Bắc khi mùa xuân tới tiếp tục hiện ra trong nỗi nhớ của người đi:

“Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang”

Nếu mùa đông Việt Bắc có những lúc chói chang, ấm áp trong ánh nắng vàng thì thiên nhiên mùa xuân lại được miêu tả trong những gam màu dịu mát, trẻ trung. Trong một bài thơ khác, Tố Hữu đã từng có những câu thơ xao xuyên ấn tượng về hoa mơ nơi rừng núi:

“Ôi sáng xuân nay, xuân 41
Trắng rừng biên giới nở hoa mơ”.

Và trong bộ tứ bình về Việt Bắc, sắc trắng ấy cũng đã làm xao xuyến lòng người về xuôi. Phép đảo ngữ trong cụm từ trắng rừng đem lại ấn tượng về những khu rừng Việt Bắc mênh mông, trắng xóa sắc hoa mơ; động từ nở cho thấy sức sống sinh sôi, tràn trề của núi rừng mùa xuân. Màu trắng của bạt ngàn hoa mơ không chỉ làm nổi bật linh hồn của mùa xuân mà còn gợi ra tâm trạng bâng khuâng xao xác trong lòng người. Nghệ thuật phối màu tinh tế của nhà thơ đã thể hiện rõ nét khi toàn bộ bức tranh mùa xuân Việt Bắc là những màu trắng: Trên nền trắng thanh khiết của hoa mơ là sắc trắng lấp lóa của nón, màu trắng ngà óng chuốt của những sợi giang.

Con người được miêu tả trong công việc đan nón. Động tác chuốt từng sợi giang cho thấy rõ vẻ đẹp của người lao động cần mẫn, tinh tế và khéo léo nơi núi rừng. Đó cũng chính là những nét đáng yêu, đáng nhớ của Việt Bắc mãi in đậm trong lòng người ra đi.

Mùa hè của Việt Bắc được tái hiện trong nỗi nhớ tràn đầy cả âm thanh và màu sắc:

“Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình“.

Câu 6 miêu tả âm thanh của tiếng ve kêu và màu vàng của rừng phách. Tiếng ve vang lên báo hiệu mùa hè đã tới gợi ra cái náo nức của thời gian qua một tín hiệu rộn rã của không gian. Phách là một loại cây gỗ lim ở rừng Việt Bắc, loại nở hoa vào mùa hè, trước lúc nở hoa, cả rừng cây đồng loạt thay lá, chuyển từ màu xanh sang màu vàng chỉ trong vài ngày. Động từ đổ miêu tả sự chuyển màu đột ngột, nhanh chóng của bức tranh thiên nhiên, đưa đến cảm giác ngỡ ngàng, choáng ngập trong lòng người. Thực tế, màu vàng của rừng phách và âm thanh rộn rã của tiếng ve chỉ là hai hiện tượng thiên nhiên xuất hiện trong cùng một thời điểm của mùa hè mà hoàn toàn không có quan hệ gì với nhau. Câu thơ của Tố Hữu đã đem đến cho chúng ta một tương quan kì diệu khiến cảnh vật như có linh hồn và sự giao cảm: Tưởng như sau sự giục giã của tiếng ve, có một sự náo nức kì lạ của thiên nhiên, cả một dòng thác vàng đổ òa từ trời cao xuống rừng phách khiến khu rừng phút chốc được khoác tấm áo vàng lộng lẫy; cũng có thể hiểu chính vì sắc vàng kiêu sa, rực rỡ của rừng phách mà bầy ve rừng không thể cầm lòng, phải náo nức cất lên tiếng gọi hè về. Và bức thứ ba trong bộ tứ bình của Việt Bắc vẫn tiếp tục được người nghệ sĩ tài hoa phối màu thật hài hòa, ấn tượng giữa sắc vàng của rừng phách mênh mông với sắc vàng của những đốt măng thầm lặng.

