Kiến thức luyện thi đoạn thơ Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm.

doan-tho-dat-nuoc-nguyen-khoa-diem

Nội dung:

Đoạn thơ ĐẤT NƯỚC (trích “MẶT ĐƯỜNG KHÁT VỌNG”) của Nguyễn Khoa Điềm.

Hướng dẫn:

  • Mở bài:

Nguyễn Khoa Điềm (1943) là một nhà thơ tiêu biểu của nền văn học kháng chiến chống Mĩ cứu nước. Thơ của Nguyễn Khoa Điềm lấy chất liệu từ văn học Việt Nam và cảm hứng từ quê hương, con người, và tình thần chiến đấu của người chiến sĩ Việt Nam yêu nước. Thơ ông giàu chất suy tư, xúc cảm dồn nén, mang màu sắc trữ tình chính luận.

Đoạn thơ Đất nước trích chương V của trường ca “Mặt đường khát vọng”.

  • Thân bài:

I. Hình tượng đất nước.

1. Đất nước được cảm nhận bằng chiều dài của thời gian, chiều rộng của không gian và chiều sâu của lịch sử văn hoá dân tộc (42 câu đầu):

a. Lí giải cội nguồn đất nước:

– “Khi ta lớn lên” – “Đất nước đã có rồi”: (Quá khứ – Hiện tại).

– Giọng thơ nhẹ nhàng, âm hưởng đầy quyến rũ đã đưa ta về với cội nguồn của đất nước: Một đất nước vừa cụ thể vừa huyền ảo đã có từ rất lâu đời.

b. Sự cảm nhận đất nước ở phương diện lịch sử, văn hoá:

– Đất nước được cảm nhận gắn liền với nền văn hoá lâu đời của dân tộc:

+ Câu chuyện cổ tích, ca dao.

+ Phong tục của người Việt: Ăn trầu, bới tóc.

– Đất nước lớn lên đau thương vất vả cùng với cuộc trường chinh không nghỉ ngơi của con người”

+ Cuộc kháng chiến chống ngoại xâm, gắn với hình ảnh cây tre – biểu tượng cho sức sống bất diệt của dân tộc.

+ Gắn với nền văn minh lúa nước, lao động vất vả.

– Đất nước gắn liền với những con người sống ân tình thuỷ chung.

→ Đất nước không trừu tượng mà ở ngay trong cuộc sống của mỗi chúng ta.

c. Sự cảm nhận đất nước ở phương diện chiều sâu của không gian:

– Là không gian hò hẹn của tình yêu (Lối chiết tự đầy ý nhị vừa mang tính cá thể vừa hết sức táo bạo, tác giả đã định nghĩa đất nước thật độc đáo).

– Đất nước là nơi chốn sinh tồn của cả cộng đồng dân tộc qua bao thế hệ (nơi dân mình đoàn tụ) → Đất nước là sự thống nhất giữa cá nhân với cộng đồng.

– Đất nước còn là không gian rộng lớn tráng lệ hùng vĩ của núi cao, biển cả → Đất nước là những gì gần gũi thân quen gắn bó với cuộc sống mỗi người lại vừa mênh mông rộng lớn.

d. Sự cảm nhận Đất nước ở phương diện chiều dài thời gian:

– Đất nước được cảm nhận từ quá khứ với huyền thoại “Lạc Long Quân và Âu Cơ” cho đến hiện tại với những con người không bao giờ quên nguồn cội dân tộc, truyền thuyết Hùng Vương và ngày giỗ Tổ.

e. Suy ngẫm của tác giả về trách nhiệm của thế hệ mình với Đất nước:

– Phải biết hi sinh để bảo vệ đất nước.

→ Đất nước hiện lên vừa thiêng liêng sâu xa, lớn lao vừa gần gũi thân thiết với sự sống mỗi người.

2. Tư tưởng cốt lõi: Đất nước của nhân dân (47 câu cuối):

– Tác giả cảm nhận Đất nước qua những địa danh thắng cảnh gắn với cuộc sống tính cách số phận của nhân dân.

+ Tình nghĩa thuỷ chung thắm thiết: Núi Vọng Phu, hòn trống mái.

+ Sức mạnh bất khuất: Chuyện Thánh Gióng.

+ Cội nguồn thiêng liêng: Hướng về đất Tổ Hùng Vương.

+ Truyền thống hiếu học: Cách cảm nhận về núi Bút non nghiêng.

+ Hình ảnh đất nước tươi đẹp: Cách nhìn dân dã về núi con Cóc, con Gà, dòng sông…

→ Đất nước hiện lên vừa gần gũi vừa thiêng liêng.

– Nhìn vào bốn nghìn năm Đất nước mà nhấn mạnh đến những con người vô danh: Họ âm thầm cống hiến và hi sinh.

– Tư tưởng cốt lõi và tụ điểm là Đất nước của nhân dân: Vì Đất nước là của nhân dân nên ĐN là của ca dao thần thoại

→ Đây là một định nghĩa giản dị mà độc đáo.

– Tác giả chọn 3 dẫn chứng để nói về truyền thống của nhân dân:

+ Say đắm trong tình yêu: “Yêu em từ thuở trong nôi”.

+ Biết quý trọng tình nghĩa: “Biết quý công…”

+ Quyết liệt trong căm thù và chiến đấu (“Biết trồng tre”…)

→ Sự phát hiện thú vị và độc đáo của tg về Đất nước trên các phương diện địa lí, lịch sử, văn hoá với nhiều ý nghĩa mới: Muôn vàn vẻ đẹp của Đất nước đều là kết tinh của bao công sức và khát vọng của nhân dân, của những con người vô danh, bình dị.

  • Kết bài:

– Với giọng thơ trữ tình chính luận, thể thơ tự do, phóng túng, cách dụng chất liệu văn hoá dân gian vừa gần gũi vừa có chiều sâu triết lí, bài thơ thể hiện những cảm nhận mới mẻ của nhà thơ về đất nước trên nhiều bình diện (chiều dài của lịch sử, chiều rộng của địa lý, bề dày của văn hoá, phong tục…).

– Đoạn trích đã thể hiện một cái nhìn mới mẽ về đất nước: Đất nước là sự hội tụ và kết tinh bao công sức và khát vọng của nhân dân. Nhân dân là người làm ra đất nước.


Tham khảo:

Phân tích chi tiết đoạn thơ Đất nước (Nguyễn Khoa Điềm).

  • Mở bài:

Nguyễn Khoa Điềm là một trong số những nhà thơ tiêu biêu nhất của thế hệ các nhà thơ trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mĩ. Thơ ông giàu chất suy tư, cảm xúc lắng đọng, thể hiện tâm tư, ý thức của một công dân yêu nước đối với vai trò, trách nhiệm của thệ hệ trẻ Việt Nam trong cuộc chiến đấu chung của cả dân tộc, thể hiện những nhận thức sâu sắc về nhân dân, đất nước qua những trải nghiệm của chính mình.

Đoạn trích Đất nước thuộc phần đầu chương V  của trường ca Mặt đường khát vọng được Nguyễn Khoa Bình-Trị-Thiên năm 1971, in lần đầu 1974. Bản trường ca viết về sự thức tỉnh của tuổi trẻ các thành thị bị tạm chiến miền Nam, mở rộng ra là sự tự ý thức của tuổi trẻ Việt Nam, hướng về nhân dân, đất nước, ý thức được sứ mệnh của thê hệ mình trong cuộc chiến đấu chung của cả dân tộc.

  • Thân bài:

42 câu thơ đầu bài thơ Đất nước 42 câu đầu:

– Đoạn thơ đã góp phần lí giải một trong những bình diện đầu tiên của tư tưởng Đất Nước của Nhân Dân, đó là quan niệm đất nước hòa quyện, gắn bó sâu sắc trong cuộc sống hàng ngày của nhân dân, đất nước của Nhân Dân, mỗi cá nhân phải có trách nhiệm đối với Đất Nước.

Những cảm nhận sâu săc về Đất Nước trong mỗi quan hệ gắn bó với cuộc sống Nhân Dân.

– Đất Nước được hiểu là nơi cư trú của một cộng đồng dân tộc có cương giới, lãnh thổ riêng, có sự gắn kết sâu săc với nhau về văn hóa, phong tục, tập quán, có tiếng nói, ngôn ngữ riêng, có truyền thống lịch sử văn hiến lâu đời. Tùy theo thời kì lịch sử, Đất Nước được định nghĩa theo những cách quan niệm khác nhua, đất nước có thể thiêng liêng khi đó là nơi Nam đế cư, đất nước có thể hiện ra trong những khái niệm trìu tượngcủa Bình Ngô Đại Cáo thế kỉ XV với nền văn học hiện đại cũng thường tạo ra một khoảng cách sử thi thiêng liêng, tôn kính để chiêm ngưỡng Đất Nước thông qua những hình ảnh kì vĩ, tráng lệ, mang đậm tính biểu tượng. Đất Nước có thể huy hoàng khi “Rũ bùn đứng dậy sáng lòa” (Đất nước – Nguyễn Đình Thi). Đất Nước cũng có thể đẹp lung linh huyền ảo, xa vời trong so sánh “Đất nước như vì sao / Cứ đi lên phía trước” (Mùa xuan nho nhỏ – Thanh Hải).

– Trong đoạn đầu, Nguyễn Khoa Điềm đã đưa đến một cách cảm nhận vừa mới mẻ, vừa thấm thía xúc động về Đất Nước trong mối quan hệ với cuộc sống của Nhân Dân, trong đó, những khái niệm trừu tượng, những tiêu chí thiêng liêng định hình nên Đất Nước đã được nhà thơ thể hiện qua những hình ảnh cụ thể và bình dị, quen thuộc và gợi cảm, những hình ảnh luôn thường xuất hiện trong cuộc sống hàng ngày của Nhân Dân.

+ Câu thơ mở đầu đưa đến một cảm nhận ấm áp về sự hiện hữu của Đất Nước đối với mỗi con người: Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi Ta là một khái niệm mơ hồ, không xác định, đó có thể là bất cứ người Việt Nam nào, trong bất cứ thời kì nào, là chúng ta hôm nay,là con cháu sau này, là cha ông hàng ngàn năm trước…, cứ mỗi người Việt Nam sinh ra là ngay lập tức được bao bọc nâng niu, được nuôi dưỡng và che chở trong chiếc nôi lớn lao, ấm áp, thân yêu, đó là Đất Nước. Đất Nước luôn có từ trước đó, như từ thời khai thiên lập địa, đón đợi những con dân Việt.

+ Với việc lặp lại liên tiếp các thành tố Đất, Nước cũng như từ ghếp Đất Nước trong cả đoạn thơ, tác giả đã đưa đến một cảm giác rất rõ nét: Đất Nước không ở đâu xa lạ, Đất Nước luôn gắn bó thân thiết trong cuộc sông hàng ngày của nhân dân , Đất Nước có mặt ở mọi nơi, hiện hữu trong mọi hình hài, dù là con người với ông bà cha mẹ, với anh và em, dù là cảnh vật dông núi biển khơi, Đất Nước có thể hữu hình với cái kèo cái cột, hạt gạo, miếng trầu hay vô hình sau những nghĩa tình của muối mặn gừng cay, sau những nhớ nhung của tình yêu đôi lứa khi khăn thương nhớ ai, kăn rơi xuống đất..

+ Trong đoạn thơ của Nguyễn Khoa Điềm, Đất Nước không được định nghĩa trong các khái niệm xa xôi, trừu tượng mà hiện ra qua những chi tiết đời thường gần gũi và bình dị của cuộc sống nhân dân, trong sự xưa cũ vô cùng của thời gian, năm tháng. Mỗi câu thơ đều chứa đựng một ý, một tứ nào đó của ca dao, thành ngữ, tục ngữ, một hình ảnh quen thuộc nào đó của truyền thuyết, thần thoại, cổ tích. Những chất liệu của văn hóa dân gian qua sự chọn lọc tinh tế của nhà thơ hiện đại đã làm hiện lên phong tục, những thói quen sinh hoạt hàng ngày như iếng trầu bay giờ bà ăn hay hình ảnh óc mẹ thì bới sau đầu, thói quen đặt tên con một cách mộc mạc theo những sự vật, vật dụng hàng ngày để cái kèo cái cột thành tên, trong những ngôi nhà tranh với hạt gạo một nắng hai sương say sã giần sàng…; truyền thống đánh giặc ngoại xâm tỏng hình ảnh cay tre làng Gióng, văn hóa ứng xử của cha mẹ gừng cay muối mặn,…

+ Tất cả những hình ảnh gần gũi bình dị ấy đã đưa người đọc liên tưởng đến một phương diện nào đó của Đất Nước, đều thể hiện sâu đậm, lâu bền nhất trong những phong tục tập quán, truyền thống văn hóa, lịch sử của Đất Nước khiến cho cái vĩnh hằng của Đất Nước luôn tồn tại, luôn hiện hữu trong cái hàng ngày của cuộc sống mỗi con người. Qua cảm nhận có vẻ như tản mạn, tùy hứng của cuộc trò chuyện tâm tình, qua những hình ảnh gợi nhắc đến ca dao , tục ngữ, thần thoại, cổ tích… nhà thơ đã đưa người đọc dần đến một nhận thức giản dị mà sâu săc thấm thía: Đất Nước có một lịch sử lâu đời , Đất nước ko hề xa lạ hay trìu tượng, Đất Nước là những gì gần gũi, thân yêu vô cùng luôn hiện hữu trong cuộc sống hàng ngày của nhân dân, Đất Nước làm nên vóc dáng hình hài, làm nên tâm hồn cốt cách , làm nên lối sống, lối nghĩ của mỗi con người, Đất Nước làm nên cuộc sống Nhân Dân.

Bên cạnh những cảm nhận sâu sắc về Đất Nước trong mối quan hệ gắn bó với cuộc sống Nhân Dân, nhà thơ còn đặt Đất Nước trong cái nhìn toàn vẹn, tổng hợp, nhiều chiều, nhiều phương diện để có thể trả lời thấu đáo câu hỏi: Đất Nước là gì?

– Trước hết, Đất Nước được đặt trong chiều dài miên viễn của thời kì lịch sử Sau lời khẳng định tự hào và ấm áp Khi ta lớn lên đất nước đã có rồi, cảm giác về lịch sử lâu đời của Đất Nước được tô đậm hơn trong sự khám phá: Đất Nước có trong cái “ngày xửa ngày xưa” mẹ thường hay kể Ngày xửa gày xưa là câu mở đầu quen thuộc trong truyện cổ tích- thế giới cổ tích là thế giới xa xăm vô cùng trong tâm thức của con người, vậy mà trong thế giới ấy, Đất Nước cuat chúng ta đã hiện hữu, tưởng như “Từ có vũ trụ – Đã có giang sơn” (Bạch Đằng giang phú – Trương Hán Siêu).

+ Đất Nước như đã có tự thuở hồng hoang trong những câu chuyện ngày xửa ngày xưa của mẹ, từ sử thi Đẻ đất đẻ nước, Sự tích trăm trứng, truyền thuyết về An Dương Vương hay Sơn Tinh Thủy Tinh…Nhắc tới ngày xửa ngày xưa cũng là nhắc tới những cách lí giải hồn nhiên của dân gian về sự hình thành và phát triển Đất Nước, về quá trình dựng nước và giũ nước, qua đó, Nguyễn Khoa Điềm đã thể hiện niềm tự hào sâu sắc về truyền thồng cha ông, về bề dày lịch sử của một đất nước bốn ngàn năm.

– Những cụm từ liên tiếp lặp lại từ đầu tới cuối đoạn thơ: Đất Nước đã có rồi… Đất Nước bắt đầu… Đất Nước lớn lên… Đất Nước có từ ngày đó… đã gợi ra chiều dài thăm thẳm của lịch sử Đất Nước trong quá trình hình thành và phát triển.

+ Lời khẳng định: Đất Nước có từ ngày đó…đã tiếp tục đưa đến cảm nhận về lịch sử lâu đời của Đất Nước. “Ngày đó” là một khái niệm thật mơ hồ về thời gian, tính chất mơi hồ không xác định khiến sự ra đời của Đất Nước càng trở nên xa xăm. Ngày đó cũng là ngày xửa ngày xưa , khi dân mình biết trồng trê mà đánh giặc, khi tóc mẹ thì bới sau đầu, khi cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn…. câu thơ đã giúp người đọc nhận ra Đất Nước bắt đầu, Đất Nước lớn lên,…

+ Đất Nước hình thành và phát triển chính từ những phong tục tập quán , những truyền thống văn hóa, lịch sử lâu đời. Nếu sự nối tiếp các triều đại, các chế độ mới chỉ cho thấy bề mặt của lịch sử Đất Nước thì chính những phong tục tập quán mới thực sự chỉ ra chiều sâu văn hóa- lịch sử, nền tảng vững chắc của Đất Nước.

+ Thời gian lịch sử của Đất Nước trước hết hiện ra trong những huyền thoại đẹp đẽ và bay bổng về buổi đầu lập nước khi: Lạc Long Quân và Âu Cơ Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng Đây là một huyền thoại đầy ý nghĩa đem lại niềm tự hào về lịch sử xa xăm vô cùng của Đất Nước, niềm tự hào về dòng dõi con Rồng cháu Tiên, huyền thoại gợi niềm thương mến, ấm áp về nghĩa tình đồng bào thiêng liêng, ruột thịt.

+ Thời gian lịch sử của Đất Nước cũng hiện ra qua những câu thơ gợi nhớ về truyền thuyết Vua Hùng Vương và ngày giỗ Tổ, câu chuyện về chú bé làng Gióng cầm gậy tre đánh giặc, câu chuyện về lớp lớp thế hệ người Việt Nam với những ai đã khuất trong quá khứ, những ai bây giờ trong hiện tại, mai nàu con ta lớn lên trong tương lai- những thế hệ người Việt Nam ấy cứ nối tiếp từ đời này sang đời khác: Yêu nhau và sinh con đẻ cái Gánh vác phần người đi trước để lại Dặn dò con cháu chuyện mai sau…,

+ Nguyễn Khoa Điềm đã làm hiện lên trong suy tưởng của người đọc một chiều dài thời gian đằng đẵng của lịch sử Đất Nước. Qua đó, Đất Nước được cảm nhận như một sự thống nhất, hài hòa các phương tiện văn hóa, lịch sử, đạo lí…vừa cao cả, thiêng liêng vừa gần gũi gắn bó với cuộc sống hàng ngày của NHÂN DÂN. Những giá trị tinh thần bèn vững như lòng yêu nước, căm thù giặc, ý chí bất khuất kiên cường chống giặc ngoại xâm, đạo lí thủy chung tình nghĩa, truyền thống nhân ái…, những giá trị vật chất quý giá của Đất Nước như ngôi nhà, cánh đồng, hạt lúa được hình thành, nuôi dưỡng, được bảo vệ, gìn giữu qua các thế hệ tạo nên sự gắn kết giữa quá khứ, hiện tại và tương lai. Vậy là nếu nhìn từ bình diện thời gian, có thế thấy Đất Nước hình thành và phát triển qua cuộc chạy tiếp sức lớn lao, vĩ đại, vĩnh hằng của các thế hệ người Việt Nam trong chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước Không tách rời khỏi thời gian,

+ Đất Nước đồng thời được đặt trong chiều rộng của không gian địa lí. Không gian nguồn cội đầu tiên từ thuở lập nước là không gian nơi Chim về, Rồng ở, nơi Lạc Long Quân và Âu Cơ, đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng. Câu chuyện về bố Lạc Long Quân và mẹ Âu Cơ sinh ra một trăm con, 50 người theo cha xuống biển, 50 người theo mẹ lên non, khai hoang lập nước…, khiến cho núi rừng sông biển không còn đơn thuần là cảnh swac thiên nhiên mà là những không gian thiêng liêng, gần gũi trong tiềm thức người dân Việt, trở thành chứng tích của tổ tiên xa xăm, trở thành nguồn cội ấm áp, thân yêu cho tình nghĩa đồng bào. Đất Nước cũng là nơi dân mình đoàn tụ, là không gian sinh tồn của cả cộng đồng dân tộc, là ngôi nhà lớn của đại gia đình người Việt Nam qua các thế hệ dân tộc với những ai đã khuất, những ai bây giờ , là nơi dân Việt Hàng năm ăn đâu làm đâu / Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ tổ, không chỉ hiện ra trong những không gian kì vĩ với núi rừng sông biển, nơi con chim phượng hoàng bay về hồn núi bạc…con cá Ngư Ông móng nước biển khơi, Đất Nước còn hiện hữu thân yêu sau những lũy tre làng, những mái nhà tranh…

+ Trong đoạn thơ đầu, quấn quít đan xen với từ ghép Đất Nước, với các thành tố Đất và Nước là các danh từ chỉ những người thân yêu cho gia đình, điều đó khiến Đất Nước thực sự trở thành một không gian ấm áp, bình yên với ông bà, cha mẹ, cháu con. Và trong cảm nhận của tuổi trẻ, của anh và em, Đất Nước cũng là một cõi thơ mộng ngọt ngào với những không gian tuyệt diệu dành cho tình yêu lứa đôi: Đất là nơi anh đến trường Nước là nơi em tắm Đất Nước là nơi ta hò hẹn Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn tay trong nỗi nhớ thầm. Mái trường là nơi anh học, dòng sông là nơi e tắm, giếng nước gốc đá nơi ta hò hẹn.., những không gian chứa đừng bao tình thương nỗi nhớ ấu đều là sự hiện hữu cụ thể nhất, gần gũi nhất của những giá trị tinh thần, đạo lí góp phần làm nên Đất Nước, những nghĩa tình không phải chỉ anh và em trong hiện tại mà còn của bao thế hệ đã qua trong quá khứ, bao thế hệ sắp tới trong tương lai.

+ Đất Nước hiện ra trong những không gian thân thuộc mà hào hùng của làng quê Việt Nam khi những rặng tre ngà, những ao đầm làng Gióng, những đá Vọng Phu…đều trở thành dấu tích oanh liệt và đau thương của những cuộc chiến tranh vệ quốc để lại trên thân mình Đất Nước. Đất Nước cũng là không gian lao động với những cánh đồng mênh mông của nền văn minh lúa nước, nơi bao thế hệ người Việt một nắng hai sương xay giã rần sàng làm nên hạt lúa. Qua sự dẫn dắt của nhà thơ, người đọc nhận ra một điều giản dị và sâu sắc. Nhìn ở bình diện không gian, Đất Nước là nơi những thế hệ người Việt Nam sinh ra, lớn lên, “yêu nhau rồi sinh con đẻ cái”, lao động dựng xây và chiến đấu bảo vệ Tổ Quốc thân yêu. Trên chiều rộng của không gian địa lí, chiều dài của thời gian lịch sử.

Đất Nước được cảm nhận như sự thống nhất của các phương tiện văn hóa, truyền thống, phong tục, đạo lí…

– Qua việc khai thác ý nghĩa của các thành tố Đất và Nước cũng như từ ghép Đất Nước trong mối quan hệ giữa thời gian và không gian, giữa lịch sử và địa lý, giưa quá khứ, hiện tại và tương lai; giwaax cá nhân và cộng đồng, gữa cái hằng ngày với cái vĩnh hằng.., bằng những chất liệu văn hóa dân gian như ca dao, thành ngữ, tục ngữ, từ thần thoại. truyền thuyết cổ tích…tời những thói quen trong sinh hoạt đời sống hàng ngày, NKĐ đã lm hiện lên hình ảnh Đất Nước với nghìn năm văn hiến, với truyền thống yêu nước và ý chí bất khuất đánh giặc ngoại xâm khi đan mình biết trồng tre mà đánh giặc, với truyền thống lao động cần cù chăm chỉ khi làm ra hạt gạo phải một nắng hai sương xay giã giần sàng, với truyền thống đạp đức cuẩ những con người thủy chung tình nghĩa luôn dặn nhau Tay bưng chén muối đĩa gừng- Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau, với những thuần phong mĩ tục đẹp đẽ, thiêng liêng từ miếng trầu là đầu câu chuyện, miếng trầu nên dâu nhà người…đến lời nhắc: Dù ai đi ngược về xuôi-Nhớ ngày giỗ Tổ mùng mười tháng ba…

+ Cần cù trong lao động dựng nước, dũng cảm kiên cường trong chiến đấu giữ nước, nhân hậu nghĩa tình trong ứng xử của cuộc sông hàng ngày là chiều sâu văn hóa tạo nên nền tảng vững chắc cho một Đất Nước.