Cũng như người đi rừng, người đan nón trong hai bức tranh của mùa đông và mùa xuân, người dân Việt Bắc trong bức tranh mùa hạ cũng được miêu tả trong cảnh lao động, đó là cô em gái hái măng một mình. Em gái là cách gọi thân thương trìu mến trong gia đình; tác động hái măng gợi dáng vẻ cắm cúi, thầm lặng khiến cô gái như càng nhỏ bé hơn giữa mênh mông rừng núi; hai chữ một mình đem lại cảm giác cô đơn, sự cô đơn trống trải sau lưng người ra đi. Cùng với tiếng ve kêu trong rừng vắng, hình ảnh cô em gái hái măng một mình đã đem lại sự hiu hắt đượm buồn cho cảnh sắc núi rừng. Cảnh phảng phất buồn nhưng vẫn đẹp một vẻ đẹp tĩnh vắng và trong sáng – cả vẻ đẹp và nỗi buồn đều làm lưu luyến bước chân người ra đi.

Hai câu thơ cuối là hình ảnh Việt Bắc khi mùa thu tới:

“Rừng thu trăng rọi hoà bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung”.

Mùa thu kết thúc đoạn tứ bình cũng là thời điểm kết thúc cuộc kháng chiến gian nan, oanh liệt, thời điểm chia li giữa Việt Bắc và những người kháng chiến. Bức tranh mùa thu được phác họa trong gam màu dịu mát của ánh trăng thanh bình. Thông thường, vầng trăng từ trên trời cao sẽ tỏa ánh sáng chan hòa xuống không gian mênh mông của mặt đất. Trong bức tranh của Tố Hữu, đó lại là trăng rọi xuống rừng thu. Rọi là động từ miêu tả nguồn ánh sáng tập trung soi chiếu xuống một điểm hẹp trong không gian. Cách dùng từ này không chỉ giúp nhà thơ miêu tả chính xác ánh trăng lọt qua vòm cây, kẽ lá của núi rừng mà còn thể hiện tinh tế những cảm xúc của con người: Đêm nay, trăng sao cũng như thấu hiểu lòng người, trong giờ phút chia li như muốn dành riêng cho Việt Bắc, muốn tập trung soi chiếu hình ảnh thiên nhiên của con người Việt Bắc trong nỗi nhớ thương tha thiết của người ra đi .

Mùa thu càng ngọt ngào hơn với tiếng hát ân tình thủy chung. Ánh trăng đã là hình ảnh của cuộc sống hòa bình, tiếng hát vang lên giữa rừng sâu, dưới ánh trăng thanh càng làm đậm hơn cảm giác tươi vui, thanh bình và sự hồi sinh sau chiến tranh. Có thế nhận ra sự thay đổi trong cảm xúc của người ra đi và hình ảnh người ở lại. Nếu ở những bức tranh mùa đông, mùa xuân, mùa hạ, nhà thơ hướng nỗi nhớ tới những người lao động cụ thể: Người đi rừng, người đan nón, người hái măng…thì ở bức tranh cuối cùng của bộ tứ bình Việt Bắc, tính chất phiếm chỉ trong cụm từ nhớ ai khiến hình ảnh con người như nhòa đi, nỗi nhớ trở lên sâu đậm, ám ảnh hơn; khi thời khắc chia li đến gần đối tượng của nỗi nhớ bây giờ không còn là một và hình ảnh riêng lẻ, cụ thể mà là tất cả những người dân Việt Bắc nghèo khổ, trung hậu, nghĩa tình; âm thanh của tiếng hát rộn vang trong đêm trăng cũng cho thấy đó là tiếng hát của đám đông, tập thể, của những người ở lại đang trào dâng nỗi nhớ nhung, của những người ra đi đang da diết niềm lưu luyến.

Hòa bình là sự kiện lớn lao đem lại niềm vui cho cả dân tộc, nhưng hòa bình cũng là thời điểm chia tay đầy bâng khuâng lưu luyến giữa Việt Bắc với những người kháng chiến. Miêu tả tiếng hát gợi ân tình của người ở lại, nhắc sự thủy chung của người ra đi trên nền ánh trăng hòa bình có lẽ là dụng ý nghệ thuật sâu sắc của nhà thơ khiến cặp lục bát kết đoạn tứ bình hàm chứa một tâm nguyện đinh ninh: Những đổi thay trong cuộc sống hòa bình sẽ không bao giờ có thể làm người đi thay lòng đổi dạ; người về xuôi sẽ không bao giờ lãng quên ánh trăng ân tình giữa rừng sâu Việt Bắc, và xin Việt Bắc hãy mãi tin và tấm lòng thủy chung của người đi.

Sau những hoài niệm về thiên nhiên và con người Việt Bắc, đoạn thơ dẫn vào khung cảnh Việt Bắc kháng chiến với những cảnh tượng rộng lớn, những hoạt động sôi nổi, những chiến thắng hào hùng…Đoạn thơ đã chuyển từ nhịp ru dìu dặt, ngọt ngào, tha thiết của bản tình ca ân nghĩa đậm chất trữ tình sang nhịp điệu sôi nổi, dồn dập, mạnh mẽ của khúc anh hùng ca hào tráng đậm chất sử thi khi thể hiện nỗi nhớ về những kỉ niệm của cuộc kháng chiến oanh liệt hào hùng:

“Nhớ khi giặc đến giặc lùng
(……..)
Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng”.

Mở đầu bằng chữ “nhớ”, kỉ niệm về cuộc kháng chiến oanh liệt hào hùng đã được nhà thơ tái hiện qua những bức tranh rộng lớn và kì vĩ của những ngày Việt Bắc cùng rừng núi và đất trời đánh giặc:

“Nhớ khi giặc đến giặc lùng
Rừng cây núi đá ta cùng đánh Tây
Núi giăng thành luỹ sắt dày
Rừng che bộ đội rừng vây quân thù
Mênh mông bốn mặt sương mù
Ðất trời ta cả chiến khu một lòng”.

Đến đoạn thơ này, đại từ “ta” mang nghĩa chúng ta, bao hàm cả người dân Việt Bắc và bộ đội, cán bộ kháng chiến, thậm chí ta bao hàm cả con người với thiên nhiên, trời đất – nét nghĩa này vừa thể hiện sự đoàn kết, gắn bó, vừa làm tăng thêm tầm vóc sử thi cho hình tượng nghệ thuật trong đoạn thơ. Có thể nhận ra sự trùng điệp của ngôn từ đã tái hiện sinh động sự trùng điệp của địa hình rừng núi – hình ảnh rừng núi giăng kín trong các chủ ngữ của đoạn thơ từ rừng cây núi đá… đến núi giăng… rừng che… rừng vây… Tất cả lại được bao phủ trong mênh mông bốn mặt sương mù của trời đất khiến người đọc cảm nhận được sự hiểm trở như thiên la địa võng của chiến trường Việt Bắc. Những vị ngữ đánh…giăng…che…vây…đem đến sắc thái nhân hóa cho rừng núi, tạo ra cảm giác như rừng núi cũng góp sức vào cuộc kháng chiến, rừng núi cùng con người thành sức mạnh to lớn, bền vững ngăn chặn và vây hãm kẻ thù. Đoạn câu thơ gợi nhắc sự kiện chiến thắng Việt Bắc thu đông 1947 khi quân dân ta dựa vào địa hình hiểm trở của núi rừng đã anh dũng chiến đấu, đập tan cuộc tấn công lớn của giặc Pháp lên chiến khu Việt Bắc. Như vậy, cuộc kháng chiến chính nghĩa của chúng ta đã có được những thuận lợi nhất của thiên thời, địa lợi, nhân hòa, khi con người đồng lòng, thiên nhiên chung sức.