Trong đoạn một, Đất Nước xuất hiện trong những gì bình dị thân thuộc nhất của cuộc sống hằng ngày, rồi mở rộng ra trong chiều của thời gian, không gian, lịch sử và địa lí; cuối cùng, cảm nhận của Đất Nước trở lại với những phát hiện về sự hiện hữu củ Đất Nước trong mỗi con người để từ đó nhắc nhở trách nhiệm của mỗi con người với Đất Nước.

Đất Nước có trong mỗi con người.

+ Sau những cảm nhận, suy ngẫm, những định nghĩa, liên tưởng, những cái nhìn nhiều chiều, nhiều phương diện, cuộc trò chuyện của đôi lứa đã dẫn đến một phát hiện giản dị mà sâu sắc: Trong anh và em hôm nay / Đều có một phần Đất Nước. Hôm nay luôn là sự kết tinh của hôm qua. Sự sống mỗi cá nhân luôn là sự thể hiện cụ thể sinh động hình ảnh của Đất Nước trong mọi giá trị, mỗi con người Việt Nam luôn thừa hưởng, tiếp nối và phát triển những giá trị văn hóa, tinh thần, vật chất của cộng đồng từ hạt gạo ta ăn, ngôi nhà ta ở, ngôn ngữ ta trò chuyện tâm tình, những đạo lí nghĩa tình khi ứng xử…

+ Một phần Đất Nước còn được nhà thơ biểu hiện qua một cảm nhận sâu sắc, thiêng liêng: Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình. Máu xương được hiểu theo nghĩa cụ thể và nghĩa ẩn dụ. Đất Nước được xây dựng, bảo vệ bằng máu xương của biết bao những thế hệ người Việt Nam; Đất Nước cho chúng ta cách sông và cách nghĩ;chính những truyền thống văn hóa, đạo lí được hình thành qua lịch sử dựng nước và giữ nước đã lm nên tâm hồn cốt cách nguời Việt Nam, trong đó có anh và em hôm nay.

– Quan hệ giữa Đất Nước với mỗi cá nhân, sự hiện hữu những giá trị vĩnh hằng của Đất Nước trong cuộc sống hằng ngày của mỗi cá nhân, trong cách sống, cách nghĩ, cách ứng xử của con người với con người…còn được biểu hiện qua hai hình ảnh thật sâu sắc: “Khi hai đứa mình cầm tay Đất Nước trong chúng ta hài hòa nồng thắm / Khi chúng ta cầm tay mọi người Đất Nước vẹn tròn to lớn”. Có thể hình ảnh cầm tay là sự biểu hiện cụ thể của mối quan hệ gắn bó giữa cá nhân và cộng đồng Khi chúng ta cầm tay mọi người.

– Tiếp nhận những giá trị bèn vững, thiêng liêng trong đời sông tinh thần, tình cảm ấy nghìn năm Đất Nước, tình yêu lứa đôi của a và e luôn hài hòa, nồng thắm với những thủy chung son sắt: Mình về có nhớ ta chăng /Ta như sao Vượt chờ răng giữa trời; nhhg nghĩa tình sâu nặng: “Em ơi chua ngọt đã từng / Non xanh nước bạc xin đừng quên nhau”, những đàm thắm nồng nàn: “tình anh như nước dâng cao / Tình em như dải lụa đào tẩm hương”… trong quan hệ của cá nhân vơi cộng đồng, sự vẹn tròn, to lớn của Đất Nước được hiện lên qua những nền tảng đạo lí khi người Việt luôn nhắc nhau về tình thương yêu, đùm bọc: nhiễu điều phủ lấy giá gương / Người trong một nước phải thương nhau cùng; luôn dặn nhau Uống nước nhớ nguồn, Ăn quả nhớ kẻ trồng cây…;  Đất Nước luôn lớn lao, thiêng liêng trong những lời dạy thiết tha mà nghiêm khắc về mối quan hệ giữa tình yêu cá nhân với số phận cộng động qua truyền thuyết Mị Châu Trọng Thủy…

Trách nhiệm của cá nhân với cộng đồng trong quá khứ, hiện tại và tương lai

– Có thể thấy cái hằng ngày với cái vĩnh hằng, cá nhân và cộng đồng, quá khứ, hiện tại và tương lai luôn là những phạm trù không thể tách rời. Nhận của thế hệ trước, mỗi cá nhân phải có trách nhiệm giữ gìn, phát triển và truyền những giá trị vật chất, tinh thần cao quý cho đời sau: Gánh vác phần người đi trc để lại / Dặn dò con cháu chuyện mai sau. Tuy nhiên, mỗi con người không chỉ có trách nhiệm với quá khứ khi “gánh vác”…, với tương lai khi “dặn dò”…, điều quan trọng nhất để lịch sử Đất Nước vận động cà phát triển là trong từng khoảnh khắc của hiện tại phải “biết gắn bó và san sẻ” để “làm nên Đất Nước muôn đời, đó là trách nhiệm với Đất Nước, cũng đồng thời là trách nhiệm với chính bản thân mình.

+ Viễn cảnh của Đất Nước, sự phát triển phồn thịnh của Đất Nước trong tương lai, vị trì, tầm vóc của Đất Nước trên trường quốc tế… đã được nhà thơ thể hiện trog một ẩn dụ đẹp đẽ và lãng mạn: Mai này con ta lớn lên Con sẽ mang Đất Nước đi xa / Đến những tháng ngày mơ mộng.  Đất Nước nhọc nhằn, nghèo khó hôm qua và hôm nay, Đất Nước đau thương, vất vả trong những cuộc chiến tranh hôm qua và hôm nay, Đất Nước ấy sẽ được đàng hoàng hơn, to đẹp hơn trong ngày mai khi con ta lớn lên, mang trong mình những phẩm chất tốt đẹp của bao thế hệ người Việt trong lịch sử dựng nước và giữ nước, con sẽ mang Đất Nước đi xa, sẽ đưa Đất Nước tới những bến bờ mà hqu và hn chỉ mới khát khao, khẳng định những giá trị vật chất quý giá, những giá trị tinh thần đẹp đẽ của Đất Nước để Đất Nước có thể tự hào sánh vai với các cường quốc năm châu.

Đoạn từ câu 43-54: Những cách cảm nhận mới mẻ, những phát hiện độc đáo về không gian địa lí của Đất Nước trong mối quan hệ với Nhân Dân.

– Những chất liệu văn hóa dân gian: Đoạn thơ quan sát không gian địa lí của Đất Nước qua các di tích văn hóa, lịch sử như đền Hùng, núi Vọng Phu…các địa danh như làng Gióng, sông Cửu Long…, những thắng cảnh như hòn Trống Mái, núi Bút non Nghiên, hoặc đơn giản chỉ là những ruộng đồng gò bãi, núi sông… trên khắp mọi miền tổ quốc…

– Điều đáng nói là tất cả những không gian địa lí đều hiện ra qua một câu chuyện ngày xửa ngày xưa nào đó của văn hoa dân gian như Sự tích núi Vọng Phu, truyền thuyết Thánh Gióng- những câu chuyện gắn liền với những huyền thoại, huyền tích hoặc sự thật về Nhân Dân đã biến những cảnh quan bình dị của Đất Nước thành những danh thắng, những di tích văn hóa, lịch sử vừa thiêng liêng, vừa thân yêu, gần gũi trong tâm thức người Việt bởi sự gắn liền với cuộc sống của Nhân Dân, được cảm nhận qua tâm hồn Nhân Dân, được soi chiếu qua lịch sử dân tộc. Cuộc sống của Nhân Dân trong dòng chảy lịch sử dân tộc hòa với hình hài sông núi đã trở thành chất liệu phong phú, xúc động cho những thần toại, cổ tích, truyền thuyết trong văn hóa dân gian.

– Chọn từ những chất liệu nghệ thuat tiêu biểu của văn hóa dân gian, Nguyễn Khoa ĐIềm giúp người đọc cảm nhận xúc động và thấm thía những nỗi đau trong cuộc đời, thân phận, những vẻ đẹp trong tâm hồn, tính cách người Việt: sự tích hòn Vọng Phu không chỉ gơi ra nỗi xót xa cho cảnh li tán, sự chờ đợi mòn mỏi trong chiến tranh mà ocnf ca ngợi tình nghĩa thủy chung của những người vợ nhớ chồng; cách gọi tên hòn Trống Mái của dân gian qua cái nhìn của nhà thơ hiện đại đã tt biểu tượng cho vẻ đẹp phồn thực của cuôc đời, cho sự sắt son vĩnh hằng của tình yêu đôi lứa; những quả đồi thấp bao quanh núi Hi Cương, nơi có đến thờ các vua Hùng qua cách nhìn của nhân dân đã trở thành chứng tích của đàn voi chín mươi chín on quây quần thuần phục, trở thành biểu tượng của lòng dân đồng thuận hướng ề tổ quốc thống nhất; tên gọi núi Bút non Nghiên gợi hình ảnh của một đất nước nghìn năm văn hiến, với truyền thống hiếu học lâu đời, hình ảnh của một Đất Nước lưng đeo gươm, tay mềm mại bút hoa… (Huy Cận)

– Những câu chuyện về sự tích núi Vọng Phu, truyền thuyết Thánh Gióng, về miền đất Tổ Hùng Vương; những cách nhìn sông dáng núi để dặt tên như hòn Trống Mái, núi bút non Nghiên… đương nhiên chỉ là những hư cấu nghệ thuật, là những liên tưởng hoặc sâu xa, hoặc hồn nhiên, thú vị của cha ông để lí giải hình sông dáng núi, đồng thời phản ánh chân thực và cảm động những cảnh ngộ, những thân phận, những tâm nguyện, mơ ước và nhất là những vẻ đẹp trong tâm hồn, cốt cách người Viwwtj Nam suốt mấy ngàn năm qua. Trí tuệ dân gian đã dùng hình thức hư cấu huyền ảo của nth để lí giải những hình hài sông núi hiện hữu trong không gian Đất Nước, đồng thời phản ánh những nỗi đau, những vẻ đẹp có thật trong cuộc sống Nhân Dân.

– Đoạn thơ bắt đầu từ những huyền thoại của văn hóa dân gian nhưng lại bay bổng trên thế giới ấy bằng cái nhìn mới mẻ độc đáo bằng phương thức tư duy hiện đại Đoạn thơ liên tiếp lặp lại các cụm động từ góp cho Đất Nước…góp nê…. Góp mình dựng đất…góp dòng sông…góp cho Hạ Long…góp têm… Và chủ thể vủa những sự đóng góp ấy là những người vợ nhớ chồng, là cặp vợ chồng yêu nhau, là người học trò nghèo, là những người dân nào… tất cả đều vô danh, đó chính là Nhân Dân, qua năm tháng, lặng lẽ bền bỉ, kiên cường, đã tạo dựng nên Đất Nước, đã đặt tên, in dấu sâu đậm trên dáng hình của quê hương xứ sở.

– Vậy là nếu tác giả dân gian xưa dùng thần thoại truyền thuyết để lí giả hình dáng núi sông, qua đó gửi gắm những ước mơ, xót thương những thân phận, ngợi xa những phẩm chất tốt đẹp của Nhân Dân thì NKĐ tuy vẫn đặt hình hài Đất Nước trong thế giới huyền ảo của văn hóa dân gian nhưng nhà thơ hiện đại không dừng lại ở việc miêu tả núi sông mà đem đến một cách nhìn mới cho núi sông. Những núi Vọng Phu, hòn Trống Mái hay núi Bút non Nghiên không còn là những cảnh sắc thiên nhiên thuần túy, cũng không chỉ được nhìn qua những cảnh ngộ, nỗi niềm hoặc phẩm chất của Nhân Dân mà còn được nhìn nhận như một phần tâm hồn, máu thịt của Nhân Dân, là minh chứng thiêng liêng, xúc động cho sự đóng góp của Nhân Dân để làm ra Đất Nước. Với cách nhìn nhận ấy, mỗi ngọn núi, dòng sông, mỗi ruộng đồng, gò bãi, mỗi danh lam thắng cảnh trên khắp mọi miền DDnước đều không vô tri, đều như có tâm hồn, như mang tâm trạng, đều gợi một dáng hình, một ao ước, một lối sông ông cha; đều trở thành kí ức đẹp đẽ, vĩnh hằng về tâm hồn, tính cách và số phận của Nhân Dân Cách nhìn vừa mới mẻ vừ mang đậm sắc thái dân gian đã giúp nhà thơ khẳng định và ca ngợi công lao của Nhân Dân đối với Đất Nước.

– Sự đóng góp vô tận, lớn lao của Nhân Dân đã được thể hiện qua những dòng thơ sâu sắc và tràn đầy xúc cảm: Ôi Đất Nước bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy Những cuộc đời đã hóa núi sông ta… Nếu bốn nghìn năm là dòng thời gian đằng đẵng của lịch sử dựng nước và giữ nước thì cụm từ đi đâu ta cũng thấy lại gợi hình ảnh về những không gian mênh mông của Đất Nước; lặng lẽ bền bỉ cùng dòng thời gian ấy, trung hậu, kiên cường trong không gian ấy là vời vợi những cuộc đời của Nhân Dân. Động từ hóa không chỉ gợi ra những đóng góp lớn lao bởi mồ hôi, xương máu của Nhân Dân trong quá trình dựng nước và giữ nước, mà còn khẳng định, ngợi ca sức mạnh kì diệu, sự hóa thân kì diệu của những con người vô danh, thầm lặng một nắng hai sương trong thời bình, kiên cường trồng tre mà đánh giặc trong thời chiến, nhân hậu nghĩa tình trong cuộc sống hàng ngày…để làm nên núi sông ta .

Tư tưởng Đất Nước của Nhân Dân đã được thể hiện trước hết ở bình diện không gian, khi chính Nhân Dân, lớn lao và thầm lặng , bằng tình yêu và nỗi đau, bằng sự dũng cảm hay cần cù nhẫn nại, bằng cách sống, cách nghĩ nhân hậu, thủy chungm bằng những ước mơ đẹp đẽ, những khát khao bình dị đã in dấu cuộc đời lên hình dáng núi sông, đã làm nên Đất Nước muộn đời

Đoạn từ câu 55-90: Những suy ngẫm của nhà thơ về thời gian lịch sử của Đất Nước trong mối quan hệ với cuộc sống Nhân Dân.

Cảm nhận chung về Nhân Dân trong dòng chảy lịch sử.

– Sau những phát hiện mới mẻ và độc đáo về sự đóng góp của Nhân Dân đề làm nên những không gian hữu hình cúa Đất Nước, nhân vật trữ tình lại cất tiếng goi thiết tha tới nguwofi con gái yêu thương, cùng nhau hướng cái nhìn suy tư và hoài niệm vào dòng chảy xa xăm, sâu thẳm, vô hình của bốn nghìn năm Đất Nước, nhìn để quan sát và chiêm nghiệm về công sức của Nhân Dân với sự nghiệp dựng nước và giữ nước. Em ơi em Hãy nhìn rất xa Vào bốn nghìn năm Đất Nước.

– Trong cái nhìn ấy, những thanh niên VN thời chống Mĩ đã nhận thấy hìn ảnh của Nhân Dân khi: “Năm tháng nào cũng người người lớp lớp Con gái con trai bằng tuổi chúng ta”. Rồi lại: Có biết bao nguời con trai con gái Trong bốn nghìn lớp người giống nhau lứa tuổi.

– Sự lặp lại bộn bề của ngôn từ với người người lớp lớp…con gái con trai,,, có biết bao người…bốn nghìn lớp người…đã đem đến ấn tượng về sự đông đảo vô cùng của Nhân Dân. Mỗi lớp người là một thế hệ có biết bao người con trai con gái, tất cả đều từng bằng tuổi chúng ta, đều dẹp đẽ trẻ trung, đều cần cù dũng cảm, nối tiếp nhau hết thời này đến thời khác làm lụng tỏn thời bình để xây dựng Đất Nước, ra trận và trở thành anh hùng khi Đất Nước có giặc ngoại xâm để baaro vệ Đất Nước. Cả đoạn thơ không hề có tên riêng ,chỉ có con trai con gái, không có tên một triều đại dù là hoàng kim, cũng không nhắc đến những anh hùng dù cả anh và em đều nhớ… Phải chăng vì các triều đại oanh liệt, các anh hùng lẫy lừng tên tuổi đã được tổ quốc lưu danh sử sách, được lòng dân muôn đời nhớ ơn, thờ phụng, và dù sao, con số cac triều đại , các anh hùng là hữu hạn; còn sự đóng góp của Nhân Dân, của biết bao con gái con trai trong suốt bốn nghìn năm Đất Nước, những con người đã cần cù làm lụng dựng xây Đất Nước hoặc ra trận đánh giặc chiến đấu bảo vệ tỏ quốc thì vô dnah và vô hạn, thầm lặng và lớn lao, họ đã lặng lẽ hiến dâng từ mồ hôi, xuong máu, từ tâm hồn, trí tuệ cho đến cả tuổi thanh xuân và hạnh phúc lứa đôi để làm nên Đất Nước.

Tiếp theo, Nguyễn Khoa Điềm đề cập đến cách nghĩ, cách sống, và khẳng định công lao của Nhân Dân trong bốn câu thơ đặc biệt hàm súc: Họ đã sống và chết Giản dị và bình tâm Không ai nhớ mặt nhớ tên Nhưng họ đã làm ra Đất Nước.

“Họ” là đại từ nhân xưng ngôi thứ ba số nhiều, không mang tính chất xác định, và trong đoạn thơ này, thoe cách nhìn nhận của Nguyễn Khoa Điềm, đó là biết bao người con gái con trai / Trong bốn nghìn lớp người giống ta lứa tuổi, đó là Nhân Dân, những lớp người thầm lặng, vô danh, lớn lao, động đảo. Câu thơ đặt họ giữa hai bình diện sống và chết, nhưng điều kì lạ là hai thái cực này không tạo ra cẩm giác đối lập, cũng không đưa đến cảm giác ảm dạm về cái chết- Nó chỉ gợi những dạng thái của tồn tại và tiếp nối, gợi sự trôi chảy miên viễn của thời gian khi những thế hệ người Việt Nam nối tiếp nhau sinh ra và lớn lên, yêu nhau và sinh con đẻ cái, tạo ra dòng chảy vĩnh cửu của sự sống. Đem đến cảm giác này trước hết do sự nhịp nhàng, yên ả và bình lặng khi các nhịp thơ 3/2-2/3 nối tiếp luân chuyển trong 2 câu đầu; sau đó là tính chất phiếm chỉ của đại từ “họ”, đó không phải là một con người, một thế hệ, đó là Nhân Dân, là quá khứ, hiện tại và tương lai của cha ông xưa, của chúng ta hôm nay, của con cháu muô đời sau…

Câu thơ tiếp theo xác định đặc điểm của nhân dân trong cách sống giản dị, trong cách nghĩ bình tâm. Họ cứ thuần phát đơn sơ, cần cù làm lụng sau những lũy tre làng, gắn bó thân yêu với ruộng đồng gò bãi, từ thời này sang đời khác cui cút làm ăn toan lo nghèo khó (Nguyễn Đình Chiểu. Khi Đất Nước có giặc, họ là những người đầu tiên ra trận, chiến đấu bảo vệ Đất Nước. Khi hết giặc, súng gươm vứt bỏ lại hiền như xưa, họ trở về với cuộc sống đời thường, bình tâm thanh thản, không đòi hỏi, không yêu cầu, yêu sách, sứ lặng lẽ gánh vác phần người đi trước để lại- Dặn dò con cháu chuyện mai sau khiến cho sự sống và cái chết của họ bình thản nối tiếp trong dòng chảy vĩnh hằng của thời gian.

Lịch sử bốn nghìn năm Đất Nước được viết bằng mồ hôi, nước mắt, máu xương của những con người ấy, nhưng lịch sử không biết họ là ai, cũng vì họ quá đông đảo và luôn luôn thầm lặng. Họ có thể là những nông dân tần tảo lam lũ với hạt gạo một nắng hai sương xay, giã, dần, sàng; là những người phụ nữ kiên cường gánh trên vai bao cuộc chiến tranh khi tiễn người con trai ra trận, họ trở về nuôi cái cùng con, vò võ cô đơn suốt tuổi thanh xuân, để sông núi Không hóa thạch kẻ ra đi mà hóa thạch kẻ đợi chờ (Chế Lan Viên). Họ cũng có thể là những nông dân nghĩa sĩ: Sống đánh giặc, thác cũng đánh giặc, linh hồn theo giúp cơ binh… (Nguyễn Đình Chiểu), là những người con trai đã dằn lòng bỏ lại gia đình, quê hương và những người thân yêu để gian nhà không mặc kệ gió lung lay, để giếng nước gốc đa nhớ nhung da diết..; là những người đã nhất quyết ra đi đầu không ngoại lại, quyết tử cho tổ quốc quyết sinh; để rồi biết bao người lính, mùa xuân ấy, ra đi từ đó không về; và họ cũng có thể là người lính trên đường hành quân qua miền Tây năm ấy: Anh bạn dãi dầu không bước nũa Gục trên súng mũ bỏ quên đời Tất cả họ đều vô danh không ai nhớ mặt nhớ tên…nhưng họ đã làm ra Đất Nước.Mỗi người dân Việt trong quỹ thời gian hữu hạn của mình để dựng nước và giữ nước. Tuy nhiên, chính những đóng góp dù nhỏ bé của mỗi con người đã làm nên sự lớn lao, vĩ đại của Đất Nước, và chính những cuộc đời ngắn ngủi, hữu hạn của mỗi con người lại làm nên sự trường tồn vô hạn của Đất Nước muôn đời.

Sau bốn câu thơ khái quát công lao của Nhân Dân, lực lượng đông đảo nhất, vĩ đại nhất và cũng thầm lặng nhất trong suốt bốn nghìn năm qua, kiên cường bền bỉ tạo dựng, giữ gìn, lm ra Đất Nước, đoạn thơ nối tiếp đã cụ thể hóa công lao của Nhân Dân trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước.

Trước hết là công lao trong sn dựng nước, trong việc sáng tạo, bảo vệ, duy trì từ của cải vật chất đến những giá trị tinh thần: Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng Họ truyền lửa qua mỗi nhà, từ hòn than qua con cúi / Họ truyền giọng điệu mình cho con tập nói / Họ gánh theo tên xã tên làng trong mỗi chuyến di dân / Họ đắp đập be bờ cho người đời sai trồng cây hái trái

Chủ ngữ của các câu tơ là đại từ họ, nếu phép điệp đem đến cgi về sự đông đảo, tính chất không xác định gợi sự vô danh thì vai trò chủ thể của những hoạt động đã khẳng định công lao to lớn của Nhân Dân với Đất Nước. Cặp động từ giữ… truyền hơn một lần lặp lại trong đoạn thơ đã khẳng định sứ mệnh thiêng liêng của mỗi con người, các thế hệ trong công cuộc xây dựng Đất Nước, đó là gánh vác việc thế hệ trước giao phó, giữ gìn, duy trì phát triển để rồi đắn đo, ủy thác, truyền cho những thế hệ con cháu tiếp nối. Sau những động từ giữ…truyền…gánh…đập…be… là những hình ảnh hoặc ữu hình như: Hạt lúa…lửa… hòn than… hoặc vô hình như giai điệu, tiếng nói, tên xã, tên làng… tất cả đều là những gtr tinh thần hoặc vật chất, để lm nên Đất Nước và đều gắn bó thân thiết với cuộc sống hàng ngày của người Nhân Dân.

Tấm lòng của Nhân Dân, công lao khó nhọc của Nhân Dân được kđ trong câu thơ đầy xúc động: Họ giữ cà truyền cho ta hạt lúa ta trồng. Đất Nước Vn nằm trong cái nôi của nền văn minh sông Hồng, và Nhân Dân bao đời nay sống bằng nghề úa nước. Từ thuở lập quốc, những nguoi con của mẹ Âu Cơ đã tìm ra cây lúa, đã một nắng hai sương chăm chút, nâng niu, để rồi giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng. Hạt lúa-những hạt ngọc ngà chắt chiu tinh hoa trời đất, kết quả của mồ hôi, công sức của con nguoi vì thế đã trở thành truyền thống lao động cần cù của những người nông dân ngày đêm vất vả bán mặt cho đất, bán lưng cho trời. Hạt lúa cũng là hình ảnh của niềm vui. của cuộc sống ấm no khi mồ hôi má đổ xuống đồng, lúa mọc trùng trùng sáng cả đồi nương.