Trong bốn câu thơ tiếp theo, sau câu hỏi gợi nhớ: Ai về, ai có nhớ không? Là lời khẳng định quen thuộc: “Ta về ta nhớ…”

“Ai về ai có nhớ không?
Ta về ta nhớ Phủ Thông, đèo Giàng
Nhớ sông Lô, nhớ phố Ràng
Nhớ từ Cao-Lạng nhớ sang Nhị Hà…”

Những từ nhớ liên tiếp điệp lại trong các dòng thơ cho thấy nỗi nhớ hòa quyện với niềm phấn khích của chiến thắng đang ào ạt trào dâng trong dòng hoài niệm. Một loạt các địa danh liên tiếp như: “phủ Thông”, “đèo Giàng”, “sông Lô”, “Cao – Lạng”… khiến đoạn phảng phất bóng dáng những bài ca dao xưa (Chiếu Nga Sơn, gạch Bát Tràng, vải tơ Nam Định, lụa hàng Hà Đông); đó cũng đồng thời là những địa danh gắn với các trận đánh, các chiến dịch lịch sử; nhịp thơ dồn dập như mô phỏng khí thế thần tốc, hào hùng của quân dân ta trong các kháng chiến oanh liệt, vang dội ngày kháng chiến – hình thức xưa cũ của ca dao đã giúp thể hiện những chiến thắng hào hùng nhất của cuộc chiến tranh nhân dân thời hiện đại.

Khung cảnh sôi động của cuộc kháng chiến còn được nhà thơ tập trung miêu tả qua dòng hoài niệm về hình ảnh những con đường Việt Bắc ban đêm. Hình ảnh những con đường được nhắc đến trong niềm tự hào sâu sắc:

“Những đường Việt Bắc của ta

Nếu hình ảnh “Đất trời ta…”  trong đoạn thơ trên là biểu tượng cho thiên nhiên, trời đất thì hình ảnh Những đường Việt Bắc trong đoạn này lại hướng tới con người. Câu thơ chan chứa niềm tự hào vì cảm giác được làm chủ những không gian rộng lớn của Tổ quốc. Cảm hứng này đã nhiều lần xuất hiện trong thơ ca cách mạng, trong các cụm từ ngữ mang tính chất sở hữu như câu thơ “Mây của ta, trời thắm của ta – Nước Việt dân chủ cộng hòa” (Ta đi tới – Tố Hữu), hoặc câu “Trời xanh đây là của chúng ta – Núi rừng đây là của chúng ta… Những ngả đường bát ngát…”(Nguyễn Đình Thi).

Trong dòng hoài niệm của người đi, những con đường ấy là không gian lớn lao cho người xuất hiện, trước hết, kí ức hướng về những đoàn quân ra trận với khí thế:

Ðêm đêm rầm rập như là đất rung”

Câu thơ trên miêu tả âm thanh của tiếng bước chân người. Từ láy “rầm rập” cho thấy đây là những âm thanh nhanh, mạnh, dồn dập của những đoàn quân đều bước trong đêm. Từ láy tiếng điệp điệp trùng trùng trong câu thơ tiếp theo đã làm hiện lên cảnh đoàn quân ra trận vừa đông đảo, vừa mạnh mẽ, hào hùng. Hình ảnh so sánh trong câu thơ đêm đêm rầm rập như là đất rung, những từ láy tượng thanh, tượng hình, và những phụ âm rung trong các tiếng của hai câu thơ: “Rầm rập”, “rung”, “điệp điệp trùng trùng” càng làm rõ hơn cảm giác: Những đoàn quân ngày đêm ra trận với khí thế mạnh mẽ như trời rung đất chuyển.

Cảm hứng sử thi hào tráng đã khiến sức mạnh kì diệu của con người được nâng lên tầm vóc vũ trụ. Hình ảnh những đoàn người hành quân trong đêm trước hết là một thực tế của chiến trường những ngày kháng chiến. Trong đêm, chúng ta chuẩn bị mọi mặt cho những trận đánh hay chiến dịch ngày mai. Sự chuẩn bị ấy không phải trong một vài đêm mà là đêm đêm, là nghìn đêm, những chi tiết ước lệ chỉ một thời gian lâu dài của cuộc kháng chiến trường kì, gian khổ. Từ đó, câu thơ gợi những suy ngẫm sâu xa về cuộc kháng chiến trong tầng nghĩa ẩn dụ: Đêm đêm, nghìn đêm là hình ảnh của đêm tối gian lao, khi cả dân tộc ta kiên cường vượt qua mọi thử thách để chuẩn bị cho ngày mai lên, ngày mai tươi sáng. Trong hoài niệm của người đi, Việt Bắc không chỉ hiện ra trong sức mạnh hào tráng, đông đảo của những đoàn quân ra trận mà còn là nơi lưu giữ những ấn tượng khó quên về vẻ đẹp của chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam trong kháng chiến. Vẻ đẹp vừa chân thực, vừa lãng mạn ấy thể hiện qua hình ảnh người chiến sĩ đi giữa hàng quân trên những con đường Việt Bắc với:

“Quân đi điệp điệp trùng trùng
Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan”.

Cũng như hình ảnh “Đầu súng trăng treo” của Chính Hữu, ánh sao đầu súng là một hình ảnh thực khi người lính hành quân trong đêm, những ngôi sao lấp lánh như treo trên đầu mũi súng. Trăng sao luôn là người bạn đồng hành với các chiến sĩ trong những đêm hành quân gian khổ. Nguyễn Đình Thi đã viết: “Ngôi sao nhớ ai mà sao lấp lánh – Soi sáng đường chiến sĩ giữa hành quân”. Nếu vầng trăng của Chính Hữu là biểu tượng cho hòa bình, hình ảnh đầu súng trăng treo gợi những suy ngẫm sâu sắc về mục đích cao cả của cuộc chiến đấu chính nghĩa, cuộc chiến đấu vì hòa bình; nếu ngôi sao lấp lánh của Nguyễn Đình Thi làm hiện lên một nét đẹp trong tâm hồn người lính với những nhớ nhung lãng mạn thì hình ảnh ánh sao đầu súng của Tố Hữu lại là biểu tượng cho lí tưởng cao đẹp của người chiến sĩ hướng tới trên đường ra trận; ánh sao soi đường cũng gợi tới ánh sáng của lí tưởng độc lập tự do của cả dân tộc ta trong những cuộc chiến tranh vệ quốc… Câu thơ là sự kết hợp hài hòa giữa hiện thực và cảm hứng lãng mạn khi ánh sao lấp lánh trên trời cao treo trên đầu súng và làm bạn cùng vành mũ nan quen thuộc của anh vệ quốc – vành mũ từng xuất hiện trong một bài thơ khác của Tố Hữu: “Vẫn đôi dép lội chiến trường – Vẫn vành mũ lá coi thường hiểm nguy”. Vẻ đẹp của lí tưởng cao cả, của ý chí bất khuất kiên cường đã được Tố Hữu thể hiện một cách thật lãng mạn ngay trong hình ảnh bình dị, chân thực của người chiến sĩ trên đường hành quân.

Trong cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện của dân tộc, con đường ra trận không chỉ có những đoàn quân vệ quốc mà còn có:

“Dân công đỏ đuốc từng đoàn
Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay”.