Lời dặn của cha ông xưa về việc kiêng đổ thóc gióng ra ăn cho thấy sự thiêng liêng, qtrh trong việc giữ và truyền lại hạt lúa cho mùa sau, đời sau, đó là truyền lại sự sinh tồn và phát triển đối với một dân tộc có nền văn minh lúa nước lâu đời, đó cũng là việc truyền lại tình yêu và niềm hi vọng về cuộc sống. Nhân Dân còn truyền lửa qua mỗi nhà, tự hòn than qua con cúi. Lửa là hình ảnh của một quá khứ xa xăm khi con người bắt đầu tìm đến ánh sáng văn minh, khi với việc tìm ra lửa, loài người thực sự tách ra khỏi thế giới nguyên thủy tăm tối, dã man. Chính ngọn lửa đã duy trì sự sống, sự tồn tại cho nhân loại.

Nhắc tới lửa là nhắc tới cuộc sống thịnh vượng, sum vầy và cảm giác ấm áp, chở che. Bên những bếp lửa ấp iu nồng đượm (Bằng Việt), gia đình, cộng đồng quây quần đầm ấm, gắn bó yêu thương. Từ ngàn xưa, quau những viên than ấp ủ, những con cúi bện bằng rơm. Từng ngàn xưa, nguoi Việt đã truyền lửa cho nhau trong những không gian thấm đượm tình làng nghĩa xóm, trong những khi tối lửa tắt đèn… Lửa cũng đồng thời gợi đến cuộc chiến tranh khói lửa để từ đó Đất Nước rũ bùn đứng dậy sáng lóa (Nguyễn Đình Thi): ý thơ cũng gợi liên tưởng tới những người nông dân- nghĩa sĩ Cần Giuộc năm xưa với hỏa mau bằng rơm con cúi…trong sự liên tưởng ấy, ngọn lửa chính là biểu tượng của lòng yêu nước, căm thù giặc và ý chí bất khuất kiên cường đánh giặc ngoại xâm gắn bó với cuộc sống sinh hoạt, lao động và chiến đấu của Nhân Dân, hình ảnh ngọn lửa khi bình dị , thân yêu, nồng ấm, khi rực rỡ, kì vĩ. lớn lao. Từ đó có thể thấy, truyền lửa qua mỗi nhà vừa là hình ảnh cụ thể của tình làng nghĩa xóm khi tắt lửa tối đèn, là trao gửi sự sống ấm áp trong những không gian và làng xã Việt bằng hòn than qua con cúi như thuở xa xưa, là truyền lại sức sống trường tồn cho bốn nghìn năm Đất Nước mà cũng là truyền lại bầu nhiệt huyết để Nhân Dân nối tiếp nhau dựng nước và giữ nước.

Hai câu thơ tiếp theo lại nói về công lao của Nhân Dân trong việc tạo lập và giũ gìn truyền thống văn hóa, tinh thần của Đất Nước. Nhân Dân đã truyền giọng điệu mình cho con tập nói. Tiêng nói là của cải tinh thần vô giá, là phương tiện giao tiếp quan trọng nhất của một cộng đồng xã hội, là một giá trị văn hóa phi vật thể góp phần làm nên bản sắc văn hóa của một dân tộc. Tiếng nói ấy tồn tại và phát triển cung Đất Nước bất chấp hàng ngày năm Bắc thuộc, hàng trăm năm Pháp thuộc và bao nhiêu cuộc chiến tranh, bất chấp cả những âm mưu đồng hóa của mọi kẻ thù xâm lược. Đó là nhờ tấm lòng và công sức của Nhân Dân bao đời nay, qua những lời ru ngọt ngào của bà, của mẹ, qua những lời ca câu ví dân gian, qua sự trong trẻo, thâm trầm của thế giới thần thoại, cổ tích….

Nhân Dân đã truyền lại cho con cháu không chỉ những tình cảm thắm hiết ân tình, những bài học đạo lí, những linh nghiệm sâu sắc trí tuệ mà con cả giọng điệu, tiếng nói, ngôn ngữ của dân tộc. Nhân Dân còn trân trọng giữ gìn cả những địa danh thân thuộc của từng vùng miền quê hương đất nước: Họ gánh theo tên xã, tên làng trong mỗi chuyến di dân Trong cuộc sống hàng ngày của Nhân Dân, trong sự vận động và phát triển của lịch sử Đất Nước, có những sự thay đổi nơi cư trú vì chiến tranh, vì cuộc sống hoặc để hưởng ứng những chủ trương chính sách của nhà nước đưa Nhân Dân đi khai khẩn đất hoang, xây dựng cái vùng kinh tế mới. Hàng trang người dân mang theo trong những chuyến di dân không chỉ là đồ đạc, lương thực, bên cạnh những giá trị vật chất còn là những giá trị tinh thần thiêng liêng, quí giá.

Nghệ thuật ẩn dụ trong câu thơ qua động từ gánh đã khiến những khái niệm trừu tượng như tên xã tên làng bỗng trở nên cụ thể và trĩu nặng. Đó không đơn thuần chỉ là địa danh, tên xã tên làng là hình ảnh của những làng xã Việt, gợi đến những phong tục tập quán, những đình chùa lễ hội, những giếng nước gốc đa thấm đẫm bao kỉ niệm yêu thương … Những cái tên được mang theo trong mỗi chuyến di dân – vì thế mà trĩu nặng tình yêu và nỗi nhớ, nhất là sự thiêng liêng ấm áp của nơi cắt rỗn chôn rau. Người dân mang theo những tên xã, tên làng thân thuộc đặt cho vùng đất mới vừa để làm dịu vợi phần nào nỗi nhớ quê hương của thế hệ này, vừa để khắc sâu nỗi nhớ của những thế hệ sau về cội nguồn quê cha đất tổ, về những truyền thống căn hóa, những thuần phong mĩ tục của quê hương bản quán.

Nhân Dân còn xây dựng những nền tảng vững chắc cho đời sau an cư lạc nghiệp: Họ đắp đập be bờ cho người sau trồng cây hái trái Nhĩa của những cụm động từ đắp đập, be bờ gợi lên sự vun vén cho đầy đặn hơn, vững chắc hơn, đây là hình ảnh thể hiện sự chăm chút ân cần của những người đi trước với con cháu đời sau. Nhân Dân kiên nhẫn, bền bỉ đắp đập be bờ cho các thế hệ sau yên tâm trồng cây hái trái. Sự khác nhau giữ hai cụm động từ ở đầu và ở cuối câu thơ về cả thời gian (đời trước – đời sau), và tính chất công việc (chuẩn bị – hưởng thụ), đã cho thấy đức hi sinh lớn lao, cao thượng của những người đi trước: họ vất vả lo lắng làm lụng nhưng có thể chẳng được hưởng thành quả lao động của mình, cây và trái hầu như chỉ dành cho đời sau, nhưng họ vẫn bình tâm thanh thản, mãn nguyện trong niềm hi vọng con cháu được hưởng phúc, được sung sướng, ấm no từ sự chuẩn bị chu đáo, trìu mến của mình.

Khi Đất Nước có chiến tranh, Nhân Dân lại là những người xông pha nơi hòn tên mũi đạn, dũng cảm chiến đấu, sẵn sàng hi sinh để bảo vệ sự bình yên cho Đất Nước: Có ngoại xâm thì chống ngoại xâm Có nội thù thì vùng lên đánh bại Cấu trúc hô ứng: có… thì điệp lại lên tiếp trong hai dòng thơ cùng một loạt những động từ mạnh: chống,… vùng lên, đánh bại… khiến giọng điệu thơ rắn rỏi, đanh thép, cho thấy tinh thần tự nguyện cao độ của Nhân Dân trong sự nghiệp giữ nước. Trong những cuộc chiến tranh vệ quốc, Nhân Dân đã không hiền toan tính, ngại ngần, không yêu cầu, yêu sách, sẵn sàng chiến đấu và hi sinh vì Đất Nước, cùng là để bảo vệ những giá trị tinh thần và vật chất quí giá do thế hệ trước để lại, do họ vất vả gánh vác, giữ gìn, tạo dựng và truyền lại cho đời sau. Đó là những giá trị thiêng liêng thấn đẫm mồ hôi, nước mắt, máu xương của biết bao nhiêu thế hệ mà Nhân Dân không cho phép bất cứ kẻ thù nào xâm phạm, hủy hoại. Đoạn thơ đã cho thấy công lao vĩ đại của Nhân Dân đối với Đất Nước: họ nối tiếp nhau sáng tạo, giữ gìn, phát triển và truyền lại cho các thế hệ mai sau những giá trị văn hóa, văn minh tinh thần và vật chất của Đất Nước từ hại lúa, ngọn lửa, tiếng nói đến tên xã tên làng, tục ngữ, ca dao…

Mỗi thành quả của Đất Nước ngày hôm nay đều là kết tinh, thừa hưởng, tiếp nối quá trình lao động sáng tạo cần cù, bền bỉ của Nhân Dân. Bất chấp những gian khó nhọc nhằn trong lao động dựng xây, những mất mát hi sinh trong những cuộc chiến tranh máu lửa, suốt bốn nghìn năm dựng nước và giữ nước, Nhân Dân đã giữ gìn hồn thiêng sông núi, làm nên bản sắc dân tôc, đã nối tiếp nhau viết những trang sử hào hùng bằng sức mạnh của tình yêu và ý chí bất khuất kiên cường.

Mạch cảm xúc, suy ngẫm của bài thơ cứ dồn tụ dần để cuối cùng dãn tới cao trào, làm bật lên tư tưởng cốt lõi: Để Đất Nước này là Đất Nước Nhân Dân Đất Nước của Nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại Những khái niệm Đất Nước, Nhân Dân được viết hoa trang trọng, được lặp lại nhiều lần trong hai câu thơ đã cho thấy sự gắn bó không thể tách rời giữa Nhân Dân và Đất Nước, cũng là cách để nhà thơ tô đậm ý nghĩa khẳng định cho tư tưởng Đất Nước của Nhân Dân.

Sau những câu thơ khẳng định công lao to lớn của Nhân Dân trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước, câu thơ Để Đất Nước này là đất nước của dân tạo ra mối quan hệ nhân quả giữa hai đoạn thơ, nhờ đó, tác giả đã có thể lí giải sâu sắc và thấm thía hơn tư tưởng chủ đạo Đất Nước của Nhân Dân qua cách định danh mang đậm sắc thái sở hữu thiêng liêng: Đất Nước Nhân Dân. Với cụm danh từ Đất Nước Nhân Dân, nhà thơ đã khẳng định chủ nhân đích thực của Đất Nước bằng một nguyên nhân giản dị và sâu sắc: Đất Nước này tất yếu phải thuộc về Nhân Dân. Câu thơ sau đã lí giải rõ hơn cách định danh cho Đất Nước ở câu trên. Câu thơ tách thành hai vé có tính chất đẳng lập khiến người đọc nhận ra mối quan hệ gắn kết giữa Nhân Dân ở vế thứ nhất và ca dao thần thoại ở vế thứ hai. Ca dao thân thoại có thể coi là hình ảnh hoán dụ cho văn hóa dân gian, mà văn hóa dân gian là sản phẩm trực tiếp của trí tuệ dân gian, là nơi lưu giữ và tôn vinh vẻ đẹp tâm hồn, tính cách của Nhân Dân, cũng là nơi chia sẻ cảm thông cho những đau thương, bất hạnh của Nhân Dân.

Văn học dân gian do Nhân Dân sáng tạo nên và phán ảnh cuộc sống Nhân Dân, cho nên đến với văn học dân gian cũng là đến với Nhân Dân. Sự tương đồng ấy cho phép nhà thơ lí giải tư tưởng của mình một cách thấm thía và xúc động: Đất Nước của Nhân Dân vì Đất Nước được tạo dựng, được giữ gìn, bảo vệ… bởi tình yêu và nỗi đau của Nhân Dân, bằng nước mắt, mồi hôi, xương máu của vô vàn những con người thầm lặng, đói nghèo nhưng nghĩa tình trung hậu, của những số phận bất hạnh khổ đau mà dũng cảm kiên cường, đó là những nội dung đã được chính Nhân Dân phản ánh một cách chân thực và cảm động trong ca dao thần thoại, trong văn học dân gian, trong ca dao thần thoại. Qua ca dao thần thoại, Nhân Dân đã đem đến cho chúng ta những bài học đạo lí, dạy chúng ta biết yêu thương, biết trận trọng công sức nghĩa tình, biết căm ghét cái xấu, cái ác, biết kiên nhẫn phục thù – biết cách làm người: Dạy anh biết “yêu em từ thuở trong nôi” Biết quý công cầm vàng những ngày lăn lội Biết trông tre đợi ngày thành gậy Biết trả thù mà không sợ dài lâu.

Ca dao thần thoại còn ngân nga trong lời hát ca về Đất Nước: Ôi những dòng sông bắt nước từ đâu Mà khi về Đất Nước mình khi bắt lên câu hát Người đến hát khi chèo đò, khéo thuyền vượt thác Gợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi… Có lẽ tứ thơ xuất phát từ cảm hứng về những âm thanh ngọt ngào của những điệu hò mái nhì mái đẩy trên sống Hương xứ Huế, âm thanh tha thiếu của những điệu hò ví dặm sông Lam, âm thanh hào tráng trẻ trung trong những tiếng hò của những người chèo đò, khéo thuyền vượt thác trên dòng sông khúc thượng ngồn Tây Bắc… – đó là những tiếng hát được truyền từ đời này sang đời khác, thể hiện tình yêu với cuộc sống lao động, tình yêu với quê hương Đất Nước, thể hiện tinh thần lạc quan tươi trẻ của mọi phẩm chất đã giúp Nhân Dân dựng nước và giữ nước.

Có một câu ca đã hình dung Đất Nước tôi thon thả giọt đàn bầu…  mọi dòng sông dù có nguồn cội từ đâu nhưng khi về Đất Nước mình thì bắt lên câu hát, tới với Đất Nước của những tấm lòng nhân hậu, của những tâm hồn lãng mạn, trẻ trung thì văn xuôi cũng hóa thành thơ, lời nói đời thường cũng ngân nga thành câu hát. Tứ thơ độc đáo của Nguyễn Khoa Điềm giúp người đọc nhận rõ hơn tư tưởng chủ đạo của bài thơ: Đất Nước của Nhân Dân, Nhân Dân làm nên Đất Nước – Nhân Dân không chỉ lao động xây dựng, không chỉ chiến đấu để giữ gìn và bảo vệ Đất Nước, chính Nhân Dân với tình yêu và những khát vọng mãnh liệt, với trái tim luôn tràn đầy sự lạc quan tươi trẻ đã đem đến vẻ đẹp lãng mạn say người cho Đất Nước trên trăm dáng sông xuôi…

Tư tưởng Đất Nước của Nhân Dân đã manh nha từ xa xưa trong lịch sử với quan niệm dân vi bản, khi Nguyễn Trãi khẳng định Làm lật thuyền mới biết sức dân như nước; khi Nguyễn Đình Chiểu ca ngợi những người nông dân nghĩa sĩ cui cút làm ăn, toan lo nghèo khó mà cao cả, anh hùng…Tư tưởng ấy được khẳng định và nhận thức sâu sắc hơn trong thời đánh Mĩ khi được soi chiếu bằng quan điểm mác xít về Nhân Dân và thực tiễn của cuộc chiến tranh Nhân Dân.

Tư tưởng Đất Nước của Nhân Dân không chỉ được khẳng định ở bình diện nội dung mà còn được thể hiện ngay trong yếu tố hình thức của đoạn thơ, trong một không gian nghệ thuật thấm đẫm phong vị dân gian ngay trong những câu thơ trí tuệ và hiện đại. Ca ngợi Nhân Dân bằng chính những sản phẩm trí tuệ của Nhân Dân, bằng những sác tác phản ánh tâm hồn, tính cách và số phận Nhân Dân, Nguyễn Khoa Điềm đã có một lựa chọn độc đáo khiến tư tưởng Đất Nước của Nhân Dân được thể hiện sâu sắc và đầy sức thuyết phục.

  • Kết bài:

Tóm lại, đoạn thơ đã cảm nhận, phát hiện về Đất Nước trong cái nhìn tổng hợp, toàn vẹn, mang đậm tư tưởng Nhân Dân, đã sử dụng phong phú các yếu tố của văn hóa, văn học dân gian một cách sáng tạo, hòa nhập trong cách diễn đạt và tư duy hiện đại, đem đến mầu sắc thẩm mĩ vừa quen thuộc, vừa mới mẻ, phù hợp với tư tưởng cốt lõi của tác phẩm, cũng là tư tưởng bao trùm văn học 1945 – 1975: tư tưởng Đất Nước của Nhân Dân.


* MỘT SỐ ĐỀ LUYỆN TẬP.

Phân tích chi tiết đoạn thơ “ĐẤT NƯỚC” (trích “Mặt đường khát vọng”) của Nguyễn Khoa Điềm

  • Mở bài: 

Nguyễn Khoa Điềm là một trong số những nhà thơ tiêu biểu nhất của thế hệ các nhà thơ trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mĩ. Thơ ông giàu chất suy tư, xúc cảm lắng đọng, thể hiện tâm tư, ý thức của một công dân yêu nước đối với vai trò, trách nhiệm của thế hệ trẻ Việt Nam trong cuộc chiến đấu chung của cả dân tộc, thể hiện những sâu sắc về nhân dân, đất nước qua những trải nhiệm của chính mình.

Đoạn trích “Đất nước” thuộc phần đầu chương V của trường ca Mặt đường khát vọng. Tác phẩm được Nguyễn Khoa Điềm viết ở chiến khu Trị – Thiên năm 1971, in lần đầu 1974. Bản trường ca viết về sự thức tỉnh của tuổi trẻ các thành thị bị tạm chiến miền Nam, mở rộng ra là sự tự ý thức của tuổi trẻ Việt Nam, hướng về nhân dân, đất nước, ý thức được sứ mệnh của thế hệ mình trong cuộc chiến đấu chung của cả dân tộc.

  • Thân bài: 

Ở 42 câu đầu, đoạn thơ đã góp phần lí giải một trong những bình diện đầu tiên của tư tưởng Đất Nước của Nhân Dân, đó là quan niệm: Đất nước hòa quyện gắn bó sâu sắc trong cuộc sống hằng ngày của nhân dân, đất nước làm nên cuộc sống Nhân Dân, mỗi cá nhân phải có trách nhiệm đối với Đất Nước.

Đất Nước được hiểu là một nơi cư trú của một cộng đồng dân tộc có cương giới, lãnh thổ riêng, có sự gắn kết sâu sắc với nhau về văn hóa, phong tục, tập quán, có tiếng nói, ngôn ngữ riêng, có truyền thống lịch sử, văn hiến lâu đời.

Tùy theo từng thời kì lịch sử, Đất Nước được định nghĩa theo những cách quan niệm khác nhau, đất nước có thể thiêng liêng khi đó là nơi Nam đế cư, đất nước có thể hiểu ra trong những khái niệm trừu tượng nhưng trong đoạn đầu của Bình Ngô đại cáo thế kỉ XV với nền văn hóa đã lâu, núi sông bờ cõi đã chia, phong tục Bắc Nam cũng khác…. Văn học hiện đại cũng được tạo ra một khoảng cách sử thi thiêng liêng, tôn kính để chiêm ngưỡng. Đất Nước thông qua những hình ảnh kì vĩ, mang đậm tính biểu tượng. Đất Nước có thể huy hoàng khi “Rũ bùn đứng dậy sáng lòa”. Đất Nước cũng có thể đẹp lung linh, kì ảo, xa vời trong so sánh: “Đất nước như vì sao – Cứ đi lên phía trước” (Thanh Hải)….

Trong đoạn đầu, Nguyễn Khoa Điềm đã đưa đến một cách cảm nhận mới mẻ, vừa thấm thía xúc động về Đất Nước trong mối quan hệ với cuộc sống Nhân Dân. Trong đó, những khái niệm trừu tượng, những tiêu chí thiêng liêng định hình lên Đất Nước đã được nhà thơ thể hiện qua những hình ảnh cụ thể và bình dị, quen thuộc và gợi cảm, những hình ảnh luôn thường xuất hiện trong cuộc sống hàng ngày của Nhân Dân.

Câu thơ mở đầu đưa đến một cảm nhận ấm áp về sự hiện hữu của Đất Nước đối với mỗi con người:

“Khi ta lớn lên đất nước đã có rồi”

“Ta” là một khái niệm mơ hồ, không xác định, đó có thể bất cứ người Việt Nam nào, trong bất cứ thời điểm nào, là chúng ta hôm nay, là con cháu sau này, là cha ông hàng ngàn năm trước… Cứ mỗi người Việt Nam sinh ra là ngay lập tức được bao bọc và nâng niu, được nuôi dưỡng và che chở trong chiếc Nôi lớn lao, ấm áp, thân yêu, đó là Đất Nước. Đất Nước luôn có từ lúc trước đó, như từ thuở khai sinh lập địa, đón đợi những con dân Việt:

“Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa…” mẹ thường hay kể
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết tròng tre mà đánh giặc
Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Cái kèo, cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng
Đất Nước có từ ngày đó…”

Trước hết, Đất Nước được đặt trong chiều dài miên viễn của thời gian lịch sử. Sau lời khẳng định tự hào vào ấm áp “Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi”, cảm giác về lịch sử lâu đời của Đất Nước được tô đậm hơn trong sự khám phá: Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa… mẹ thường hay kể”. Ngày xửa ngày xưa là câu mở đầu quen thuộc trong truyện cổ tích – thế giới cổ tích là thế giới vô cùng xa xăm trong tâm thức con người, vậy mà trong thế giới ấy, Đất Nước của chúng ta đã hiện hữu, tưởng: “Từ có vũ trụ – Đã có giang san” (Trương  Hán Siêu). Đất Nước như đã có từ thuở hồng hoang trong những câu chuyện ngày xửa ngày xưa của mẹ từ sử thi “Đẻ đất đẻ nước”, từ “Sự tích quả bầu mẹ”, từ truyền thuyết về An Dương Vương hay Sơn tinh Thủy tinh…. Nhắc tới ngày xửa ngày xưa cũng là những cách lí giải hồn nhiên của dân gian về sự hình thành và phát triển Đất Nước, về quá trình dựng nước và giữ nước, qua đó, Nguyễn Khoa Điềm đã thể hiện niềm tự hào sâu sắc về truyền thống cha ông, về bề dày lịch sử của một đất nước bốn ngàn năm.

Với việc điệp lại liên tiếp những thành tố “Đất”, “Nước” cũng như từ ghép Đất Nước trong cả đoạn thơ, tác giả đã đưa đến một cảm giác rất rõ rệt: Đất Nước không ở đâu xa lạ, Đất Nước luôn gắn bó sâu sắc trong cuộc sống hàng ngày của nhân dân, đất nước có mặt ở mọi nơi, hiện hữu trong mọi hình hài dù là con người với ông bà cha mẹ, với anh và em, dù là cảnh vật với sông núi biển khơi, Đất Nước có thể hữu hình với cái kèo cái cột, hạt gạo, miếng trầu hay vô hình sau những nghĩa tình của muối mặn gừng cay, sau những nhớ nhung của đôi lứa khi khăn thương nhớ ai, khăn rơi xuống đất….

Trong đoạn thơ của Nguyễn Khoa Điềm, Đất Nước không được định nghĩa trong khái niệm xa xôi, trừu tượng mà hiện ra qua những chi tiết đời thường, gần gũi và bình dị của cuộc sống Nhân Dân, trong sự xưa cũ vô cùng của thời gian, năm tháng. Mỗi câu thơ đều chứa đựng một ý, một tứ nào đó của ca dao, thành ngữ, tục ngữ, một hình ảnh quen thuộc nào đó của truyền thuyết, thần thoại, cổ tích.

Những chất liệu của văn hóa dân gian qua sự chọn lọc tinh tế của nhà thơ hiện đại đã làm hiện ra những phong tục, những thói quen sinh hoạt hàng ngày như miếng trầu bây giờ bà ăn hay hình ảnh tóc mẹ thì bới sau đầu, thói quen đặt tên con một cách mộc mạc theo những sự vật, vật dụng hàng ngày quen thuộc để cái kèo cái cột thành tên; trong những ngôi nhà tranh với trong hạt gạo một nắng hai sương xay giã giần sàng….; truyền thống đánh giặc ngoại xâm trong hình ảnh cây tre là làng Gióng, văn hóa ứng xử trong đạo lí nghĩa tình của mẹ cha gừng cay muối mặn… Tất cả những hình ảnh gần gũi bình dị ấy đều đưa người đọc lên tưởng đến một phương diện nào đó của Đất Nước, đều là sự thể hiện sâu đậm, lâu bền nhất những phong tục tập quán, truyền thống văn hóa, lịch sử của Đất Nước khiến cho cái vĩnh hằng của Đất Nước luôn tồn tại, luôn hiện hữu trong cái hàng ngày của cuộc sống mỗi con người.