Phép đảo ngữ và hai thanh trắc liên tiếp trong các cụm từ đỏ đuốc, nát đá đã đem đến những ấn tượng kì diệu về sự đông đảo, về sức mạnh, niềm vui và ánh sáng. Những đoàn dân công tiếp vận, chuyển lương phục vụ chiến trường cùng bước đi trong đêm, những ánh đuốc soi đường đỏ rực nối tiếp nhau; dân công ào ạt tiến về phía trước, gió thổi những tàn lửa bay tạt lại phía sau như nối dài thêm dòng người – dòng ánh sáng tạo ra một cảnh tượng hùng tránh, tưng bừng, gợi không khí vui tươi, náo nức của ngày hội. Cách mạng đã thật sự trở thành ngày hội của quần chúng nhân dân. Nếu từ láy rầm rập và hình ảnh so sánh như là đất rung miêu tả đoàn quân vệ quốc bước đều mạnh mẽ thì nghệ thuật thậm xưng trong hình ảnh bước chân nát đá lại ca ngợi sức mạnh phi thường của những đoàn dân công đông đảo nối tiếp nhau ngày đêm tải lương, tải đạn ra chiến trường, phục vụ các chiến dịch, trực tiếp góp phần vào chiến thắng. Cách nói này còn gợi liên tưởng tới thành ngữ chân cứng đá mềm trong dân gian, qua đó, nhà thơ đã khắc họa sinh động sức mạnh và ý chí kiên cường của những con người dũng cảm có thể vượt lên trên mọi khó khăn, có thể chiến thắng mọi gian khổ, thử thách.

Ở đoạn thơ trên, Tố Hữu đã đưa tới một cảm nhận lớn lao về cuộc kháng chiến khi cả thiên nhiên, rừng núi, đất trời cùng con người đánh giặc, khi rừng cây núi đá ta cùng đánh Tây, và khi Đất trời ta cả chiến khu một lòng thì tới đoạn này, nhà thơ lại ca ngợi sức mạnh kì diệu của con người khi những bước chân rậm rập của đoàn quân, bước chân nát đá của dân công đã khiến cho mặt đất như rung chuyển; nhà thơ còn ca ngợi khí thế hào hùng của quân dân Việt Bắc qua những từ ngữ chỉ số lượng đông đảo: điệp điệp trùng trùng, từng đoàn, muôn…Cảnh tượng còn hùng vĩ, tráng lệ hơn bởi con người luôn bước đi trong một không gian chan hòa ánh sáng: Ánh sáng lung linh của sao trên đầu súng, ánh sáng rực rỡ của những ngon đuốc soi đường, ánh sáng lấp lánh huyền ảo của muôn tàn lửa bay; và đặc biệt là ánh sáng chói lòa từ những ngọn đèn pha của những đoàn xe ra trận giữa thăm thẳm sương dày:

“Nghìn đêm thăm thẳm sương dày
Ðèn pha bật sáng như ngày mai lên”

Câu thơ có hai thanh trắc liền nhau giữa 6 thanh bằng đem lại ấn tượng về ánh sáng chói lòa đột ngột trong đêm. Hình ảnh so sánh ở vế sau của câu thơ trước hết miêu tả độ sáng của đèn pha như sáng như ánh sáng ban ngày; nhưng hình ảnh ngày mai lên còn có thể là ẩn dụ cho ánh bình minh ngày mới tươi sáng, tràn đầy niềm tin và hi vọng – khuynh hướng sử thi đã gắn kết sâu sắc với cảm hứng lãng mạn làm tăng thêm sức mạnh cho những con người đang chiến đấu ngay trong gian khổ, nguy nan.

Kết quả của những đêm dài gian truân, vất vả ấy là:

“Tin vui chiến thắng trăm miềm
Hoà Bình, Tây Bắc, Ðiện Biên vui về
Vui từ Ðồng Tháp, An Khê
Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng”.

Cũng như đoạn thơ trên, những dòng thơ này mang đậm chất diễn ca lịch sử, ghi lại những địa danh như Hòa Bình, Tây Bắc, Điện Biên…, nơi diễn ra những trận đánh oanh liệt, đặc biệt ghi lại những chiến dịch lớn trong giai đoạn cuối cuộc kháng chiến chống Pháp. Nhịp thơ nhanh dồn dập, sảng khoái, những cụm từ vui điệp lại trong cả bốn vàn thơ cùng sự nối tiếp các cụm từ: vui về…vui từ…vui lên…; những địa danh liên tiếp hiện ra theo bước đi dồn dập của chiến thắng… – đó là những yếu tố ngôn từ đặc sắc thể hiện sinh động không khí náo nức, say mê của quân dân Việt Bắc ngày chiến thắng.