Qua những cảm nhận có vẻ như tản mạn, tùy hứng của cuộc trò chuyện tâm tình, qua những hình ảnh gợi nhắc tới tục ngữ, ca dao, thần thoại, cổ tích… nhà thơ đã đưa người đọc dần đến một nhận thức giản dị mà sâu sắc thấm thía: Đất Nước có một lịch sử lâu đời, Đất Nước không hề xa lạ hay trừu tượng, Đất Nước là những gì gần gũi, thân yêu vô cùng luôn hiện hữu trong cuộc sống hàng ngày của nhân dân, đất nước làm nên vóc dáng hình hài, làm nên tâm hồn, cốt cách, làm nên lối sống, lối nghĩ của mỗi con người, Đất Nước làm nên cuộc sống Nhân Dân.

Những cụm từ liên tiếp lặp lại từ đầu tới cuối đoạn thơ: Đất Nước đã có rồi…Đất Nước bắt đầu…Đất Nước lớn lên…Đất Nước có từ ngày đó… đã gợi ra chiều dài thăm thẳm của lịch sử Đất Nước trong quá trình hình thành và phát triển. Lời khẳng định: Đất Nước có từ ngày đó…tiếp tục đưa đến cảm nhận về lịch sử lâu đời của Đất Nước. Ngày đó là một khái niệm thật mơ hồ về thời gian, tính chất mơ hồ không xác định khiến sự ra đời của Đất Nước càng trở nên xa xăm. Ngày đó cũng là ngày xửa ngày xưa, khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc, khi tóc mẹ thì bới sau đầu, khi cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn…, câu thơ đã giúp người đọc nhận ra Đất Nước bắt đầu, Đất Nước lớn lên…Đất Nước hình thành và phát triển chính từ những phong tục tập quán, những truyền thống văn hóa, lịch sử lâu đời. Nếu sự nối tiếp các triều đại, các chế độ mới chỉ cho thấy bề mặt của lịch sử Đất Nước thì chính những phong tục tập quán mới thực sự chỉ ra chiều sâu văn hóa – lịch sử, nền tảng vững chắc của Đất Nước.

“Đất là nơi anh đến trường
Nước là nơi em tắm
Đất Nước là nơi ta hò hẹn
Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm
Đất là nơi “con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc”
Nước là nơi “con cá ngư ông móng nước biển khơi”
Thời gian đằng đẵng
Không gian mệnh mông
Đất Nước là nơi dân mình đoàn tụ”. 

Mái trường nơi anh học, dòng sông nơi em tắm, giếng nước gốc đa nơi ta hò hẹn…, những không gian chứa đựng bao tình thương nỗi nhớ ấy đều là sự hiện hữu cụ thể nhất, gần gũi nhất của những giá trị tinh thần, đạo lí góp phần “làm nên Đất Nước”, những nghĩa tình không phải chỉ của anh và em trong hiện tại mà còn của bao thế hệ đã qua trong quá khứ, bao thế hệ sắp tới trong tương lai.

Không tách rời khỏi thời gian, Đất Nước đồng thời được đặt trong chiều rộng mênh mông của không gian địa lí.

– Không gian nguồn cội đầu tiên thuở lập nước là không gian nơi chim về, Rồng ở, nơi Lạc Long Quân và Âu Cơ, Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng. Câu chuyện về Bố Lạc Long Quân và Mẹ Âu Cơ sinh ra trăm người con, năm mươi theo cha xuống biển, năm mươi theo mẹ lên núi, khai phá, xây dựng, lập nước…khiến cho núi rừng sông biển không đơn thuần chỉ là cảnh sắc thiên nhiên mà là những không gian thiêng liêng, gần gũi trong tâm thức người dân Việt, trở thành chứng tích của tổ tiên xa xăm, trở thành nguồn cội ấm áp, thân yêu cho tình nghĩa đồng bào.

Đất Nước cũng là Nơi dân mình đoàn tụ, là không gian sinh tồn của đồng bào dân tộc, là ngôi nhà lớn của đại gia đình người Việt qua bao thế hệ với Những ai đã khuất, những ai bây giờ, là nơi dân Việt Hằng năm ăn đâu làm đâu – cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ. Không chỉ hiện ra trong những không gian lớn lao kì vĩ với núi rừng sông bể, Nơi con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc… con cá ngư ông móng nước biển khơi, Đất Nước còn hiện hữu gần gũi thân yêu trong những lũy tre làng, những mái nhà tranh… Quấn quýt đan xen với từ ghép Đất Nước, với các thành tố “Đất”“Nước” là các danh từ chỉ những người thân yêu ruột thịt trong gia đình, điều đó khiến Đất Nước thực sự trở thành một không gian ấm áp, bình yên với ông bà cha mẹ, cháu con. Và trong cảm nhận của tuổi trẻ, của anh và em, Đất Nước cũng là một cõi thơ mộng ngọt ngào với những không gian tuyệt diệu dành cho tình yêu đôi lứa:

Đất Nước còn hiện ra trong những không gian thân thuộc mà hào hùng của làng quê Việt khi những rặng tre đằng ngà, những ao đầm làng Gióng, những đá Vọng Phu… đều trở thành dấu tích oanh liệt và đau thương của những cuộc chiến tranh vệ quốc để lại trên thân mình  Đất Nước. Đất Nước cũng là không gian lao động với những cánh đồng  mênh mông của nền văn minh lúa nước, nơi bao thế hệ người Việt một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng làm nên hạt lúa.

Qua sự dẫn dắt của nhà thơ, người đọc nhận ra một điều giản dị và sâu sắc: Nhìn ở bình diện không gian, Đất Nước là nơi những thế hệ người Việt Nam sinh ra, lớn lên, “yêu nhau và sinh con đẻ cái”, lao động dựng xây chiến đấu bảo vệ Tổ quốc thân yêu.

Thời gian lịch sử của Đất Nước trước hết hiện ra trong những huyền thoại đẹp đẽ và bay bổng về buổi đầu lập nước khi:

Đất là nơi Chim về
Nước là nơi Rồng ở
Lạc Long Quân và Âu Cơ
Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng

Đây là một huyền thoại đầy ý nghĩa đem lại niềm tự hào về lịch sử xa xăm vô cùng của Đất Nước, niềm tự hào về dòng dõi con Rồng cháu Tiên, huyền thoại gợi niềm thương mến, ấm áp về nghĩa tình đồng bào thiêng liêng, ruột thịt. Thời gian lịch sử của Đất Nước cũng hiện ra qua những câu thơ gợi nhớ về truyền thống Vua Hùng Vương và ngày giỗ Tổ, câu chuyện về chú bé làng Gióng cầm gậy tre đánh giặc, câu chuyện về lớp lớp những thế hệ người Việt Nam với Những ai đã khuất trong quá khứ, Những ai bây giờ trong hiện tại, mai này con ta lớn lên trong tương lai – những thế hệ người Việt Nam ấy cứ nối tiếp từ đời này sang đời khác:

“Những ai đã khuát
Những ai bây giờ
Yêu nhau và sinh con đẻ cái
Gánh vác phần người đi trước để lại
Dặn dò con cháu chuyện mai sau”

Nguyễn Khoa Điềm đã làm hiện lên trong suy tưởng của người đọc một chiều dài thời gian đằng đẵng của lịch sử Đất Nước. Qua đó, Đất Nước được cảm nhận như một sự thống nhất, hài hòa các phương diện văn hóa, lịch sử, đạo lí… vừa cao cả, thiêng liêng vừa gần gũi gắn bó với cuộc sống hàng ngày của Nhân Dân. Những giá trị tinh thần bền vững như lòng yêu nước, căm thù giặc, ý chí bất khuất kiên cường đánh giặc ngoại xâm, đạo lí thủy chung tình nghĩa, truyền thống nhân ái…, những giá trị vật chất quý giá của Đất Nước như ngôi nhà, cánh đồng, hạt lúa được hình thành, nuôi dưỡng, được bảo vệ, giữ gìn qua các thế hệ đã tạo nên sự gắn kết giữa quá khứ hiện tại và tương lai. Vậy là nếu nhìn từ bình diện thời gian, có thể thấy Đất Nước hình thành và phát triển qua cuộc chạy tiếp sức lớn lao, vĩ đại, vĩnh hằng của các thế hệ người Việt Nam trong triều đại của lịch sử dựng nước và giữ nước.

Trên chiều rộng của không gian địa lí, chiều dài của không gian lịch sử. Đất Nước được cảm nhận như sự thống nhất của các phương diện văn hóa, truyền thống, phong tục, đạo lí…

“Hằng năm ăn đâu làm đâu
Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ”

Qua việc khai thác ý nghĩa các thành tố Đất và  Nước cũng như từ ghép Đất Nước trong các mối quan hệ giữa thời gian và không gian, giữa lịch sử và địa lí, giữa quá khứ, hiện tại và tương lai; giữa cá nhân và cộng đồng, giữa cái hằng ngày và cái vĩnh hằng…; bằng những chất liệu của văn hóa dân gian từ ca dao, tục ngữ, thành ngữ, từ thần thoại, truyền thuyết, cổ tích… tới những thói quen trong cuộc sống sinh hoạt hằng ngày, Nguyễn Khoa Điềm đã làm hiện lên hình ảnh Đất Nước với ngìn năm văn hiến, với truyền thống yêu nước và ý chí bất khuất kiên cường đánh giặc ngoại xâm khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc, với truyền thống lao động cần cù, chăm chỉ khi làm ra hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng, với truyền thống đạo lí của những con người nhân hậu thủy chung tình nghĩa luôn dặn nhau  tay bưng chén muối đĩa gừng – gừng cay, muối mặn xin đừng quên nhau, với những thuần phong mĩ tục đẹp đẽ, thiêng liêng từ miếng trầu là đầu câu chuyện, miếng trầu nên dâu nhà người đến lời nhắc: Dù ai đi ngược về xuôi- Nhớ ngày giỗ Tổ mùng mười tháng ba…

Cần cù trong lao động dựng nước, dũng cảm kiên cường trong những cuộc chiến tranh giữ nước, nhân hậu nghĩa tình trong ứng xử của cuộc sống hằng ngày đó là chiều sâu văn hóa tạo nên nền tảng vững chắc cho một Đất Nước.

Trong đoạn thơ 1, Đất Nước xuất hiện trong những gì gần gũi bình dị nhất của cuộc sống hằng ngày, rồi mở rộng ra trong nhiều chiều của thời gian, không gian, lịch sử và địa lí; cuối cùng, cảm nhận về Đất Nước trở lại với những phát hiện về sự hiện hữu của Đất Nước trong mỗi con người để lại từ đó nhắc nhở trách nhiệm của mỗi con người với Đất Nước.

Sau những cảm nhận, suy ngẫm, những định nghĩa, liên tưởng, những cái nhìn nhiều chiều, nhiều phương diện, cuộc trò chuyện của đôi lứa đã dẫn đến một phát hiện giản dị mà sâu sắc:

“Trong anh và em hôm nay
Đều có một phần Đất Nước.

Hôm nay luôn là sự kết tinh của hôm qua. Sự sống của mỗi cá nhân luôn là sự thể hiện cụ thể, sinh động hình ảnh của Đất Nước trong mọi giá trị, mỗi con người Việt Nam luôn thừa hưởng, tiếp nối và phát triển những giá trị văn hóa, tinh thần, vật chất của cộng đồng từ hạt gạo ta ăn, ngôi nhà ta ở, ngôn ngữ ta trò chuyện tâm tình, những đạo lí nghĩa tình khi ứng xử…Một phần Đất Nước còn được nhà thơ biểu hiện qua một cảm nhận sâu sắc, thiêng liêng:

“Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình”

“Máu xương” được hiểu theo cả nghĩa cụ thể và nghĩa ẩn dụ. Đất Nước được xây dựng, bảo vệ bằng máu xương của biết bao những thế hệ người Việt nam; Đất Nước cho chúng ta hình hài, máu thịt; Đất Nước cho chúng ta cách sống và cách nghĩ; chính những truyền thống văn hóa, đạo lí được hình thành qua lịch sử dựng nước và giữ nước đã làm nên tâm hồn cốt cách người Việt Nam, trong đó có anh và em hôm nay.

Quan hệ giữa Đất Nước với mỗi cá nhân, sự hiện hữu những giá trị vĩnh hằng của Đất Nước trong cuộc sống hằng ngày của mỗi cá nhân, trong cách sống cách nghĩ, cách ứng xử của con người với con người…còn được biểu hiện qua hai hình ảnh thật sâu sắc:

“Khi hai đứa cầm tay
Đất Nước trong chúng mình hài hoà nồng thắm
Khi chúng ta cầm tay mọi người
Đất nước vẹn tròn, to lớn”

Có thể coi hình ảnh cầm tay là sự biểu hiện cụ thể của mối quan hệ gắn bó giữa cá nhân với cá nhân Khi hai đứa cầm tay, giữa cá nhân với cộng đồng khi chúng ta cầm tay mọi người. Tiếp nhận những giá trị bền vững, thiêng liêng trong đời sống tinh thần, tình cảm mấy nghìn năm của  Đất Nước, tình yêu đôi lứa của anh và em luôn hài hòa, nồng thắm với những thủy chung son sắt:

“Mình về có nhớ ta chăng
Ta như sao Vượt chờ trăng giữa trời”

Những nghĩa tình sâu nặng:

“Em ơi chua ngọt đã từng
Non xanh nước bạc xin đừng quên nhau”

Những đằm thắm nồng nàn:

“Tình anh như nước dâng cao
Tình em như dải lụa đào tẩm hương…”

Trong quan hệ của cá nhân với cộng đồng, sự vẹn tròn, to lớn của Đất Nước được hiện ra qua những nền tảng đạo lí khi người dân Việt luôn nhắc nhau về tình thương yêu, đùm bọc:

“Nhiễu điều phủ lấy giá gương
Người trong một nước phải thương nhau cùng”

Nhân dân luôn dặn nhau sống phải “Uống nước nhớ nguồn”, “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây”…; Đất Nước luôn lớn lao, thiêng liêng trong những lời dạy thiết tha mà nghiêm khắc về mối quan hệ giữa tình yêu cá nhân với số phận cộng đồng qua truyền thuyết  Mị Châu – Trọng Thủy…

Nguyễn Khoa Điềm cũng không quên nhắc nhở trách nhiệm của cá nhân với cộng đồng trong quá khứ, hiện tại và tương lai. Có thể thấy cái hằng ngày và cái vĩnh hằng, cá nhân và cộng đồng, quá khứ, hiện tại, tương lai luôn là những phạm trù không thể tách rời. Nhận của thế hệ trước, mỗi cá nhân phải có trách nhiệm giữ gìn, phát triển và truyền lại những giá trị vật chất, tinh thần cao quý cho thế hệ sau:

“Những ai đã khuất
Những ai bây giờ
Yêu nhau và sinh con đẻ cái
Gánh vác phần người đi trước để lại
Dặn dò con cháu chuyện mai sau”.

Tuy nhiên, mỗi con người không chỉ có trách nhiệm với quá khứ khi gánh vác…, với tương lai khi dặn dò…, điều quan trọng nhất để lịch sử Đất Nước vận động và phát triển là trong từng khoảng khắc của hiện tại phải biết gắn bó và san sẻ để làm nên Đất Nước muôn đời, đó là trách nhiệm với Đất Nước, cũng đồng thời là trách nhiệm đối với chính bản thân mình.

Viễn cảnh của Đất Nước, sự phát triển phồn thịnh của Đất Nước trong tương lai, vị trí, tầm vóc của Đất Nước trên trường quốc tế… đã được thể hiện trong một ẩn dụ đẹp đẽ và lãng mạn:

“Mai này con ta lớn lên
Con sẽ mang đất nước đi xa
Đến những tháng ngày mơ mộng”.

Đất Nước nhọc nhằn, nghèo khó hôm qua và hôm nay, Đất Nước đau thương, vất vả trong những cuộc chiến tranh hôm qua và hôm nay, Đất Nước ấy sẽ được xây dựng đàng hoàng hơn, to đẹp hơn trong ngày mai khi con ta lớn lên, mang trong mình những phẩm chất đẹp đẽ của bao thế hệ người Việt trong lịch sử dựng nước và giữ nước, con sẽ mang Đất Nước đi xa,  sẽ đưa Đất Nước  tới những bến bờ xa mà hôm qua và hôm nay chỉ mới khao khát, khẳng định những giá trị vật chất quý giá, những giá trị tinh thần đẹp đẽ của  Đất Nước để  Đất Nước có thể tự hào sánh vai với cường quốc năm châu.

Nguyễn Khoa Điềm cũng đưa ra những cách cảm nhận mới mẻ, những phát hiện độc đáo về không gian địa lí của Đất Nước trong mối quan hệ với Nhân Dân:

“Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu
Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái
Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại
Chín mươi chín con voi góp mình dựng Đất tổ Hùng Vương
Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm
Người học trò nghèo giúp cho Đất Nước mình núi Bút, non Nghiên.
Con cóc, con gà quê hương cùng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh
Những người dân nào đã góp tên Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm
Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi
Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha
Ôi Đất Nước sau bốn ngàn năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hoá núi sông ta…” 

Đoạn thơ quan sát không gian địa lí của Đất Nước qua các di tích văn hóa, lịch sử như Đền Hùng, núi Vọng Phu… các địa danh như làng Gióng, sông Cửu Long…, những thắng cảnh như hòn Trống Mái, núi Bút non Nghiên… hoặc đơn giản chỉ là những ruộng đồng gò bãi, núi sông…trên khắp mọi miền Tổ quốc…

Điều đáng nói là tất cả những không gian địa lí đều hiện ra qua một câu chuyện ngày xửa ngày xưa nào đó của văn hóa dân gian như sự tích núi Vọng Phu, truyền thuyết Thánh Gióng – những câu chuyện gắn liền với những huyền thoại, huyền tích hoặc sự thật về Nhân Dân trong lịch sử mấy ngàn năm qua. Chính Nhân Dân đã biến những cảnh quan bình dị của Đất Nước thành những danh thắng, những di tích văn hóa, lịch sử vừa thiêng liêng, vừa thân yêu, gần gũi trong tâm thức người Việt bởi sự gắn liền với cuộc sống của Nhân Dân, được cảm nhận qua tâm hồn Nhân Dân, được soi chiếu qua lịch sử dân tộc. Cuộc sống của Nhân Dân trong dòng chảy của lịch sử dân tộc hòa với hình hài sông núi đã trở thành chất liệu phong phú, xúc động cho những thần thoại, cổ tích, truyền thuyết trong văn hóa dân gian.

Chọn từ những chất liệu nghệ thuật tiêu biểu của văn hóa dân gian. Nguyễn Khoa Điềm giúp người đọc cảm nhận xúc động và thấm thía những nỗi đau trong cuộc đời, thân phận, những vẻ đẹp trong tâm hồn, tính cách người Việt: sự tích hòn Vọng Phu không chỉ gợi ra nỗi xót xa cho cảnh li tán, sự đợi chờ mòn mỏi trong chiến tranh mà còn ca ngợi tình nghĩa thủy chung của những người vợ nhớ chồng; cách gọi tên hòn Trống Mái của dân gian qua cái nhìn của nhà thơ hiện đại đã trở thành biểu tượng cho vẻ đẹp phồn thực của cuộc đời, cho sự son sắt vĩnh hằng của tình yêu đôi lứa; những quả đồi thấp bao quanh núi Hi Cương, nơi có đền thờ các vua Hùng qua cách nhìn của nhân dân đã trở thành chứng tích của đàn voi chín mươi chín con quây quần thần phục, trở thành biểu tượng của lòng dân đồng thuận hướng về một quốc gia thống nhất; tên gọi núi Bút non Nghiên gợi hình ảnh của một đất nước với nghìn năm văn hiến, với truyền thống hiếu học lâu đời, hình ảnh của một Đất Nước lưng đeo gươm, tay mềm mại bút hoa…(Huy Cận).

Những câu chuyện về sự tích núi Vọng Phu, truyền thuyết về Thánh Gióng, về miền đất Tổ Hùng Vương; những cách nhìn hình sông dáng núi để đặt tên như hòn Trống Mái, núi Bút non Nghiên… đương nhiên chỉ là những hư cấu nghệ thuật, là những liên tưởng hoặc sâu xa, hoặc hồn nhiên, thú vị của cha ông để lý giải hình sông dáng núi, đồng thời phản ánh chân thực và cảm động những cảnh ngộ, những thân phận, những tâm nguyện, mơ ước, và nhất là những vẻ đẹp trong tâm hồn, cốt cách người Việt Nam suốt mấy ngàn năm qua. Trí tuệ dân gian đã dùng hình thức hư cấu huyền ảo của nghệ thuật để lý giải những hình hài sông núi hiện hữu trong không gian Đất Nước, đồng thời phản ánh những nỗi đau, những vẻ đẹp có thật trong cuộc sống Nhân Dân.

Đoạn thơ bắt đầu từ những huyền thoại của văn hóa nhân gian nhưng lại bay bổng trên thế giới ấy nhờ cái nhìn mới mẻ, độc đáo của phương thức tư duy hiện đại.

Đoạn thơ liên tiếp lập lại những cụm động từ góp cho Đất Nước… góp nên… góp mình dựng đất… góp dòng sông… góp cho Hạ Long… góp tên… Và chủ thể của những sự đóng góp ấy là những người vợ nhớ chồng, là cặp vợ chồng yêu nhau, là người học trò nghèo, là những người dân nào… tất cả đều vô danh, đó chính là Nhân Dân, qua năm tháng, lặng lẽ, bền bỉ, kiên cường, đã tạo dựng lên Đất Nước, đã đặt tên, in dấu sâu đậm trên dáng hình của quê hương xứ sở.

Vậy là nếu tác giả dân gian xưa dùng thần thoại truyền thuyết để lí giải hình hài sông núi, qua đó mà gửi gắm những ước mơ, xót thương những thân phận, ngợi ca những phẩm chất cao đẹp của Nhân Dân thì Nguyễn Khoa Điềm tuy vẫn đặt hình hài Đất Nước trong thế giới huyền ảo của văn hóa dân gian nhưng nhà thơ hiện đại không dừng lại lí giải núi sông mà còn đem đến một cách nhìn mới cho núi sông. Những núi Vọng Phu, hòn Trống Mái hay núi Bút non Nghiên không còn là những cảnh sắc thiên nhiên thuần túy, cũng không chỉ được nhìn thông qua những cảnh ngộ, nỗi niềm hoặc phẩm chất của Nhân Dân  mà còn được nhìn nhận như một phần tâm hồn, máu thịt của Nhân Dân, là minh chứng thiêng liêng, xúc động cho sự đóng góp của Nhân Dân  để làm ra Đất Nước. Với cách cảm nhận ấy, mỗi ngọn núi, dòng sông, ruộng đồng, gò bãi, mỗi danh lam thắng cảnh trên khắp mọi miền Đất Nước đều không còn vô tri đều như có linh hồn, như mang tâm trạng, đều gợi một dáng hình, một ao ước, một lối sống cha ông; đều trở thành kí ức đẹp đẽ, vĩnh hằng về tâm hồn, tính cách và số phận của Nhân Dân.

Cách nhìn vừa mới mẻ vừa mang đậm sắc thái dân gian đã giúp nhà thơ khẳng định và ca ngợi công lao của Nhân Dân đối với Đất Nước. Sự đóng góp vô tận, lớn lao của Nhân Dân  đã được thể hiện qua những dòng thơ sâu sắc và tràn đầy xúc cảm:

Ôi Đất Nước sau bốn ngàn năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hoá núi sông ta…

Nếu bốn nghìn năm là dòng thời gian đằng đẵng của lịch sử dựng nước và giữ nước thì cụm từ đi đâu ta cũng thấy lại gợi hình ảnh về những không gian mênh mông của Đất Nước; lặng lẽ bền bỉ cùng dòng thời gian ấy, trung hậu, kiên cường trong không gian ấy là vời vợi những cuộc đời của Nhân Dân. Động từ hóa không chỉ gợi ra những đóng góp lớn lao bởi mồ hôi, xương máu của Nhân Dân trong quá trình dựng nước và giữ nước mà còn khẳng định, ngợi ca sức mạnh kì diệu, sự hóa thân kì diệu của những con người vô danh, thầm lặng một nắng hai sương trong thời bình, kiên cường trồng tre mà đánh giặc trong thời chiến, nhân hậu nghĩa tình trong ứng xử của cuộc sống hằng ngày… để làm nên núi sông ta.

  • Kết bài:

Bằng cách sử dụng thể thơ tự do, phóng khoáng không bị bó buộc về số chữ trong một câu, số câu trong một bài vừa tạo ra nét độc đáo về hình thức cho bài thơ, vận dụng các chất liệu văn hóa dân gian với các thể loại phong phú: từ phong tục – tập quán sinh hoạt của nhân dân đến các thể loại của văn học dân gian như ca dao – dân ca, truyện cổ tích, truyền thuyết, sự tích,… kết hợp giọng thơ trữ tình – chính luận,  giữa cảm xúc nồng nàn và suy tư của người trí thức về đất nước và con người, đoạn trích đã thể hiện cái nhìn mới mẻ của Nguyễn Khoa Điềm về đất nước với tư tưởng cốt lõi là tư tưởng đất nước của nhân dân. Đất nước là sự hội tụ, kết tinh bao công sức và khát vọng của nhân dân. Nhân dân chính là người đã làm ra đất nước. Đất nước không đâu xa và ngay chính trong cuộc sống của chúng ta mà thôi. Thể hiện niềm tự hào về đất nước với những phong tục tập quán đa dạng.


Tư tưởng “Đất Nước của Nhân dân” trong đoạn trích “Đất nước”.

Tư tưởng Đất Nước của Nhân Dân đã được thể hiện trước hết ở bình diện không gian, khi chính Nhân Dân, lớn lao và thầm lặng, bằng tình yêu và nỗi đau, bằng sự dũng cảm hay cần cù nhẫn nại, bằng cách sống và cách nghĩ nhân hậu, thủy chung, bằng những ước mơ đẹp đẽ, những khát khao bình dị đã in dấu cuộc đời lên hình sông dáng núi, đã làm nên Đất Nước muôn đời.

Đoạn từ câu 55 – 90 – những suy ngẫm của nhà thơ về thời gian lịch sử của Đất Nước mối quan hệ với cuộc sống Nhân Dân:

Em ơi em
Hãy nhìn rất xa
(…..)
Đi trả thù mà không sợ dài lâu”.

Sau những phát hiện mới mẻ và độc đáo về sự đóng góp của Nhân Dân để làm nên những không gian hữu hình của Đất Nước, nhân vật trữ tình lại cất tiếng gọi thiết tha tới người con gái yêu thương, cùng nhau hướng cái nhìn suy tư và hoài niệm vào dòng chảy xa xăm, sâu thẳm, vô hình của bốn nghìn năm Đất Nước, nhìn để quan sát và chiêm nghiệm về công sức của Nhân Dân với sự nghiệp dựng nước và giữ nước.

“Em ơi em
Hãy nhìn rất xa
Vào bốn ngàn năm Đất Nước”

Trong cái nhìn ấy, những thanh niên Việt Nam thời chống Mĩ đã nhận thấy hình ảnh của Nhân Dân khi:

“Năm tháng nào cũng người người lớp lớp
Con gái, con trai bằng tuổi chúng ta
Cần cù làm lụng
Khi có giặc người con trai ra trận

Người con gái trở về nuôi cái cùng con
Ngày giặc đến nhà thì đàn bà cũng đánh
Nhiều người đã trở thành anh hùng
Nhiều anh hùng cả anh và em đều nhớ”

Rồi lại:

“Có biết bao người con gái con trai
Trong bốn nghìn lớp người giống ta lứa tuổi”

Sự lập lại bộn bề của ngôn ngữ từ với người người lớp lớp…Con gái con trai…Có biết bao người… bốn nghìn lớp người… đã đem đến ấn tượng về sự đông đảo vô cùng của Nhân Dân. Mỗi lớp người là một thế hệ có biết bao người con gái con trai, bốn nghìn lớp người cũng là bốn nghìn thế hệ với vô vàn những người con trai con gái, tất cả đã đều bằng tuổi chúng ta, đều đẹp đẽ vào trẻ trung, đều cần cù vào dũng cảm, nối tiếp nhau hết thời này sang thời khác cần cù làm lụng trong thời bình để xây dựng Đất Nước; ra trận và trở thành anh hùng  khi  Đất  Nước có ngoại xâm để bảo vệ Đất Nước. Cả đoạn thơ không có một tên riêng, chỉ có con trai, con gái, họ, không có một triều đại dù là hoàng kim, cũng không nhắc đến anh hùng dù là cả anh và em đều nhớ… Phải chăng vì các triều đại oanh liệt, các anh hùng lẫy lừng tên tuổi đã được Tổ quốc lưu danh trong sử sách, được lòng dân muôn đời nhớ ơn, thờ phụng, và dù sao, con số các triều đại, các anh hùng cũng đã hữu hạn; còn sự đóng góp của Nhân Dân, của biết bao người con trai con gái trong suốt bốn  nghìn năm  Đất Nước những con người đã cần cù làm lụng xây dựng Đất Nước hoặc ra trận đánh giặc chiến đấu để bảo vệ Đất Nước thì vô danh và vô hạn, thầm lặng và lớn lao, họ đã lặng lẽ hiến dâng từ mồ hôi, xương máu, từ tâm hồn, trí tuệ cho đến cả tuổi xuân và hạnh phúc lứa đôi để làm nên Đất Nước.

Tiếp theo, Nguyễn Khoa Điềm đề cập đến cách sống, cách nghĩ và khẳng định công lao của Nhân Dân trong bốn câu thơ đặc biệt hàm súc:

“Họ đã sống và chết
Giản dị và bình tâm
Không ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ đã làm ra Đất Nước”

Họ là đại từ nhân xưng ngôi thứ ba số nhiều, không mang tính chất xác định, và trong đoạn thơ này, theo cách nhìn nhận của Nguyễn Khoa Điềm, đó là biết bao người con gái con trai – trong bốn nghìn lớp người giống ta lứa tuổi, đó là Nhân Dân, những lớp người thầm lặng, vô danh, lớn lao, đông đảo. Câu thơ đặt họ trước hai bình diện của sống và chết, nhưng điều kì lạ là hai thái cực này không tạo ra cảm giác đối lập, cũng không đưa đến cảm giác ảm đạm về cái chết- nó chỉ gợi những dạng thái của tồn tại và tiếp nối, gợi sự trôi chảy miên viễn của thời gian khi những thế hệ người Việt Nam nối tiếp nhau sinh ra và lớn lên yêu nhau và sinh con đẻ cái, tạo ra dòng chảy vĩnh cửu của sự sống. Đem đến cảm giác này trước hết là do sự nhịp nhàng, yên ả và bình lặng khi các nhịp thơ 3/2 – 2/3 nối tiếp luân chuyển trong hai câu đầu; sau đó là do tính chất phiếm chỉ của đại từ họ, đó không phải là một người, một thế hệ, đó là Nhân Dân, là quá khứ, hiện tại và tương lai của cha ông xưa, của chúng ta hôm nay, của con cháu muôn đời sau…

Câu thơ tiếp theo xác định hai đặc điểm của Nhân Dân trong cách sống giản dị, trong cách nghĩ bình tâm. Họ cứ thuần phác đơn sơ, cần cù làm lụng sau những lũy tre làng, gắn bó thân yêu với ruộng đồng gò bãi, từ đời này sang đời khác cui cút làm ăn toan lo nghèo khó (Nguyễn Đình Chiểu), khi đất nước có giặc, họ là những người đầu tiên ra trận, chiến đấu bảo vệ Đất Nước,khi hết giặc, súng gươm vứt bỏ lại hiền như xưa, họ trở về với cuộc sống đời thường, bình tâm, thanh thản, không đòi hỏi, không yêu cầu, yêu sách, cứ lặng lẽ gánh vác phần người đi trước để lại- dặn dò con cháu chuyện mai sau khiến cho sự sống và cái chết của họ bình thản nối tiếp trong dòng chảy vĩnh hằng của thời gian.

Lịch sử bốn nghìn năm  Đất Nước được viết bằng mồ hôi, nước mắt, máu xương của những con người ấy, nhưng lịch sử không biết họ là ai, cũng vì họ quá đông đảo và luôn luôn thầm lặng. Họ có thể là những nông dân tần tảo lam lũ với hạt gạo một nắng hai sương xay giã giần sàng; là những phụ nữ kiên cường gánh trên vai bao cuộc chiến tranh,… khi tiễn người con trai ra trận, họ trở về nuôi cá cùng con, vò võ cô đơn suốt tuổi thanh xuân, để sông núi không hóa thạch kẻ ra đi mà hóa thạch kẻ đợi chờ (Chế Lan Viên). Họ có thể là những người nông dân nghĩa sĩ: “Sống đánh giặc, thác cũng đánh giặc, linh hồn theo giúp cơ binh…” (Nguyễn Đình Chiểu), là những người con trai đã dằn lòng bỏ lại sau lưng gia đình, quê hương và những người thân yêu để gian nhà không mặc kệ gió lung lay, để giếng nước gốc đa nhớ nhung xao xuyến…; là những người đã nhất quyết ra đi đầu không ngoảnh lại, quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh; để rồi biết bao Người lính, mùa xuân ấy, ra đi từ đó không về; và họ cũng có thể là người lính trên đường hành quân qua miền Tây năm ấy:

“Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời”

Tất cả họ đều vô danh không ai nhớ mặt đặt tên…nhưng họ đã làm ra Đất Nước. Mỗi người dân Việt trong quỹ thời gian hữu hạn của đời mình luôn có một phần đóng góp dù là nhỏ bé để dựng nước hoặc giữ nước. Tuy nhiên, chính những đóng góp giản dị nhỏ bé của mỗi con người đã làm nên sự lớn lao, vĩ đại của Đất Nước, và chính những cuộc đời ngắn ngủi, hữu hạn của mỗi con người lại làm nên sự trường tồn vô hạn Đất Nước muôn đời.

Sau bốn câu thơ khái quát công lao của Nhân Dân, lực lượng đông đảo nhất, vĩ đại nhất và cũng thầm lặng nhất suốt bốn nghìn năm qua kiên cường bền bỉ tạo dựng, giữ gìn, làm ra Đất Nước, đoạn thơ nối tiếp đã cụ thể hóa công lao to lớn của Nhân Dân trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước:

“Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng
Họ truyền lửa cho mỗi nhà từ hòn than qua con cúi
(…)
Biết trồng tre đợi ngày thành gậy
Đi trả thù mà không sợ dài lâu” 

Trước hết là công lao trong sự nghiệp dựng nước, trong việc sáng tạo, bảo vệ, duy trì từ của cải vật chất đến giá trị tinh thần:

“Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng
Họ truyền lửa cho mỗi nhà từ hòn than qua con cúi
Họ truyền giọng điệu mình cho con tập nói
Họ gánh theo tên xã, tên làng trong mỗi chuyến di dân
Họ đắp đập be bờ cho người sau trông cây hái trái”.

Chủ ngữ của các câu thơ là đại từ họ, nếu phép điệp đem đến cảm giác  về sự đông đảo, tính chất không xác định gợi sự vô danh thì vai trò chủ ngữ, chủ thể của những hành động đã khẳng định công lao to lớn của Nhân Dân với Đất Nước. Cặp động từ giữ… truyền hơn một lần lặp lại trong đoạn thơ đã khẳng định xứ mệnh thiêng liêng của mỗi con người, mỗi thế hệ trong công cuộc xây dựng đất nước, đó là gánh vác việc thế hệ đi trước giao phó, giữ gìn, duy trì phát triển để rồi dặn dò, ủy thác, truyền cho những thế hệ con cháu tiếp nối.

Sau những động từ giữ… truyền… gánh… đắp… be… là những hình ảnh hoặc hữu hình như: hạt lúa… lửa… hòn than… hoặc vô hình như giọng điệu, tiếng nói, tên xã, tên làng…, tất cả đều là những giá trị tinh thần hoặc vật chất để làm nên Đất Nước và đều gắn bó thân thiết với cuộc sống hàng ngày của Nhân Dân.

Tấm lòng của Nhân Dân, công lao khó nhọc của Nhân Dân được khẳng định trong câu thơ đầy xúc động: Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng. Đất Nước Việt Nam nằm trong cái nôi của nền văn minh sông Hồng, nơi Nhân Dân bao đời nay sống bằng cây lúa nước. Từ thuở đầu lập nước, những người con của Mẹ Âu Cơ đã tìm ra cây lúa, đã một nắng hai sương, chăm chút, nâng niu, để rồi giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng. Hạt lúa – những hạt ngọc ngà chắt chiu tinh hoa của trời đất, kết quả của mồ hôi, công sức con người vì thế đã trở thành biểu tượng văn hóa đầy tự hào, trở thành biểu tượng cho truyền thống lao động cần cù của những người nông dân ngày đêm vất vả bán mặt cho đất, bán lưng cho trời; Hạt lúa cũng là hình ảnh của niềm vui, của cuộc sống ấm no khi Mồ hôi mà đổ xuống đồng – Lúa mọc trùng trùng sáng cả đồi nương. Lời dặn của cha ông xưa về việc đừng đổ thóc giống ra ăn cho thấy sự thiêng liêng, quan trọng trong việc giữ gìn và truyền lại hạt lúa cho mùa sau, đời sau, đó là truyền lại sự sinh tồn và phát triển đối với một dân tộc có nền văn minh lúa nước lâu đời, đó cũng là việc truyền lại tình yêu và niềm hy vọng về sự sống.

Nhân Dân còn truyền lửa qua mỗi nhà, từ hòn than qua con cúi. Lửa là một hình ảnh của một quá khứ xa xăm khi con người bắt đầu tìm đến ánh sáng văn minh, khi với việc tìm ra lửa, loài người thực sự tách ra khỏi thế giới nguyên thủy tăm tối, dã man. Chính ngọn lửa đã duy trì sự sống, sự tồn tại của nhân loại. Nhắc tới lửa là nhắc tới cuộc sống thịnh vượng, sum vầy và cảm giác ấm áp, chở che. Bên những những bếp lửa ấp iu nồng đượm (Bằng Việt), gia đình, cộng đồng quây quần đầm ấm, gắn bó, yêu thương.

Từ ngàn xưa, qua những viên than ấp ủ, những con cúi bện bằng rơm, người Việt đã truyền lửa cho nhau trong những không gian thấm đượm tình làng nghĩa xóm, trong những khi tối lửa tắt đèn…Lửa cũng đồng thời gợi đến những cuộc chiến tranh máu lửa để từ đó Đất Nước “rũ bùn đứng dậy sáng lòa” ( Nguyễn Đình Thi); ý thơ cũng gợi lên tưởng đến những người nông dân- nghĩa sĩ Cần Giuộc năm xưa với hỏa mai đánh bằng rơm con cúi…,trong sự liên tưởng ấy, ngọn lửa chính là biểu tượng của lòng yêu nước, căm thù giặc và ý chí bất khuất kiên cường đánh giặc ngoại xâm. Trong sự gắn bó với cuộc sống sinh hoạt, lao động và chiến đấu của Nhân Dân, hình ảnh ngọn lửa khi bình dị, thân yêu, nồng ấm, khi rực rỡ, kì vĩ, lớn lao. Từ đó có thể thấy, truyền lửa qua mỗi nhà vừa là hình ảnh cụ thể của tình làng nghĩa xóm khi tắt lửa tối đèn, là trao gửi sự sống ấm áp trong những không gian làng xã Việt bằng hòn than qua con cúi như thuở xa xưa, là truyền lại sự sống trường tồn cho bốn nghìn năm Đất Nước mà cũng là truyền lại những tình cảm, những phẩm chất đẹp đẽ, lớn lao, truyền lại bầu nhiệt huyết để  Nhân Dân nối tiếp nhau dựng nước và giữ nước.

Hai câu thơ tiếp theo lại nói về công lao của Nhân Dân trong việc tạo lập và giữ gìn truyền thống văn hóa, tinh thần của Đất Nước. Nhân Dân đã truyền giọng điệu mình cho con tập nói. Tiếng nói là của cải tinh thần vô giá, là phương tiện giao tiếp quan trọng nhất của một cộng đồng xã hội, là một giá trị văn hóa phi vật thể góp phần làm nên bản sắc văn hóa của một dân tộc. Tiếng nói ấy trường tồn và phát triển cùng Đất Nước bất chấp hàng ngàn năm Bắc thuộc, hàng trăm năm Pháp thuộc và bao nhiêu cuộc chiến tranh, bất chấp tất cả những âm mưu đồng hóa của mọi kẻ thù xâm lược. Đó là những công sức và tấm lòng của Nhân Dân  từ bao đời nay, qua những lời ru ngọt ngào của bà, của mẹ, qua những lời ca câu ví dân gian, qua sự trong trẻo, thâm trầm của thế giới thần thoại, cổ tích…, Nhân Dân đã truyền lại cho con cháu không chỉ những tình cảm thắm thiết ân tình, những bài học đạo lí, những kinh nghiệm sâu sắc trí tuệ mà còn cả giọng điệu, tiếng nói, ngôn ngữ của dân tộc.

Nhân Dân còn trân trọng giữ gìn cả những địa danh thân thuộc của từng vùng miền quê hương đất nước: “Họ gánh theo tên xã, tên làng trong mỗi chuyến di dân”. Trong cuộc sống hằng ngày của Nhân Dân, trong sự vận động và phát triển của lịch sử Đất Nước, có thể có sự thay đổi nơi cư trú vì chiến tranh, vì cuộc sống hoặc để hưởng ứng chủ trương chính sách của nhà nước đưa Nhân Dân  đi khai khẩn đất hoang, xây dựng các vùng kinh tế mới. Hành trang người dân mang theo trong những chuyến di dân không chỉ là đồ đạc, lương thực, bên cạnh những giá trị vật chất mà còn là những giá trị tinh thần thiêng liêng quý giá. Nghệ thuật ẩn dụ trong câu thơ qua động từ gánh đã khiến những khái niệm trừu tượng như tên xã, tên làng bỗng trở nên cụ thể và trĩu nặng. Đó không đơn thuần chỉ là địa danh, tên xã, tên làng là hình ảnh của những làng xã Việt, gợi đến những phong tục tập quán, những đình chùa lễ hội, những giếng nước gốc đa thấm đẫm bao kỉ niệm yêu thương… những cái tên được mang theo trong mỗi chuyến di dân- vì thế mà trĩu nặng tình yêu và nỗi nhớ, nhất là sự thiêng liêng ấm áp của nơi cắt rốn chôn rau. Người dân mang theo những tên xã, tên làng thân thuộc đặt cho vùng đất mới vừa làm dịu vợi phần nào nỗi nhớ quê hương của thế hệ này, vừa để khắc sâu nỗi nhớ của những thế hệ sau về cội nguồn quê cha đất tổ, về những truyền thống văn hóa, những thuần phong mĩ tục của quê hương bản quán.

Nhân Dân  còn xây dựng nền tảng vững chắc cho đời sau an cư lạc nghiệp: “Họ đắp đập  be bờ cho người sau trồng cây hái trái”. Nghĩa của những cụm động từ đắp đập, be bờ gợi lên sự vun vén cho đầy đặn hơn, vững chắc hơn, đây là hình  ảnh thể hiện sự chăm chút ân cần của những người đi trước với con cháu đời sau. Nhân Dân  kiên nhẫn, bền bỉ đắp đập be bờ cho các thế hệ sau yên tâm trồng cây hái trái. Sự khác nhau giữa hai cụm động từ ở đầu và cuối câu thơ về cả thời gian (đời trước – đời sau), và tính chất công việc (chuẩn bị – hưởng thụ) đã cho thấy đức hi sinh lớn lao, cao thượng của những người đi trước: họ vất vả lo lắng làm lụng nhưng có thể chẳng được hưởng thành quả lao động của mình, cây và trái hầu như chỉ dành cho đời sau, nhưng họ vẫn bình tâm thanh thản, mãn nguyện trong niềm hi vọng con cháu được hưởng phúc, được sung sướng, ấm no từ sự chu đáo, trìu mến của mình.

Khi Đất Nước có chiến tranh, Nhân Dân lại là những người xông pha nơi hòn tên mũi đạn, dũng cảm chiến đấu, sẵn sàng hi sinh để bảo vệ sự bình yên cho Đất Nước:

“Có ngoại xâm thì chống ngoại xâm
Có nội thù thì vùng lên đánh bại”

Cấu trúc hô ứng: “có… thì” điệp lại liên tiếp trong hai dòng thơ cùng một loạt những động từ mạnh: chống,…. vùng lên, đánh bại… khiến giọng điệu thơ rắn rỏi, đanh thép, cho thấy sự tình nguyên cao độ của Nhân Dân  trong sự nghiệp giữ nước. Trong những cuộc chiến tranh vệ quốc, Nhân Dân  đã không hề toan tính, ngần ngại, không yêu cầu, yêu sách, sẵn sàng chiến đấu hi sinh vì Đất Nước, cũng là để bảo vệ những giá trị tinh thần và vật chất quý giá do thế hệ trước để lại, do họ vất vả gánh vác, giữ gìn, tạo dựng và truyền lại cho đời sau. Đó là những giá trị thiêng liêng thấm đẫm mồ hôi, nước mắt, máu xương của biết bao nhiêu thế hệ mà Nhân Dân  không cho phép bất cứ kẻ thù nào xâm phạm hủy hoại.

Đoạn thơ đã cho thấy công lao vĩ đại của Nhân Dân đối với Đất Nước: họ nối tiếp nhau sáng tạo, giữ gìn, phát triển và truyền lại cho các thế hệ mai sau những giá trị văn hóa, văn minh tinh thần và vật chất của Đất Nước từ hạt lúa ngọn lửa, tiếng nói đến tên xã tên làng, tục ngữ, ca dao… mỗi thành quả của Đất Nước ngày hôm nay đều là kết tinh, thừa hưởng, tiếp nối quá trình lao động sáng tạo cần cù, bền bỉ của Nhân Dân. Bất chấp những gian khó nhọc nhằn trong lao động dựng xây, những mất mát hi sinh trong những cuộ chiến tranh máu lửa, suốt bốn nghìn năm dựng nước và giữ nước, Nhân Dân đã giữ gìn hồn thiêng sông núi, làm nên bản sắc dân tộc, đã nối tiếp nhau viết những trang sử hào hùng bằng sức mạnh của tình yêu và ý chí bất khuất kiên cường.

Mạch cảm xúc, suy ngẫm của bài thơ cứ dồn tụ dần để cuối cùng dẫn đến cao trào, làm bật lên tư tưởng cốt lõi:

“Để Đất Nước này là Đất Nước Nhân dân
Đất Nước của Nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại”

Những khái niệm Đất Nước, Nhân Dân được viết hoa trang trọng, được lặp nhiều lần trong hai câu thơ đã cho thấy sự gắn bó không thể tách rời giữa Nhân Dân và Đất Nước, cũng là cách để nhà thơ tô đậm ý nghĩa khẳng định cho tư tưởng Đất Nước và Nhân Dân. Sau những câu thơ khẳng định công lao to lớn của Nhân Dân trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước, câu thơ Để Đất Nước này là đất nước nhân dân tạo ra mối quan hệ nhân quả giữa hai đoạn thơ, nhờ đó, tác giả đã có thể lí giải sâu sắc và thấm thía hơn tư tưởng chủ đạo Đất Nước của Nhân Dân qua cách định danh mang đậm sắc thái sở hữu thiêng liêng: Đất Nước Nhân Dân.

Với cụm danh từ “Đất Nước Nhân Dân”, nhà thơ đã khẳng định chủ nhân đích thực của Đất Nước bằng một nguyên nhân giản dị mà sâu sắc: Đất Nước này do Nhân Dân dựng xây và gìn giữ, kiến tạo và bảo vệ, Đất Nước này tất yếu phải thuộc về Nhân Dân câu thơ sau đã lí giải rõ hơn cách định danh cho Đất Nước ở câu trên. Câu thơ đã tách thành hai vế có tính chất đẳng lập khiến người đọc nhận ra mối quan hệ gắn kết giữa Nhân Dân ở vế thứ nhất và ca dao thần thoại ở vế thứ hai. Ca dao thần thoại có thể coi là hình ảnh hoán dụ cho văn hóa dân gian, mà văn hóa dân gian là sản phẩm trực tiếp của trí tuệ dân gian, là nơi lưu giữ và tôn vinh vẻ đẹp tâm hồn, tính cách của Nhân Dân, cũng là nơi chia sẻ cảm thông cho những đau thương, bất hạnh của Nhân Dân.