Toàn bộ đoạn thơ là hình ảnh những con đường Việt Bắc và bước chân mạnh mẽ của quân dân ta trên đường ra trận. Những bức tranh rộng lớn, hùng tráng, kì vĩ, đậm chất sử thi ấy vừa là hình ảnh thực về những con đường ra trận trong cuộc kháng chiến chống Pháp, vừa là biểu tượng sâu sắc cho con đường cách mạng và đã nhiều lần xuất hiện trong thơ Tố Hữu. Đó là con đường gian truân và oanh liệt chúng ta từng đi trong Nghìn đêm thăm thẳm sương dày những ngày kháng chiến, đó cũng là con đường “Ta đi giữa ban ngày – Trên đường cái ung dung ta bước…” Trong ngày chiến thắng, song hành với con đường là hình ảnh bước chân – một hoán dụ cho người cách mạng, những con người mang vẻ đẹp của chủ nghĩa anh hùng cách mạng đã kiên cường, dũng cảm vượt qua mọi nguy hiểm, khó khăn để giành chiến thắng, đó cũng là những bàn chân từ than bụi lầy bùn – đã bước tới dưới mặt trời cách mạng.

Đoạn cuối là hoài niệm giản dị mà trang trọng về cuộc họp của chính phủ trong hang núi:

“Ai về ai có nhớ không?
Ngọn cờ đỏ thắm gió lồng cửa hang.
Nắng trưa rực rỡ sao vàng
Trung ương, Chính phủ luận bàn việc công”

Không gian của cuộc họp là hang núi chật hẹp, vậy mà vẫn lồng lộng gió núi, vẫn rực rỡ cờ đỏ sao vàng, vẫn chan hòa ánh nắng…Cảnh đẹp trang nghiêm và phóng khoáng trong ngọn gió thời đại mới; con đường của cách mạng Việt Nam đã thật sự chuyển từ đêm tối gian lao sang ngày mai tươi sáng. Tính chất diễn ca lịch sử lại xuất hiện rất đậm trong đoạn thơ sau đó. Nhằm thể hiện những nhiệm vụ vừa lớn lao, thiêng liêng, vừa cụ thể, thiết thực của cách mạng, từ điều quân chiến dịch cho tới phòng hạn, giữ đê…

Kết thúc đoạn thơ lại là hình ảnh Việt Bắc, Thủ đô kháng chiến, nơi có Đảng và Bác Hồ, nơi quy tụ niềm tin và hi vọng của người Việt Nam từ mọi miền đất nước, đặc biệt là những nơi còn u ám quân thù:

“Ở đâu u ám quân thù
Nhìn lên Việt Bắc: Cụ Hồ sáng soi
Ở đâu đau đớn giống nòi
Trông về Việt Bắc mà nuôi chí bền.
Mười lăm năm ấy ai quên
Quê hương cách mạng dựng nên Cộng hoà”

Nỗi nhớ Việt Bắc đã được lí giải thấm thía hơn không chỉ vì sự thiêng liêng của quê hương cách mạng dựng nên cộng hòa mà còn vì sự gần gũi thân yêu của mái đình cây đa, vì những kỉ niệm sâu nặng ân tình giữa mình và ta – giữa đồng bào Việt Bắc và những người kháng chiến – đoạn thơ kết lại bằng sự đồng vọng xao xuyến khi người về xuôi để lòng mình ngân nga những tiếng lòng nhớ nhung ân tình của Việt Bắc:

“Mình về mình lại nhớ ta
Mái đình Hồng Thái cây đa Tân Trào”.