Văn học dân gian do Nhân Dân sáng tạo nên và phản ánh cuộc sống của Nhân Dân, cho nên, đến với văn học dân gian cũng là đến với Nhân Dân. Sự tương đồng ấy cho phép nhà thơ lí giải tư tưởng của mình một cách thấm thía và xúc động: Đất Nước của Nhân Dân vì Đất Nước được tạo dựng, được giữ gìn, bảo vệ… bởi tình yêu và nỗi đau của Nhân Dân, bằng nước mắt, mồ hôi, xương máu của vô vàn những con người thầm lặng, đói nghèo nhưng tình nghĩa trung hậu, của những số phận bất hạnh khổ đau mà dũng cảm kiên cường, đó là những nội dung được chính Nhân Dân phản ánh một cách chân thực và cảm động trong ca dao thần thoại, trong văn học dân gian, trong ca dao thần thoại.

Qua ca dao thần thoại, Nhân Dân đã đem đến cho chúng ta những bài học đạo lí, dạy chúng ta biết yêu thương, biết trân trọng công sức nghĩa tình, biết căm ghét cái xấu, cái ác, biết kiên nhẫn phục thù – biết cách làm người:

Dạy anh biết “yêu em từ thuở trong nôi”
Biết quý công cầm vàng[14] những ngày lặn lội
Biết trồng tre đợi ngày thành gậy
Đi trả thù mà không sợ dài lâu
Ôi những dòng sông bắt nước từ lâu
Mà khi về Đất Nước mình thì bắt lên câu hát
Người đến hát khi chèo đò, kéo thuyền vượt thác
Gợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi”

Có lẽ tứ thơ xuất phát từ cảm hứng về những âm thanh ngọt ngào của những điệu hò mái nhì mái đẩy trên sông Hương xứ Huế, âm thanh tha thiết của những điệu hò ví dặm sông Lam, âm thanh hào tráng trẻ trung trong những tiếng hò của những người chèo đò, kéo thuyền vượt thác trên dòng sông khúc thượng nguồn Tây Bắc… Đó là những tiếng hát được truyền từ đời này sang đời khác, thể hiện tình yêu với cuộc sống lao động, tình yêu với quê hương Đất Nước, thể hiện tinh thần lạc quan tươi trẻ của những người lao động và tình yêu ấy chính là cội nguồn sâu xa nhất của mọi phẩm chất đã giúp Nhân Dân dựng nước và giữ nước.

Có một câu ca đã hình dung “Đất Nước tôi thon thả giọt đàn bầu”…Mọi dòng sông dù có cội nguồn từ đâu nhưng khi về Đất Nước mình thì bắt lên câu hát, tới với Đất Nước của những tấm lòng nhân hậu, của những tâm hồn lãng mạn, trẻ trung thì văn xuôi cũng hóa thành thơ, lời nói đời thường cũng ngân nga thành câu hát. Tứ thơ độc đáo của Nguyễn Khoa Điềm giúp người đọc nhận rõ hơn tư tưởng chủ đạo của bài thơ: Đất Nước của Nhân Dân, Nhân Dân làm nên Đất Nước. Nhân Dân không chỉ lao động dựng xây, không chỉ chiến đấu để giữ gìn bảo vệ Đất Nước, chính Nhân Dân với tình yêu và khát vọng mãnh liệt, với trái tim luôn tràn đầy sự lạc quan tươi trẻ đã đem đến vẻ đẹp lãng mạn say người cho Đất Nước trên trăm dáng sông xuôi…

Tư tưởng Đất Nước của Nhân Dân đã manh nha từ xa xưa trong lịch sử với quan niệm “dân vi bản”, khi Nguyễn Trãi khẳng định làm lật thuyền mới biết sức dân như nước; khi Nguyễn Đình Chiểu ca ngợi những người nông dân nghĩa sĩ cui cút làm ăn, toan lo nghèo khó mà cao cả, anh hùng…Tư tưởng ấy được khẳng định và nhận thức sâu sắc hơn trong thời đánh Mĩ khi được soi chiếu bằng quan điểm Mác xít về Nhân Dân và thực tiễn của cuộc chiến tranh Nhân Dân. Tư tưởng Đất Nước của Nhân Dân không chỉ được khẳng định ở bình diện nội dung mà còn được thể hiện ngay trong yếu tố hình thức của đoạn thơ, trong một không gian nghệ thuật thấm đẫm phong vị dân gian ngay trong những câu thơ trí tuệ và hiện đại.

Ca ngợi Nhân Dân bằng chính những sản phẩm trí tuệ của Nhân Dân, bằng những sáng tác phản ánh tâm hồn, tính cách và số phận Nhân Dân, Nguyễn Khoa Điềm đã có một lựa chọn độc đáo khiến tư tưởng Đất Nước của Nhân Dân được thể hiện sâu sắc và đầy sức thuyết phục. Tóm lại, đoạn thơ đã cảm nhận, phát hiện về Đất Nước trong cái nhìn tổng hợp, toàn vẹn, mang đậm tư tưởng Nhân Dân, đã sử dụng phong phú các yếu tố của văn hóa, văn học dân gian một cách sáng tạo, hòa nhập trong cách diễn đạt và tư duy hiện đại, đem đến màu sắc thẩm mĩ vừa quen thuộc, vừa mới mẻ, phù hợp với tư tưởng cốt lõi của tác phẩm, cũng là tưởng bao trùm trong văn học 1945 – 1975: tư tưởng  Đất Nước của Nhân Dân.


Phân tích đoạn thơ mở đầu đoạn trích Đất Nước: ““Khi ta lớn lên đất nước đã có rồi…”

“Khi ta lớn lên đất nước đã có rồi
Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa…” mẹ thường hay kể
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc
Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Cái kèo cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng
Đất Nước có từ ngày đó”.

I. Mở bài:

“Có mối tình nào cao hơn là Tổ quốc?” – Trần Mai Ninh. Bằng tình cảm yêu thương sâu nặng ấy, các nhà thơ – chiến sĩ đã có biết bao bài thơ rất hay về Tổ quốc, đất nước Việt Nam thương yêu.  Nếu như các nhà thơ khác thường dùng những hình ảnh kì vĩ, mĩ lệ mang tính biểu tượng, tạo ra một khoảng cách để cảm nhận, chiêm ngưỡng về đất nước thì Nguyễn Khoa Điềm lại cảm nhận về đất nước qua những gì hết sức gần gũi, đơn sơ, bình dị .

– Đoạn trích “Đất Nước” thuộc phần đầu chương V, trường ca “Mặt đường khát vọng” được Nguyễn Khoa Điềm viết ở chiến khu Trị – Thiên năm 1971, in lần đầu 1974.

+ Đất nước là nguồn cảm hứng chủ đạo trong sáng tác văn học, đặc biệt là trong thơ ca hiện đại.

+ Nguyễn Khoa Điềm đã thể hiện những cảm nhận, suy tư của mình về đất nước một cách thật độc đáo.

+ Đoạn thơ mở đầu được xem là những cảm nhận riêng của tác giả về đất nước qua những hình tượng cụ thể, sinh động, gợi cảm với một giọng thơ thiết tha, sôi nổi.

II. Thân bài:

1. Đất Nước có từ bao giờ?

– Nguyễn Khoa Điềm tập trung thể hiện những khám phá mới mẻ về đất nước trên ba phương diện: chiều dài của thời gian lịch sử, chiều rộng của không gian địa lí và chiều sâu của truyền thống văn hóa dân gian.

– Khi khám phá đất nước ở chiều dài miên viễn của thời gian lịch sử, Nguyễn Khoa Điềm không dựa vào sử liệu hay những khái niệm trừu tượng mà chọn những hình ảnh tự nhiên, bình dị để cảm nhận về đất nước. Đất Nước, hai chữ thiêng liêng cao cả ấy chẳng phải ở đâu xa mà ở ngay trong mỗi gia đình chúng ta: từ lời kể chuyện của mẹ, miếng trầu của bà, đến phong tục tập quán quen thuộc, tình nghĩa thuỷ chung của cha mẹ, hạt gạo, hòn than, cái kèo, cái cột trong nhà…

– Bằng giọng tâm tình, dịu ngọt như lời kể truyện cổ tích, Nguyễn Khoa Điềm đã thể hiện những cảm nhận, suy tưởng của mình về cội nguồn sâu xa của đất nước.

“Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa…” mẹ thường hay kể”

+ Lịch sử sâu thẳm của đất nước ta được tác giả cắt nghĩa không phải bằng sự nối tiếp của các vương triều hay các sự kiện lịch sử trọng đại như Nguyễn Trãi đã từng viết trong “Bình Ngô Đại Cáo”:

“Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Núi sông bờ cõi đã chia
Phong tục Bắc – Nam cũng khác
Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời gây nền độc lập
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên hùng cứ một phương”

+ Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi. Hình như nhà thơ không cố tình làm thơ. Nhà thơ như chỉ muốn nói lên điều mà bất kì ai cũng có thể nói lên. Nhà thơ nói lên cho mình mà cũng cho tất cả mọi người, cho tất cả bạn bè cùng trang lứa với mình.

+ Lắng nghe cho kĩ, người đọc có thể nghe xôn xao trong câu thơ là cả một niềm tự hào mãnh liệt và niềm biết ơn mênh mông.

  • “Lớn lên” thì “Đất Nước đã có rồi”, Đất Nước có trong lịch sử hàng ngàn năm, điều mà không phải bất kì Đất Nước nào trên mặt đất này cũng có được.
  • “Đất Nước đã có rồi”: bất cứ con người Việt Nam khi sinh ra ngay lập tức đã được bao bọc, đã được nâng niu, chở che trong một cái nôi ấm áp, thân yêu vô cùng là Đất Nước.
  • “Lớn lên” thì “Đất Nước đã có rồi”, ta đang có được Đất Nước từ công lao của hàng ngàn thế hệ con người, với bao nhiêu hi sinh xương máu, bao nhiêu nước mắt và mồ hôi.

+ Từ cảm xúc tự hào và biết ơn của mình, nhà thơ tìm cho mình những điều khẳng định:

“Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa…” mẹ thường hay kể”

+ Giản dị và bất ngờ quá, Đất Nước bắt đầu từ “ngày xửa ngày xưa…” có nghĩa là Đất Nước được bắt nguồn từ những câu chuyện truyền thuyết xa xưa. Từ chuyện Lạc Long Quân dựng nên Đất Nước, chuyện Thánh Gióng đánh giặc… Ngoài ra, hình ảnh “ngày xửa ngày xưa…” mẹ thường hay kể” gợi hình ảnh đất nước thanh bình trong những câu chuyện cổ tích. Có tâm hồn Việt Nam nào mà không được nuôi dưỡng từ những câu chuyện “ngày xửa ngày xưa” ấy.

+ Nhưng thử hỏi: nếu không có Đất Nước từ “ngày xửa ngày xưa”, thì làm sao có được những câu chuyện để cho bây giờ “mẹ thường hay kể”? Mà “ngày xửa ngày xưa” là lúc nào? Là mấy trăm năm, mấy ngàn năm trước, từ thuở đất trời còn hồng hoang.

– Đất nước còn được cảm nhận trong chiều sâu tâm hồn nhân dân, văn hoá và lịch sử :

“Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc”

+ Trong khoảng thời gian mênh mông của Đất Nước, nhà thơ muốn tìm đến những thuở đầu tiên khi Đất Nước tượng hình. Thì cũng giản dị vô cùng: “Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn”

+ Phát hiện thật bất ngờ nhưng cũng thật chính xác. Không biết ngày xưa, ai là người đầu tiên ăn miếng trầu để rồi có “miếng trầu bây giờ bà ăn” . Có lẽ con người không hề nghĩ rằng với miếng trầu ấy, cũng bắt đầu một tập tục Việt Nam, một nét văn hóa Việt Nam. Bắt đầu tạo dựng văn hóa, cũng là bắt đầu tạo nên Đất Nước. Bởi nếu không có nền văn hóa thì làm sao có thể gọi là Đất Nước.

+ Qua phát hiện đó, ta thấy Đất Nước còn là những gì gần gũi, thân quen ngay trong đời sống con người. Hình ảnh “miếng trầu bây giờ bà ăn” gợi ta nhớ đến câu chuyện cổ tích “Trầu cau”.

  • Qua câu chuyện cổ tích ấy, ta thấy được những nét đẹp trong phong tục tập quán của dân tộc: phong tục nhuộm răng ăn trầu, phong tục ăn trầu giao tiếp của nhân dân “miếng trầu là đầu câu chuyện”, phong tục cưới hỏi “miếng trầu nên dâu nhà người”.
  • Đất Nước thật lớn lao kì vĩ nhưng chẳng phải bắt đầu từ những điều bé nhỏ đó sao!

+ Đất Nước còn lớn lên cùng truyền thống đấu tranh giữ nước của dân tộc: “Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc”

+ Nhà thơ thật sâu sắc khi nói đến việc “dân mình đánh giặc” mà nhắc đến việc “trồng tre”.

  • Từ muôn đời nay, con người Việt Nam trồng tre là để có lũy tre bao bọc làng quê, để có bóng tre xanh mát rượi con đường làng, để lấy cây tre làm nên nhà cửa, làm nên những dụng cụ sinh hoạt hàng ngày như chiếc đòn gánh tre, cái cối xay tre, cái chõng tre, chiếc nôi tre, con sáo diều tre lơ lửng lưng trời…
  • Đúng như nhà thơ Nguyễn Duy đã viết: “Tre xanh, xanh tự bao giờ / Chuyện ngày xưa đã có bờ tre xanh”

+ Con người Việt Nam trồng nên cây tre còn để khi cần thì biến cây tre thành vũ khí đánh giặc.

  • Câu thơ của Nguyễn Khoa Điềm phải chăng gợi lên truyền thuyết Thánh Gióng – Hình ảnh cậu bé vươn vai thành tráng sĩ nhổ tre đánh đuổi giặc Ân ra khỏi bờ cõi là tinh thần yêu nước kiên cường, bất khuất chống ngoại xâm để bảo vệ nền độc lập dân tộc hơn bốn ngàn năm lịch sử
  • Truyền thuyết Thánh Gióng nhổ tre đánh đuổi giặc Ân đã trở thành bài ca giữ nước hào hùng của nhân dân ta, đã trở thành lịch sử đất nước:

“Ta như thuở xưa thần Phù Đổng
Vụt lớn lên đánh đuổi giặc Ân
Sức nhân dân khoẻ như ngựa sắt
Chí căm thù ta rèn thép làm roi
Lửa chiến đấu ta phun vào mặt
Lũ sát nhân cướp nước hại nòi”

(Tố Hữu)

+ Như vậy, lịch sử lâu đời của đất nước được kết tinh trong từng câu chuyện kể, trong miếng trầu bà ăn thường ngày, trong “cây tre đánh giặc” thân quen quanh ta. Với cái nhìn độc đáo của Nguyễn Khoa Điềm, đất nước đã nằm sâu trong tiềm thức mỗi chúng ta, mỗi người dân; trong đời sống tâm hồn của nhân dân từ thế hệ này qua thế hệ khác.

– Đất nước còn là phong tục búi tóc thành cuộn sau gáy rất quen thuộc của người phụ nữ Việt Nam từ bao đời nay: “Tóc mẹ thì bới sau đầu”:

+ Bắt đầu tạo dựng, rồi Đất Nước lớn lên, trong khoảng thời gian đằng đẵng mấy nghìn năm. Đất Nước đã làm nên biết bao điều, tạo nên biết bao giá trị từ vật chất cho đến tinh thần. Những chuyện ấy hôm nay vẫn còn đó. Có những chuyện tưởng chừng như rất nhỏ: “Tóc mẹ thì bới sau đầu”.

+ “Thì bới sau đầu”, hóa ra cái bới tóc sau đầu ấy là một một nét đẹp tự nhiên của người mẹ Việt Nam, của người phụ nữ Việt Nam, một nét đẹp cần thiết bởi “cái răng cái tóc là góc con người”.

+ Nét đẹp ấy cũng là nét đẹp góp phần làm nên bản sắc văn hóa Việt Nam.

“Tóc ngang lưng vừa chừng em búi
Để chi dài bối rối lòng anh”

(Ca dao)

– Đất nước Việt Nam còn mang vẻ đẹp tâm hồn con người Việt Nam: tình nghĩa đậm đà, thuỷ chung son sắt của cha mẹ: “Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn”.

– Ý thơ được toát lên từ những câu ca dao đẹp:

“Tay bưng đĩa muối chén gừng
Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau”

Hay:

“Muối ba năm muối đang còn mặn
Gừng chín tháng gừng hãy còn cay
Đôi ta tình nặng nghĩa đầy
Dù ba vạn sáu ngàn ngày cũng chẳng xa”

Gừng bao giờ cũng cay, muối bao giờ cũng mặn. Đó là một giá trị, một đạo lí của gia đình Việt Nam. Ý thơ nhằm ca ngợi lối sống giàu tình nghĩa và tấm lòng thuỷ chung son sắt của người Việt Nam.

– Tiếp tục suy nghĩ về những giá trị mà các thế hệ cha anh đã tạo dựng nên, đến đây nhà thơ lại có một phát hiện bất ngờ mà thú vị: “Cái kèo, cái cột thành tên”.

+ “Cái kèo, cái cột” là tên gọi những bộ phận quan trọng trong cấu trúc ngôi nhà truyền thống Việt Nam:

“Có cây thì dây mới leo,
Có cột có kèo mới có đòn tay”

(Ca dao)

+ Như vậy là, từ thuở xa xưa, con người Việt Nam, không chờ ai dạy bảo, đã biết tự mình làm nên nhà cửa để che mưa trú nắng, ổn định nơi ăn chốn ở để có thể tồn tại vững bền trên dải đất bên bờ biển Đông quanh năm đầy nắng mưa giông bão này.

+ Lại còn chuyện này nữa: “Cái kèo, cái cột thành tên”, bởi đó là những tên gọi quen thuộc mà người Việt Nam ngày trước đã dùng để đặt tên cho con cái mình, những tên gọi hồn nhiên lấy từ những sự vật quen thuộc, như tên Cột, Kèo, Chanh, Khế, Nụ, Búp, Khoai, Sắn… Đó là những tên gọi không thể viết bằng chữ Hán, những tên gọi hoàn toàn Việt Nam. Như thế là từ mấy nghìn năm trước, không đợi tới người Hán đến đây, dân tộc ta đã có tiếng nói riêng mà bây giờ ta gọi là tiếng mẹ đẻ.

– Tạo nơi ăn chốn ở, tạo nên tiếng nói, tạo nên Đất Nước, tổ tiên ta còn tạo nên một điều vô cùng quan trọng: “Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng”

+ Với người Việt Nam vốn gắn bó lâu đời với nền văn minh lúa nước, hạt gạo trở thành gia bảo vô cùng cần thiết cho cuộc sống. Cho nên ngay khi còn là đứa trẻ mới lớn, cảm nhận về vật chất đầu tiên phải là hạt gạo trải qua một quá trình lam lũ, vất vả kết tinh mồ hôi, nước mắt của người lao động.

+ Câu thơ của Nguyễn Khoa Điềm như gói gọn cả quy trình lao động vất vả của con người Việt Nam để làm nên hạt gạo qua nghìn đời nay. Để từ đất mà làm nên hạt lúa, phải “một nắng hai sương”, bao nhiêu khó nhọc. Rồi từ hạt lúa mà có được hạt gạo để có bát cơm ăn, còn bao nhiêu công việc phải đổ mồ hôi: “xay, giã, giần, sàng…”, phải suốt ngày “bán mặt cho đất bán lưng cho trời”, “dầm mưa dãi nắng”.

+ Hình ảnh thơ của Nguyễn Khoa điềm làm ta gợi nhớ tới câu ca dao mẹ ru thuở nào:

“Cày đồng đang buổi ban trưa
Mồ hôi thánh thót như mưa ruộng cày
Ai ơi bưng bát cơm đầy
Dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần”

+ Như vậy thì rõ ràng là từ mấy nghìn năm trước, con người ở đây đã biết tự mình làm nên hạt gạo để có miếng ăn hàng ngày cho mình, để cho các thế hệ con cháu vững vàng mà làm nên Đất Nước, để tạo dựng cho mình một nền văn minh riêng mà các nhà nghiên cứu ngày nay gọi là “nền văn minh sông Hồng”!

– Kết lại đoạn thơ, Nguyễn Khoa Điềm khẳng định: “Đất Nước có từ ngày đó”.

+ Đất Nước của bây giờ là “Đất Nước có từ ngày đó”, thuở đó.

– Cách cảm nhận cội nguồn đất nước của Nguyễn Khoa Điềm thật gần gũi, thân quen mà cũng không kém phần thi vị, độc đáo, dễ làm lay động trái tim hàng triệu độc giả.

– Trong đoạn thơ trên, tác giả sử dụng khéo léo các kiểu cấu trúc thơ “Đất nước đã có…”, “Đất nước bắt đầu…”, “Đất nước lớn lên…”, “Đất nước có từ…” đã giúp cho ta hình dung được cả quá trình hình thành và phát triển của đất nước trong trường kì lịch sử nằm sâu trong tâm thức của con người Việt Nam qua bao thế hệ.

– Trường từ vựng: ông, bà, cha, mẹ gợi về tình cảm gia đình ruột thịt thân thương.

+ Đất Nước hiện ra trong mối quan hệ với mẹ, với những câu chuyện “ngày xửa ngày xưa” mà mẹ kể cho chúng ta nghe. Đất Nước hiện ra trong mối quan hệ với người bà, với hình ảnh “miếng trầu bà ăn” hàng ngày. Đất Nước hiện ra trong mối quan hệ nghĩa tình của cha mẹ “thương nhau bằng gừng cay muối mặn”.

+ Đất Nước luôn hiện hữu trong hình ảnh của ông bà, cha mẹ, cháu con. Đó cũng là khởi nguồn cho đất nước. Bởi nói như nhân vật chú Năm “con sông gia đình cũng chảy về biển, mà biển thì rộng lắm, rộng bằng nước ta” (Những đứa con trong gia đình – Nguyễn Thi).

III. Kết bài:

– Tóm lại, bằng những hình ảnh gần gũi, quen thuộc thường ngày, bằng chất liệu văn hoá dân gian, truyền thuyết, cổ tích, chỉ qua một đoạn thơ ngắn, Nguyễn Khoa Điềm đã trình bày được một ý niệm về đất nước thật độc đáo, hấp dẫn; vừa thiêng liêng, vừa hiện hữu rõ ràng, vừa có chiều sâu văn hoá lịch sử, vừa bình dị thân quen với cuộc sống nhân dân hàng ngày.

– Đó là một đóng góp quan trọng của Nguyễn Khoa Điềm làm sâu thêm ý niệm về đất nước của nhân dân cho thơ ca hiện đại.


Cảm nhận của anh (chị) về đoạn thơ:

“Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa…” mẹ thường hay kể
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc
Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Cái kèo, cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng
Đất Nước có từ ngày đó…
Đất là nơi anh đến trường
Nước là nơi em tắm
Đất Nước là nơi ta hò hẹn
Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm
Đất là nơi “con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc”
Nước là nơi “con cá ngư ông móng nước biển khơi”
Thời gian đằng đẵng
Không gian mênh mông
Đất Nước là nơi dân mình đoàn tụ….”

(Đất Nước, trích Trường ca Mặt đường khát vọng).

I. Mở bài:

– Nguyễn Khoa Điềm thuộc thế hệ các nhà thơ trẻ thời chống Mĩ cứu nước. Thơ ông giàu chất trí tuệ, suy tư sâu lắng và cảm xúc nồng nàn

– Mặt đường khát vọng là bản trường ca xuất sắc viết về sự thức tỉnh của tuổi trẻ miền Nam với đất nước, nhân dân.

– Đất Nước thuộc chương V của bản trường ca, tiêu biểu cho sự kết hợp giữa xúc cảm nồng nàn và suy tư sâu lắng.

II. Thân bài:

Hình tượng Đất Nước được cảm nhận trên nhiều bình diện: văn hóa, địa lý, lịch sử.

+ Ở phương diện văn hóa: Đất Nước hiện diện trong những giá trị văn hóa dân gian bình dị, gần gũi với mỗi cá nhân từ lúc ấu thơ (trong ca dao, cổ tích, truyền thuyết, trong những hình ảnh rất đời thường,…).

+ Ở phương diện địa lý: Đất Nước là không gian gắn bó với mỗi con người từ lúc ấu thơ cho đến tuổi trưởng thành, là không gian của những kỷ niệm của tuổi thơ, của tình yêu đôi lứa,… Rộng hơn, Đất Nước là không gian bao la với núi, sông, rừng biển tươi đẹp, phong phú,…

+ Ở góc nhìn lịch sử, đất nước trưởng thành trong thời gian đằng đẵng, gắn với những huyền thoại, truyền thuyết về sự hình thành của dân tộc Việt,…

→ Đoạn trích thể hiện những suy ngẫm mới mẻ, sâu sắc của Nguyễn Khoa Điềm về Đất Nước. Hình tượng Đất Nước được thể hiện bằng thể thơ tự do, linh hoạt với chất liệu thi ca được lấy từ kho tàng văn hóa, văn học dân gian, góp phần khẳng định tư tưởng Đất Nước của Nhân dân, Đất Nước của Ca dao thần thoại,….

– Sức hấp dẫn của thơ Nguyễn Khoa Điềm được tạo nên bởi hai yếu tố: xúc cảm nồng nàn và suy tư sâu lắng.

– Đoạn thơ trước hết xuất phát từ tình cảm nồng nàn, tình yêu đất nước sâu đậm trong tâm hồn nhà thơ: Tình yêu đó thể hiện trong sự gắn bó tha thiết với những giá trị văn hóa, khung cảnh thiên nhiên cũng như lịch sử dân tộc.

– Đoạn thơ là kết tinh tâm huyết, những suy nghĩ, tìm tòi khám phá mới mẻ của nhà thơ: hình tượng Đất Nước trong thơ Nguyễn Khoa Điềm rất giản dị, đời thường, gắn bó với mỗi con người từ lúc sinh ra đến tuổi trưởng thành.

III. Kết bài: 

– Từ những suy ngẫm về hình tượng Đất Nước, tác giả giúp người đọc cảm nhận rõ ràng, sâu sắc rằng Đất Nước không phải là khái niệm cao siêu, xa vời mà Đất Nước vô cùng gần gũi, Đất Nước hiện diện trong cuộc sống đời thường của mỗi cá nhân. Từ suy ngẫm đó, nhận thức về trách nhiệm của cá nhân với Đất Nước đến một cách tự nhiên.


Phân tích đoạn thơ sau trong bài thơ “Đất Nước” của Nguyễn Khoa Điềm.

“Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa” mẹ thường hay kể.
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc
Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Cái kèo, cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng
Đất Nước có từ ngày đó…”

I. MỞ BÀI

Đất Nước là nguồn cảm hứng bất tận của thơ ca và nghệ thuật. Mỗi nhà thơ đều có những cảm nhận rất riêng về Đất Nước, bởi thế Đất Nước, Tổ quốc hiện lên muôn màu muôn vẻ. Nếu như các nhà thơ cùng thời thường chọn điểm nhìn về Đất Nước bằng những hình ảnh kỳ vĩ, mỹ lệ hay cảm hững về lịch sử qua các triều đại thì Nguyễn Khoa Điềm lại chọn điểm nhìn gần gũi, quen thuộc bình dị để miêu tả về Đất Nước. Đến với bài thơ Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm ta như đứng trước muôn màu văn hóa, truyền thống, phong tục tươi đẹp vô ngần. Vẻ đẹp ấy được hiện lên sâu sắc nhất qua chín câu thơ đầu.

“Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa” mẹ thường hay kể.
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc
Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Cái kèo, cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng
Đất Nước có từ ngày đó…”

II. THÂN BÀI:

– Đất nước là nguồn cảm hứng bất tận của thơ ca. Ở bài thơ này, Nguyễn Khoa Điềm đã chọn điểm nhìn gần gũi để miêu tả một đất nước tự nhiên, bình dị mà không kém phần thiêng liêng, tươi đẹp. Hình ảnh đất nước trong đoạn thơ đầu hiện lên muôn màu muôn vẻ, sinh động lạ thường, lắng đọng trong tâm tưởng ta qua những nét đẹp về phong tục, tập quán, văn hóa, truyền thống mang đậm dấu ấn con người Việt.

– Câu thơ mở đầu được viết theo thể câu khẳng định “Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi”. Với cách vào đầu rất tự nhiên ấy, nhà thơ khẳng định: Đất Nước đã có từ rất lâu, có trước khi ta sinh ra vì thế khi ta lớn lên thì ta đã thấy Đất Nước. Bốn chữ cuối của câu thơ vang lên đầy tự hào “Đất Nước đã có rồi”. Đó là lời khẳng định chắc nịch về sự trường tồn của đất nước qua mấy ngàn năm lịch sử dựng nước và giữ nước.

– Hai câu thơ tiếp theo nhà thơ diễn tả cụ thể về sự ra đời của đất nước.

“Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa” mẹ thường hay kể.
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn”

– Câu thơ thứ nhất, tác giả cho rằng Đất Nước có trong cái “ngày xửa ngày xưa”. Nghĩa là Đất Nước có từ rất lâu đời, có tự ngày xưa. Đất Nước có từ trước khi những câu truyện cổ ra đời rồi khi những câu truyện cổ có mặt trong đời sống tinh thần của ta, ta lại thấy Đất Nước hiện diện trong truyện cổ. Đó là Đất Nước của một nền văn học dân gian đặc sắc với những câu chuyện cổ tích, thần thoại, truyền thuyết. Chính những câu chuyện cổ và những bài hát ru thuở ta còn nằm nôi là nguồn sữa ngọt lành chăm bẵm cho ta cái chân thiện mĩ và lớn lên ta biết yêu đất nước con người. Về ý nghĩa của truyện cổ với đời sống tinh thần con người, nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ đã xúc động mà viết nên:

“Tôi yêu truyện cổ nước tôi
Vừa nhân hậu lại tuyệt vời sâu xa
Thương người rồi mới thương ta
Yêu nhau dù mấy cách xa cũng gần”.

(Truyện cổ nước mình)

– Câu thơ thứ hai, nhà thơ diễn tả Đất Nước có trong “miếng trầu bây giờ bà ăn”. Gợi nhắc phong tục ăn trầu của người Việt. Câu thơ gợi nhớ về câu truyện cổ tích “Sự tích trầu cau” được xem là xưa nhất trong những câu truyện cổ. Tục ăn trầu cũng từ câu truyện này mà nên. Như vậy là thẩm thấu vào trong miếng trầu dung dị ấy là 4000 năm phong tục, 4000 năm dân ta gìn giữ phong tục ăn trầu. Miếng trầu là biểu tượng của tình yêu, vật chứng cho lứa đôi cũng là biểu tượng tâm linh của người Việt. Từ phong tục ăn trầu, tục nhuộm răng đen cũng ra đời:

“Những cô hàng xén răng đen
Cười như mùa thu tỏa nắng”

(Hoàng Cầm)

– Câu thơ thứ tư, nhà thơ diễn tả sự trưởng thành của Đất Nước. Đó là sự trưởng thành từ truyền thống đánh giặc giữ nước qua hình tượng Thánh Gióng và cây tre: “Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc”

– Câu thơ gợi nhắc cho ta nhớ đến truyền thuyết Thánh Gióng, chàng trai Phù Đổng Thiên Vương nhổ tre làng Ngà đánh giặc, gợi lên vẻ đẹp khỏe khoắn của tuổi trẻ Việt Nam kiên cường, bất khuất:

“Ta như thuở xưa thần Phù Đổng
Vụt lớn lên đánh đuổi giặc Ân
Sức nhân dân khoẻ như ngựa sắt
Chí căm thù ta rèn thép thành roi
Lửa chiến đấu ta phun vào mặt
Lũ sát nhân cướp nước hại nòi”

(Tố Hữu)

– Truyền thống vẻ vang ấy đã theo suốt chặng đường dài của lịch sử dân tộc mãi đến hôm nay trong thời đại chống Mỹ bao tấm gương tuổi trẻ đã anh dũng chiến đấu bảo vệ giống nòi. Phải chăng, đó chính là vẻ đẹp của các chị, các anh đã tạc vào lịch sử Việt Nam dáng đứng kiêu hùng bất khuất: Võ Thị Sáu, Trần Văn Ơn, Nguyễn Văn Trỗi… Vẻ đẹp ấy song hành với hình ảnh cây tre Việt Nam. Cây tre hiền hậu trên mỗi làng quê. Nó như là sự đồng hiện những phẩm chất trong cốt cách con người Việt Nam: thật thà chất phác, đôn hậu thuỷ chung, yêu chuộng hoà bình nhưng cũng kiên cường bất khuất trong tranh đấu. Tre đứng thẳng hiên ngang bất khuất cùng chia lửa với dân tộc “Một cây chông cũng tiến công giặc Mỹ “, bởi:

“Nòi tre đâu chịu mọc cong
Chưa lên đã nhọn như chông lạ thường”.

– Bốn câu thơ tiếp theo nhà thơ mang đến cho người đọc vẻ đẹp thuần phong mỹ tụccủa con người Việt:

Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Cái kèo, cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng

– Đó là vẻ đẹp giản dị của người phụ nữ Việt Nam. Không ai khác là những người mẹ với phong tục “búi tóc sau đầu” (tóc cuộn thành búi sau gáy tạo cho người phụ nữ một vẻ đẹp nữ tính, thuần hậu rất riêng). Nét đẹp ấy gơi nhớ ca dao:

Tóc ngang lưng vừa chừng em bới
Để chi dài cho rối lòng anh

– Nguyễn Khoa Điềm tiếp tục gắn dòng suy tưởng đến con người ngàn đời cư trú, lao động, chiến đấu trên mảnh đất Việt để giữ gìn tôn tạo mảnh đất thân yêu. Ở đó đạo lí ân nghĩa thủy chung đã trở thành truyền thống ngàn đời của dân tộc: “Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn”. Ý thơ được toát lên từ những câu ca dao đẹp:

“Tay bưng đĩa muối chén gừng
Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau”

– Thành ngữ “gừng cay muối mặn” được vận dụng một cách đặc sắc trong câu thơ nhẹ nhàng mà thấm đượm biết bao ân tình. Nó gợi lên được ân nghĩa thủy chung ở đời: gừng càng già càng cay, muối càng lâu năm càng mặn, con người sống với nhau lâu năm thì tình nghĩa càng đong đầy. Có lẽ chính vì vậy mà Đất Nước còn ghi dấu ấn của cha của mẹ bằng Hòn trống mái, núi Vọng Phu, Hòn Trống Mái… đi vào năm tháng.

– Câu thơ “Cái kèo cái cột thành tên”, gợi nhắc cho người đọc nhớ đến tục làm nhà cổ của người Việt. Đó là tục làm nhà sử dụng kèo cột giằng giữ vào nhau làm cho nhà vững chãi, bền chặt tránh được mưa gió, thú dữ. Đó cũng là ngôi nhà tổ ấm cho mọi gia đình đoàn tụ bên nhau; siêng năng tích góp mỡ màu dồn thành sự sống. Từ đó, tục đặt tên con “cái Kèo, cái Cột” cũng ra đời.

– Đâu chỉ có những vẻ đẹp trên, dân tộc ta còn có truyền thống lao động cần cù, chịu thương chịu khó “Hạt gạo phải một nắng hai sương xay giã dần sàng”. Thành ngữ “Một nắng hai sương” gợi nên sự cần cù chăm chỉ của cha ông ta những ngày long đong, lận đận trong đời sống nông nghiệp lạc hậu. Đó là truyền thống lao động cần cù, chịu thương chịu khó. Các động từ “Xay – giã – dần – sang” là quy trình sản xuất ra hạt gạo. Để làm ra hạt gạo ta ăn hằng ngày, người nông dân phải trải qua bao nắng sương vất vả gieo cấy, xay giã, giần sàng. Thấm vào trong hạt gạo bé nhỏ ấy là mồ hôi vị mặn nhọc nhằn của giai cấp nông dân. Bởi vậy, ăn hạt gạo dẻo thơm ta phải nhớ công ơn người đã làm ra nó:

Ai ơi bưng bát cơm đầy
Dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần.

– Câu thơ cuối cùng khép lại một câu khẳng định với niềm tự hào: “Đất Nước có từ ngày đó”.
– “Ngày đó” là ngày nào ta không rõ nhưng chắc chắn “ngày đó” là ngày ta có truyền thống, có phong tục tập quán, có văn hóa mà có văn hóa nghĩa là có đất nước. Đúng như lời Bác dặn trước lúc đi xa “Rằng muốn yêu tổ quốc mình, phải yêu những câu hát dân ca”. Dân ca, ca dao là đặc trưng văn hóa của Việt Nam, muốn yêu Đất Nước trước hết phải yêu và quý trọng văn hóa nước nhà. Bởi văn hóa chính là Đất Nước. Thật đáng yêu đáng quý, đáng tự hào biết bao lời thơ dung dị, ngọt ngào của Nguyễn Khoa Điềm.

– Thành công của đoạn thơ trên là nhờ vào việc vận dụng khéo léo chất liệu văn hóa dân gian như phong tục ăn trầu, tục búi tóc, truyền thống đánh giặc, truyền thống nông nghiệp. Nhà thơ sáng tạo thành ngữ dân gian, ca dao tục ngữ, thành ngữ…Điệp ngữ Đất Nước được nhắc lại nhiều lần. Nhà thơ luôn viết hoa hai từ Đất Nước tạo nên sự thànhi ính, thiêng liêng… Tất cả làm nên một đoạn thơ đậm đà không gian văn hóa người Việt. Ngôn ngữ mộc mạc, giản dị, lời thơ nhẹ nhàng đúng giọng thủ thỉ tâm tình nhưng vẫn mang đậm hồn thơ triết lí.

III. KẾT BÀI:

Tóm lại, đoạn thơ ta vừa phân tích ở trên là đoạn thơ hay nhất trong bài thơ Đất Nước. Qua đoạn thơ, nhà thơ đã mang đến cho người đọc vẻ đẹp của một Đất Nước giàu văn hóa cổ truyền. Đất Nước của truyền thống, phong tục tươi đẹp mang đậm dấu ấn của tư tưởng Đất Nước của nhân dân.


Phân tích đoạn thơ sau để làm rõ tư tưởng “Đất Nước của nhân dân” trong đoạn trích Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm:

“Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu
Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái
Người học trò nghèo góp cho Đất nước mình núi Bút non Nghiên
Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại
Chín mươi chín con voi góp mình dựng đất Tổ Hùng Vương
Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm
Con cóc, con gà quê hương cùng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh
Những người dân nào đã góp tên ông Đốc, ông Trang, bà Đen, bà Điểm
Và ở đâu trên khắp ruộng đồng, gò bãi
Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha
Ôi đất nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hoá núi sống ta…”

I. MỞ BÀI

– Hình ảnh đất nước đã khơi nguồn cảm hứng vô tận cho biết bao thi sĩ Cách mạng để sáng tạo nên những vần thơ đẹp tuyệt vời. Nhà thơ Chế Lan Viên đã nhìn suốt chiều dài lịch sử oanh liệt để khẳng định: “Tổ quốc bao giờ đẹp thế này chăng?”. Lê Anh Xuân đã tạc vào thơ một dáng đứng Việt Nam với hình ảnh: “Từ dáng đứng của anh giữa đường băng Tân Sơn Nhất; Tổ quốc bay lên bát ngát mùa xuân”. Tố Hữu với hình ảnh đất nước sáng ngời: “Ôi! Việt Nam từ trong biển máu; Người vươn lên như một thiên thần”.

– Với chương Đất Nước trong Mặt đường khát vọng, Nguyễn Khoa Điềm đã nói lên những cảm nhận sâu sắc về đất nước, về nhân dân, về dân tộc và trách nhiệm lớn lao của tuổi trẻ Việt Nam trước non sông đất nước.

II. THÂN BÀI:

– Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm sinh năm 1943 ở Thừa Thiên Huế, là con nhà phê bình văn học Hải Triều, một nhà phê bình xuất sắc đã từng chủ trì lý thuyết “nghệ thuật vị nhân sinh” trong cuộc tranh luận với Hoài Thanh năm 1936 – 1969.

– Đất Nước thuộc chương V của trường ca Mặt đường khát vọng (1974). Bản trường ca viết về sự thức tỉnh của tuổi trẻ sinh viên các đô thị tạm chiếm ở miền Nam trước năm 1975 trước vận mệnh hiểm nghèo của đất nước; kêu gọi họ hướng về nhân dân mà xuống đường đấu tranh hoà nhập với cuộc kháng chiến của toàn dân tộc.

– Trong các nhà thơ trẻ thời chống Mỹ, Nguyễn Khoa Điềm giàu chất suy tưởng, xúc cảm dồn nén, thể hiện một chiều sâu văn hoá, đặc trưng của thế hệ các nhà thơ thời kỳ chống Mỹ cứu nước đã có một hành trang văn hóa chuẩn bị khá chu đáo trước khi bước vào chiến trường.

– Chương Đất Nước khai triển có vẻ phóng túng, tự do như một thứ tuỳ bút thơ, nhưng thật ra tứ thơ vẫn tập trung thể hiện tư tưởng “Đất Nước của nhân dân” qua các bình diện chủ yếu: Đất Nước trong chiều dài thời gian lịch sử, Đất Nước trong chiều rộng không gian lãnh thổ địa lý, Đất Nước trong bề sâu truyền thống văn hoá, phong tục, lối sống tâm hồn, cốt cách dân tộc.

– Tư tưởng “đất nước của nhân dân” là một tư tưởng rất tiến bộ của thơ ca thời đại Cách mạng. Đoạn trích bình giảng trên đây đã thể hiện một cách sâu sắc và cụ thể sự “hoá thân” của nhân dân vào đất nước muôn đời.

– Trọng tâm của đoạn thơ nằm ở phần lí giải: “Ai làm nên Đất Nước?” và bằng lí giải đầy sức thuyết phục của mình, Nguyễn Khoa Điềm đã khẳng định: Nhân dân làm nên đất nước, “Đất Nước này là đất nước của nhân dân”.

a. Nguyễn Khoa Điềm đã có những phát hiện mới mẻ về thiên nhiên địa lí của đất nước:

– Để nói lên công lao to lớn của nhân dân trong quá trình dựng nước và giữ nước, nhà thơ đã nhắc đến những danh lam thắng cảnh, những tên đất, tên làng trên mọi miền đất nước từ Nam chí Bắc.

+ Nguyễn Khoa Điềm đã nhìn thấy hình sông, thế núi là sự kết tinh đời sống tâm hồn của nhân dân. Xuất phát từ quan niệm của nhà Phật (hóa thân), tác giả đã trình bày những cảm xúc, suy tưởng của mình: chính nhân dân đã hoá thân thành đất nước “hóa thân cho dáng hình xứ sở” làm nên đất nước vĩnh hằng.

+ Qua cảm nhận của Nguyễn Khoa Điềm, những danh lam thắng cảnh không còn là những cảnh thú thiên nhiên thuần tuý nữa mà đã được cảm nhận thông qua những cảnh ngộ, số phận của nhân dân, được nhìn nhận như là những đóng góp của nhân dân, sự “hoá thân” của những con người không tên không tuổi. Chúng chỉ trở thành thắng cảnh khi đã gắn liền với cuộc sống của nhân dân, với con người, được tiếp nhận, cảm thụ quan tâm hồn nhân dân và qua lịch sử của dân tộc.

– Tư tưởng “Đất Nước của nhân dân” khiến cho những địa danh ngàn đời của Tổ quốc qua cái nhìn sắc sảo đầy khám phá của nhà thơ chính là sự hoá thân của những con người bình dị, vô danh những con người “không ai nhớ mặt đặt tên” “nhưng họ đã làm ra đất nước”:

“Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất nước những núi Vọng Phu
Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái”

+ Những địa danh, những hình sông thế núi mang hình người, linh hồn dân tộc. Chúng là sự tượng hình kết tinh đời sống văn hoá tinh thần của nhân dân mang đậm chủ nghĩa nhân văn, nhân đạo Việt Nam.

+ Núi Vọng Phu ở Lạng Sơn, Thanh Hóa, Bình Định…, hòn Trống Mái ở Sầm Sơn là do “những người vợ nhớ chồng” hoặc những “cặp vợ chồng yêu nhau” mà “góp cho”, “góp thêm”, làm đẹp thêm, tô điểm cho Đất Nước. Núi Vọng Phu, hòn Trống Mái cũng là kết tinh tình yêu thuỷ chung của biết bao người vợ chờ chồng trong chiến tranh liên miên, của sự gắn kết muôn đời, bất chấp mọi bão tố của thời gian:

“Không hoá thạch kẻ ra đi mà hóa thạch kẻ đợi chờ
Đợi một dáng hình trở lại giữa đơn côi”

– Tác giả không chỉ chiêm ngưỡng những hình ảnh núi Bút, non Nghiên mà còn nhìn ra trong đó phẩm chất, truyền thống hiếu học và khát vọng trí tuệ của dân tộc ta từ bao đời nay.

+ Những núi Bút, non Nghiên phô bày vẻ đẹp mỹ lệ giữa đất trời nước Việt hay là hình tượng những người học trò nghèo đã gửi gắm quyết tâm, ước vọng của mình vào đấy:

“Người học trò nghèo góp cho Đất nước mình núi Bút non Nghiên”

“Nghèo” nhưng “người học trò” vẫn góp cho đất nước ta “núi Bút non Nghiên”, làm rạng rỡ nền văn hiến Đại Việt, văn hiến Việt Nam. Đó cũng chính là truyền thống hiếu học, vượt khó vươn lên của nhân dân ta.

– Nhà thơ đã tìm về cội nguồn để cảm nhận sâu sắc dáng hình đất nước. Những hình ảnh thân quen của non sống đất nước gợi lên quá khứ hào hùng với truyền thống đánh giặc ngoại xâm oanh liệt của nhân dân ta qua truyền thuyết Thánh Gióng nhổ tre đánh đuổi giặc Ân:

“Ta như thuở xưa thần Phù Đổng
Vụt lớn lên đánh đuổi giặc Ân
Sức nhân dân khoẻ như ngựa sắt
Chí căm thù ta rèn thép thành roi
Lửa chiến đấu ta phun vào mặt
Lũ sát nhân cướp nước hại nòi”

(Tố Hữu)

cùng với sự nghiệp dựng nước đầy gian lao của vua Hùng:

“Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại
Chín mươi chín con voi góp mình dựng đất Tổ Hùng Vương”

Ở đây, Nguyễn Khoa Điềm đã ca ngợi vẻ đẹp của Đất Nước về mặt lịch sử và truyền thống. Chính cái “gót ngựa của Thánh Gióng” đã “để lại” cho đất nước bao ao đầm ở vùng Hà Bắc ngày nay. “Chín mươi chín” núi con Voi đã quần tụ, chung sức chung lòng “góp mình dựng đất tổ Hùng Vương”.

– Cho đến “những con rồng nằm im” cũng góp phần làm nên “dòng sông xanh thẳm”, “con cóc, con gà quê hương cũng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh” và cả những địa danh thật nôm na, bình dị “những ông Đốc, ông Trang, bà Đen, bà Điểm”.

+ “Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm”. Những dòng sông trên đất nước ta là do rồng “nằm im” từ bao đời nay. Nhờ đó mà quê hương ta có “dòng sông xanh thẳm”, thơ mộng cho nước ngọt phù sa, nhiều tôm cá, mênh mông biển lúa bốn mùa.

+ Tư tưởng “Đất Nước của nhân dân” cũng thể hiện trong kì quan nổi tiếng, những tên tuổi có công với dân với nước:

“Con cóc con gà quê hương cùng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh
Những người dân nào đã góp tên ông Đốc, ông Trang, bà Đen, bà Điểm”

Theo cảm nhận của Nguyễn Khoa Điềm, Hạ Long trở thành kì quan, thắng cảnh là nhờ có “con cóc, con gà quê hương cùng góp cho”. Những tên làng, tên núi, tên sông như “Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm ” là do những con người vô danh, bình dị làm nên.

+ Nguyễn Khoa Điềm đã đặt cái nhìn trân trọng của mình vào nhân dân không tên không tuổi, “những người dân nào” không ai biết cũng làm nên tên núi, tên sông và tất cả những cái bình thường trong cuộc sống hàng ngày của nhân dân cũng hoá thân thành “dáng hình xứ sở”. Những địa danh ở vùng cực Nam đất nước xa xôi này tượng trưng cho tinh thần xả thân vì cộng đồng, đức tính cần cù, siêng năng, dũng cảm trong lao động sáng tạo của nhân dân ta.