  • Kết bài:

Bài thơ Việt Bắc thể hiện sinh động phong cách nghệ thuật thơ Tố Hữu cũng như đặc điểm chung của văn học 1945 -1975, đó là khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn đậm nét trong cấu tứ, giọng điệu, ngôn từ, bút pháp nghệ thuật và hình tượng thơ; là tính dân tộc đậm đà trong cả nội dung và hình thức nghệ thuật, là giọng điệu tâm tình ngọt ngào, thương mến… Qua đó, đoạn trích đã thể hiện sâu sắc cảm hứng chủ đạo của cả bài thơ, đó là nỗi nhớ thương lưu luyến trong giờ phút chia tay là nghĩa tình thắm thiết với Việt Bắc, quê hương cách mạng, với đất nước và nhân dân, với cuộc kháng chiến nay đã trở thành kỉ niệm khiến niềm vui trong hiện tại luôn gắn kết với nghĩa tình trong quá khứ và niềm vui ở tương lai. Bài thơ là khúc hát tâm tình thủy chung của con người Việt Nam trong kháng chiến mà bề sâu của nó là truyền thống ân nghĩa, là đạo lí thủy chung của dân tộc.

MỘT SỐ ĐỀ LUYỆN TẬP

Đề 1. Có người nói “Việt Bắc” vừa là một bản anh hùng ca vừa là một bản tình ca. Chứng minh điều đó qua trích đoạn Việt Bắc.

ĐỀ 2. Việt Bắc là bài thơ tiêu biểu cho hồn thơ Tố Hữu. Hãy phân tích bài thơ để làm sáng tỏ điều đó.

Đề 3: Cảm nhận của anh/ chị về hai đoạn thơ sau:

“Sông Mã xa rồi Tây tiến ơi!
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi”

(Tây Tiến, Quang Dũng, Văn học 12, tập 1).

“Nhớ khi giặc đến giặc lùng
Rừng cây núi đá ta cùng đánh Tây.
Núi giăng thành luỹ sắt dày
Rừng che bộ đội, rừng vây quân thù.”

(Việt Bắc, Tố Hữu, Văn học 12, tập 1)

Đề 4. Cảm nhận của anh (chị) về hai đoạn thơ sau:

“Thương nhau chia củ sắn lùi
Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng.
Nhớ người mẹ nắng cháy lưng
Địu con lên rẫy, bẻ từng bắp ngô”.

(Tố Hữu – Việt Bắc – Ngữ Văn 12)

“Con nhớ mế! Lửa hồng soi tóc bạc
Năm con đau, mế thức một mùa dài.
Con với mế không phải hòn máu cắt
Nhưng trọn đời con nhớ mãi ơn nuôi”.

(Chế Lan Viên – Tiếng hát con tàu – Ngữ Văn 12)

Đề 5. Cảm nhận của anh/  chị về hai đoạn thơ sau:

“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi”.

(Trích ” Tây Tiến”- Quang Dũng)

“Nhớ gì như nhớ người yêu
Trăng lên đầu núi nắng chiều lưng nương
Nhớ từng bản khói chùng sương
Sớm khuya bếp lửa người thương đi về”.

(Trích ” Việt Bắc”- Tố Hữu)

Đề 6. Cảm nhận của anh (chị) về hai đoạn thơ sau:

“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”.

(Tây Tiến – Quang Dũng)

“Quân đi điệp điệp trùng trùng
Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan.
Dân công đỏ đuốc từng đoàn
Bước chân nát đá muôn tàn lửa bay”.

(Việt Bắc – Tố Hữu)

Đề 7. Vẻ đẹp của cảnh và người trong bài thơ Việt Bắc.

Đề 8. Biểu hiện của tính dân tộc trong nội dung và hình thức của bài thơ Việt Bắc.

Cảm nhận 24 câu thơ đầu bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu

Hãy bình luận đầu tiên

Để lại một phản hồi

Thư điện tử của bạn sẽ không được hiện thị công khai.