+ Để khẳng định và nhấn mạnh tư tưởng “Đất nước của nhân dân” và chính nhân dân vô tận, những người vô danh không tên không tuổi đã làm nên đất nước, ở đoạn thơ trên tác giả đã sử dụng rất thành công điệp từ “góp”, một động từ diễn đạt hành động “cùng mọi người đưa cái riêng của mình vào thành cái chung” (Từ điển Tiếng Việt – trang 758)

+ Đọc đoạn thơ này ta cảm thấy ngạc nhiên thích thú trước những lí giải của Nguyễn Khoa Điềm. Ai ngờ những điạ danh, thắng cảnh quá thân quen lại có khả năng nói được nhiều điều sâu xa như thế. Số phận, cảnh ngộ, công lao của mỗi người đã đóng góp, hoá thân vào Đất Nước. Đất Nước thấm sâu vào tâm hồn, máu thịt của nhân dân.

b. Từ đó, Nguyễn Khoa Điềm đi đến kết luận mang tính khái quát sâu sắc giàu chất suy tư và triết luận về sự hoá thân của nhân dân vào đất nước:

– Tính khái quát của hình tượng thơ cứ được nâng dần lên. Đó là một hình dáng của tư thế truyền thống Việt Nam, truyền thống văn hiến của dân tộc có bốn nghìn năm lịch sử:

“Và ở đâu trên khắp ruộng đồng, gò bãi
Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha”
Ôi Đất Nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hoá núi sống ta…”

+ Thì ra trên mọi miền Đất Nước của Tổ quốc Việt Nam, những tên núi, tên sông, tên làng, tên bản, tên ruộng đồng , gò bãi… đều mang đậm “một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha”.

+ Chính cuộc đời của cha ông ta – những người dân không tên tuổi – đã làm nên Đất Nước. Tất cả đều do nhân dân tạo ra, đều kết tinh từ công sức và khát vọng của nhân dân – những con người bình thường, vô danh.

+ Nhưng tầm vóc của Đất Nước và nhân dân không chỉ trên bình diện địa lí “mênh mông” mà còn ở dòng chảy thời gian lịch sử “bốn nghìn năm” “đằng đẵng”.

III. KẾT BÀI:

– Đoạn thơ có kết cấu chặt chẽ, tự nhiên và được viết theo thể tự do. Câu thơ mở rộng kéo dài nhưng không nặng nề mà biến hoá linh hoạt làm cho đoạn thơ giàu sức biểu hiện và sức khái quát cao.

– Đó là hình ảnh “Đất Nước của nhân dân” – nhân dân đã hoá thành đất nước. Bởi trên khắp ruộng đồng gò bãi, núi sông đâu đâu cũng là hình ảnh của văn hoá, của đời sống tâm hồn, cốt cách của Việt Nam.


Phân tích đoạn thơ sau đây trong đoạn trích “Đất nước”: “Trong anh và em hôm nay…”

“Trong anh và em hôm nay,
………………………………
Làm nên Đất Nước muôn đời”.

I/ Mở bài:

– Nguyễn Khoa Điềm (1943) thuộc thế hệ nhà thơ chống Mỹ cứu nước.Đất nước, nhân dân, cách mạng luôn là nguồn cảm hứng phong phú của thơ ông.

– “Đất nước”là một đọan trích thuộc chương V trong bản trường ca “Mặt đường khát vọng” của Nguyễn Khoa Điềm, sáng tác năm 1971, tại chiến trường Bình Trị Thiên.

– Đọan thơ sau đây là những lời nhắn nhủ tâm tình về sự gắn bó và trách nhiệm của mỗi người với đất nước :

“ Trong anh và em hôm nay,
Đều có một phần Đất Nước
………………………………
Làm nên Đất Nước muôn đời”.

II/ Thân bài :

– Thật vậy, sau những cảm nhận mới mẻ và sâu sắc của nhà thơ về đất nước qua những phương diện không gian – địa lý,thời gian- lịch sử,phong tục- văn hóa …, Nguyễn Khoa Điềm đã đi đến khẳng định :

“Trong anh và em hôm nay,
Đều có một phần Đất Nước”.

+ Đây là một sự thực mà mỗi người Việt Nam ai cũng đều cảm thấy.Đất nước đã hóa thân vào mỗi con người, bởi chúng ta đều là con Rồng, cháu Tiên, đều sinh ra và lớn lên trên đất nước này.Mỗi người Việt Nam đều đã và đang thừa hưởng những giá trị vật chất, tinh thần của đất nước thành máu thịt, tâm hồn, nếp cảm,nếp nghĩ và cách sống của mình.

– Từ việc khẳng định: đất nước hóa thân và kết tinh trong cuộc sống của mỗi người,nhà thơ tiếp tục nói về mối quan hệ gắn bó sâu sắc của mỗi người với đất nước bằng những dòng thơ giàu chất chính luận :

“Khi hai đứa cầm tay
Đất Nước trong chúng ta hài hòa nồng thắm
Khi chúng ta cầm tay mọi người
Đất Nước vẹn tròn, to lớn”.

– Với những cảm nhận tinh tế, mới mẻ về sự hòa quyện giữa cái riêng và cái chung, giữa tình yêu và niềm tin, đồng thời kết hợp sử dụng các tính từ “hài hòa, nồng thắm”; “vẹn tròn, to lớn” đi liền nhau; đặc biệt là kiểu câu cấu tạo theo hai cặp đối xứng về ngôn từ (“Khi /Khi; Đất Nước / Đất Nước),nhà thơ muốn gửi đến cho người đọc bức thông điệp: đất nước là sự thống nhất hài hòa giữa tình yêu đôi lứa với tình yêu Tổ quốc, giữa cá nhân với cộng đồng.

– Không chỉ khẳng định mối quan hệ gắn bó giữa Đất nước và nhân dân, giữa tình yêu cá nhân với tình yêu lớn của đất nước; nhà thơ còn thể hiện niềm tin mãnh liệt vào tương lai tươi sáng của đất nước :

“Mai này con ta lớn lên
Con sẽ mang Đất Nước đi xa
Đến những tháng ngày mơ mộng”.

→ Có thể nói, ba dòng thơ đã mở ra một tầng ý nghĩa mới, đó là niềm tin mãnh liệt vào tương lai tươi sáng của đất nước.Thế hệ sau “con ta lớn lên sẽ mang Đất Nước đi xa- Đến những tháng ngày mơ mộng”.Đất nước sẽ đẹp hơn, những tháng ngày mơ mộng ở hiện tại sẽ trở thành hiện thực ở ngày mai.

– Khi đã hiểu hết ý nghĩa thiêng liêng của đất nước, nhà thơ muốn nhắn gửi với mọi người :

“Em ơi em Đất nước là máu xương của mình
Phải biết gắn bó và san sẻ
Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở
Làm nên Đất Nước muôn đời…”

→ Bằng giọng văn trữ tình kết hợp với chính luận; bằng cách sử dụng câu cầu khiến, điệp ngữ “phải biết – phải biết” nhắc lại hai lần cùng các động từ mạnh “gắn bó, san sẻ, hóa thân” …nhà thơ như nhắn nhủ mình, nhưng cũng lànhắn nhủ với mọi người ( nhất là thế hệ trẻ) về trách nhiệm thiêng liêng của mình với đất nước. Cái hay là lời nhắn nhủ mang tính chính luận nhưng lại không giáo huấn mà vẫn rất trữ tình, tha thiết như lời tự dặn mình – dặn người của nhà thơ.

III/ Kết bài:

– Tóm lại, đây là một trong những đọan thơ hay và sâu sắc trong “Đất Nước” của Nguyễn Khoa Điềm .Bởi lẽ, qua đọan thơ, nhà thơ đã giúp cho chúng ta hiểu hơn về sự gắn bó giữa mỗi người với đất nước.Từ đó, ý thức hơn về trách nhiệm của mỗi người với đất nước quê hương.

– Đồng thời, đọan thơ cũng giúp ta thấy được vẻ đẹp trong phong cách thơ trữ tình- chính luận của nhà thơ.


Kiến thức phân tích đoạn thơ “ĐẤT NƯỚC” (trích trường ca “Mặt đường khát vọng” của Nguyễn Khoa Điềm.

I. Tác giả, tác phẩm.

– Nguyễn Khoa Điềm là một trong những nhà thơ tiêu biểu của thế hệ nhà thơ trẻ, có những đóng góp nổi bật cho thơ ca Việt Nam trong những năm kháng chiến chống Mỹ cứu nước.

– Thơ ông giàu chất suy tư, trầm lắng, cảm xúc dồn nén, thể hiện tâm tư của người trí thức tham gia tích cực vào cuộc kháng chiến.

– Tác phẩm tiêu biểu: Đất ngoại ô, trường ca Mặt đường khát vọng, Ngôi nhà có ngọn lửa ấm…

– “Mặt đường khát vọng” sáng tác vào mùa đông năm 1971, tại chiến trường Trị – Thiên. Đây là thời điểm mà cuộc chiến tranh chống Mỹ đang hồi quyết liệt.

– Trích chương V trong trường ca “Mặt đường khát vọng” (1971).

– “Mặt đường khát vọng” là bản trường ca viết về sự thức tỉnh của tuổi trẻ các thành thị vùng tạm bị chiếm miền Nam, nhận rõ bộ mặt xâm lược của Đế quốc Mĩ, hướng về nhân dân, đất nước, xuống đường đấu tranh hòa nhịp với cuộc chiến đấu chung của dân tộc.

II. Phân tích tác phẩm.

– ĐẤT NƯỚC là đề tài quen thuộc, phổ biến trong thơ ca, nhạc họa…

– Đối với các nhà thơ trẻ thời chống Mỹ, đề tài Đất nước được cảm nhận theo cách riêng mang dấu ấn của sự trải nghiệm bằng cuộc sống của chính mình.

– Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm đã dóng góp một tiếng nói rất riêng về đề tài quen thuộc này.

1. Cảm nhận và lý giải của nhà thơ về đất nước:

a. Đất nước có từ bao giờ? Đất nước ở đâu?

– Đất nước có trong nhận thức, tình cảm của mỗi người như một điều hiển nhiên “Khi ta lớn lên dất nước đã có rồi”.

– Đi tìm nguồn cội của Đất nước nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm cảm nhận đất nước có từ xa xưa:

• Từ trong những câu chuyện cổ tích Ngày xửa ngày xưa mẹ thường hay kể.

• Đất nước bắt đầu với những phong tục rất đẹp của dân tộc khi nền văn minh sông Hồng mới hình thành “ miếng trầu bà ăn”, “ tóc mẹ thì búi sau đầu”.

+ Hình ảnh “ miếng trầu” tượng trưng cho phong tục tập quán đẹp của của người Việt _ đó là miếng trầu của lòng hiếu khách “ Miếng trầu là đầu câu chuyện”, miếng trầu tình duyên thắm đượm” Miếng trầu nên dâu nhà người”, miếng trầu của tình vợ chồng, tình anh em…trong Sự tích trầu cau.

+ Hình ảnh “búi tóc” không chỉ là phong tục tập quán của người Việt mà còn là một quan niệm về thẩm mỹ của người Việt xưa.

• Đất nước “lớn lên” từ những ngày đầu đánh giặc giữ nước của chàng trai Phù Đổng thuở xưa “ Đất nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre đánh giặc”

• Đất nước bắt nguồn từ những vần ca dao tình nghĩa, từ lới sống ân nghĩa thủy chung của dân tộc ta “ cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn”. Lấy ý từ:

Tay bưng đĩa muối chấm gừng
Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau
Muối ba năm muối đương còn mặn
Gừng chín tháng gừng hãy còn cay
Đôi ta nghĩa nặng tình dày
Dù ba vạn sáu ngàn ngày cũng nỏ xa

– Đất nước có trong những sự vật gần gũi, thân thương, bình dị gắn bó với đời sống của con người Việt Nam (Miếng trầu, búi tóc,cái kèo, cái cột, hạt gạo…).

* Nhận xét:

– Với những chất liệu lấy từ văn học dân gian, văn hóa dân tộc, từ nhũng sự vật nhỏ bé, quen thuộc trong đời sống, Nguyễn Khoa Điềm đã cảm nhận Đất nước có cội nguồn từ xa xưa, có trong chiều sâu của nền văn hóa dân tộc, trong bề dày của văn học dân gian và ngay trong những sự vật gần gũi với mỗi người, mỗi gia đình. Đất nước trong cảm nhận của nhà thơ thật gần gũi, dung dị, đời thường.

– Qua đoạn thơ, tác giả bày tỏ niềm tự hào về một đất nước có một nền văn hóa lâu đời mang những nét đặc thù riêng.

b. Đất nước là gì?

* Đất nước là không gian địa lý mênh mông, bao la:

– Trong không gian cụ thể, gần gũi, gắn bó với kỷ niệm, với tình yêu của mỗi người:

+ Đất là nơi anh đến trườngà không gian quen thuộc gắn liền với thời thơ ấu của mỗi người.

+ Nước là nơi em tắm à Không gian nhỏ bé,gần gũi trong đời sống, phải chăng còn gợi liên tưởng những giếng làng, những ao hồ, sông nước của làng quê VN?

+ Đất nước là nơi ta hò hẹn…là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầmàKhông gian gần gũi gắn liền với kỉ niệm tình yêu đôi lứa. Câu thơ mang hơi thở dân gian, gợi nhớ bài ca dao Khăn thương nhớ ai…

– Trong không gian mênh mông, bao la gắn liền với đời sống của một dân tộc àLà những không gian quen thuộc mà thiêng liêng, lớn lao:

+ Lãnh thổ của một quốc gia: Đất là nơi “con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc”/ Nước là nơi “con cá như ông móng nước biển khơi”àMượn lời bài dân ca Bình Trị Thiên nhà thơ cảm nhận về đất nước với niềm tự hào vô hạn về một quốc gia có chủ quyền. Ý thơ gợi nhớ bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên trong văn học nước nhà “ Sông núi nước Nam” của Lý Thường kiệt.

+ Không gian sinh tồn của cộng đồng dân tộc “ Đất nước là nơi dân
mình đoàn tụ”.

* Đất nước là thời gian lịch sử “ đằng đẵng” của quá khứ, hiện tại và tương lai:

– Là nơi phát sinh, phát triển của một cộng đồng dân tộc từ thuở sơ khai “ Đất là nơi Chim về/ Nước là nơi Rồng ở/ Lạc Long Quân và Âu Cơ/Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng” àLấy chất liệu từ những huyền thoại của văn học dân gian.

– Là bề dày lịch sử dân tộc trong quá khứ của Những ai đã khuất/Những ai bây giờ…Dặn dò con cháu chuyện mai sauà Đất nước mang tính chất kế tục và vĩnh hằng.

– Nhà thơ còn nhắn nhủ “ Hằng năm ăn đâu…..cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ”à Ý thơ không chỉ là lời nhắn nhủ mà còn là “cầu nối” cho đoạn thơ sau.

* Nét đặc sắc về nghệ thuật của đoạn thơ:

– Lấy chất liệu từ văn học dân gian ( ca dao, dân ca, huyền thoại…)

– Tách rời hai thành tố ĐẤT/NƯỚC sau đó kết hợp lại để khẳng định đất nước rất bình dị, gần gũi với mọi người nhưng đồng thời cũng rất thiêng liêng, cao quý,toàn vẹn.

– Chất trữ tình – chính luận, hiện đại với thể thơ tự do.

c. Trách nhiệm của mỗi người đối với Đất nước “ Trong anh …..làm nên Đất nước muôn đời”:

– Đất nước có trong anh và em, trong bản thân của mỗi con người “ Trong anh và em…hài hòa nồng thắm/ Khi chúng ta…vẹn tròn to lớn”à Đất nước được cụ thể hóa bằng những hình ảnh thơ gợi cảm, là lời kêu gọi tinh thần đoàn kết dân tộc, là lời nhắc nhở về ý thức trách nhiệm của mỗi người đối với Đất nước.

– Đất nước là máu xương của mỗi người “Em ơi em Đất nước là máu xương của mình”àcách cảm, cách nghĩ mới mẻ của những nhà thơ thời kháng chiến:

Đứng bên này sông sao nhớ tiếc
Sao xót xa như rụng bàn tay

( Hoàng Cầm)

Tình yêu Tổ quốc là đỉnh núi bờ sông
Đến lúc tột cùng là dòng huyết chảy

(Xuân Diệu)

Ôi, Tổ quốc ta yêu như máu thịt…

(Chế Lan Viên)

– Vì vậy mỗi người đề có trách nhiệm đối với Đất nước” Phải biết gắn bó và san sẻ/Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở…”à Cách sử dụng từ ngữ gợi trách nhiệm cụ thể của mọi người đối với đất nước – xây dựng, bảo vệ đất nước, khi cần thiết phải biết hi sinh vì Tổ quốc.

– Điệp ngữ” phải biết”à Như một lời nhắn nhủ và cũng là lời tự nhủ.

– Nét đặc sắc về nghệ thuật của đoạn thơ:

+ Giọng thơ nhắn nhủ, tâm tình, tha thiết.

+ Ngôn ngữ bình dị, gần gũi như một lời trò chuyện.

+ Chất trữ tình chính luận đặc sắc.

→ Tác phẩm có tác động sâu sắc đến tư tưởng, tình cảm của thế hệ trẻ vùng đô thị bị tạm chiếm ở miền Nam.

2. Đất nước này là của ai?

a. Nhà thơ khẳng định “ Đất nước này là đất nước của nhân dân”. Đây là điểm quy tụ mọi cách nhìn về Đất nước trong phần này, là tư tưởng cốt lõi, cũng là đỉnh điểm của cảm xúc trữ tình của chương Đất nước. Đất nước này là đất nước của nhân dân vì:  Nhân dân là người làm nên những cảnh quan thiên nhiên của đất nước:

– Tác giả kể những tên núi, tên sông, địa danh: núi Vọng Phu, hòn Trống Mái, Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm… Tất cả đều xuất phát từ cuộc đời, từ số phận của nhân dân. Những cảnh quan thiên nhiên kì thú gắn liền với cuộc sống của nhân dân, nó chỉ trở thành thắng cảnh khi đã gắn liền với con người, được tiếp nhận, cảm thụ qua tâm hồn nhân dân và qua lịch sử của dân tộc.

– Nhà thơ có phát hiện mới mẻ, những danh lam thắng cảnh, di tích lịch sử trở nên thiêng liêng khi nó gắn với phẩm chất, tâm hồn, số phận của nhân dân: Gót ngựa Thánh Gióng đi qua….Chín mươi chín con voi…Những con rồng…Con cóc, con gà…Người học trò nghèo….. núi Bút, non Nghiêng”.

– Đoạn thơ quy nạp hàng loạt những hiện tượng cụ thể để đưa đến một khái quát sâu sắc :”Và ở đâu trên khắp…..hóa núi sông ta” Nhân dân đã hóa thân để làm nên Đất Nước.

–  Nhân dân là người làm nên lịch sử của đất nước, là người gìn giữ, bảo vệ đất nước, là người truyền lại cho các thế hệ đời sau truyền thống văn hóa của dân tộc:

+ Khi nhìn vào “bốn nghìn năm Đất Nước”, Nguyễn Khoa Điềm không ca ngợi những anh hùng hữu danh, không điểm lại các triều đại hưng thịnh mà nhấn mạnh đến những con người “giản dị và bình tâm. Không ai nhớ mặt đặt tên. Nhưng họ đã làm ra Đất Nước”.

+ Không ai khác, chính nhân dân đã gìn giữ và truyền lại cho các thế hệ mai sau mọi giá trị văn hóa vật chất và tinh thần của Đất Nước: hạt lúa (nghề trồng lúa nước), ngọn lửa “ Truyền lửa cho mỗi nhà….con cúi”, tiếng nói “ Truyền giọng điệu…tập nói”, bản sắc văn hóa các vùng miền “ Gánh theo tên xã tên làng…”…

+ Và nhân dân cũng là người:“Có ngoại xâm thì chống ngoại xâm. Có nội thù thì vùng lên đánh bại” để tạo dựng chủ quyền, xây dựng và bảo vệ Đất Nước để các thế hệ mai sau kế thừa và tiếp tục dựng xây, phát triển.

– Khi khẳng định “ Đất Nước là của nhân dân” nhà thơ ca ngợi, tự hào về những phẩm chất của dân tộc:

+ Khi khẳng định “Đất Nước của Nhân dân”, tác giả đã trở về với ngọn nguồn phong phú, đẹp đẽ của văn hóa, văn học dân gian mà tiêu biểu là ca dao “ Đất nước của ca dao thần thoại”. Ca dao chính là diện mạo tinh thần, là nơi lưu giữ đời sống tâm hồn tình cảm của nhân dân qua bao thế hệ. – Nguyễn Khoa Điềm đã chọn ra từ kho tàng thơ ca dân gian ba nét đẹp tiêu biểu nhất của tâm hồn Việt, của bản sắc văn hóa Đất Nước:

+ Say đắm trong tình yêu” Dạy anh biết yêu em từ thuở trong nôi” →Yêu em từ thuở trong nôi / Em nằm em hóc anh ngồi anh ru .(ca dao)

+ Quý trọng tình nghĩa “Biết quý công cầm vàng những ngày lặn lội” → Cầm vàng mà lội qua sông / Vàng rơi không tiếc tiếc công cầm vàng.( ca dao)

+ Kiên trì, bền bỉ trong đấu tranh” Biết trồng tre….dài lâu” → Thù này ắt hẳn còn lâu/ Trồng tre thành gậy gặp đâu đáng què. (ca dao)

b. Nghệ thuật đặc sắc của đoạn thơ:

– Đậm chất trữ tình – chính luận.

– Vận dụng sáng tạo ca dao, dân ca : không lặp lại nguyên văn mà chỉ sử dụng ý và hình ảnh của câu ca dao.

c. Liên hệ:

– Tư tưởng Đất nước của nhân dân đã manh nha từ văn học trung đại (Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Nguyễn Đình Chiểu…).

– Trong văn học hiện đại, đặc biệt là văn học cách mạng, tư tưởng ấy được kế thừa và phát huy trên tinh thần của con người trong thời đại mới. Những nhận thức về nhân dân và cảm hứng về đất nước mang tính dân chủ cao.

– Nguyễn Khoa Điềm đã đóng góp them một thành công trong dòng thơ về đất nước thời kháng chiến chống Mỹ, làm sâu sắc thêm nhận thức về nhân dân, về đất nước.

D. NHẬN XÉT CHUNG:

1. Về nội dung:

– Đoạn trích thể hiện cảm nghĩ mới mẻ của tác giả về đất nước qua những vẻ đẹp được phát hiện ở chiều sâu trên nhiều bình diện : lịch sử, địa lí, văn hóa,…

– Đóng góp riêng của đoạn trích là ở sự nhấn mạnh tư tưởng “ Đất Nước là của nhân dân”

2. Đặc sắc nghệ thuật:

– Thể thơ tự do như văn xuôi.

– Tách rời hai thành tố Đất và Nước.

– Vận dụng sáng tạo nhiều chât liệu lấy từ ca dao, dân ca, truyện cổ, huyền thoại…

– Dùng đại từ TA, EM, ANH linh hoạt, chuyển hóa vào nhau.

→ Chất trữ tình thiết tha, chất chính luân sâu sắc.

3. Nét đặc sắc trong cảm nhận của nhà thơ về “ĐẤT NƯỚC”.

– Cái nhìn tổng hợp, toàn vẹn, mang đậm tư tưởng nhân dân.

– Vận dụng văn học dân gian, văn hóa dân gianà Tạo ra không khí, giọng điệu, không gian nghệ thuật riêng của ca dao, thần thoại, truyền thuyết, văn hóa dân gianà nét đặc sắc thẩm mỹ của đoạn trích.

– Vẫn mới mẻ qua cách cảm nhận và tư duy hiện đại với hình thức thể thơ tự do.

III. Kết bài:

– Bài thơ thể hiện một cách cảm nhận mới về đất nước của tác giả, qua đó khơi dậy lòng yêu nước, tự hào về nền văn hóa đậm đà bản sắc Việt Nam.

– Nhà thơ ca ngợi truyền thống văn hóa, truyền thống yêu nước đánh giặc của dân tộc và khẳng định, bộc lộ tư tưởng Đất Nước của nhân dân.

Bút pháp khắc họa hình ảnh người lính kháng chiến chống Pháp trong bài thơ “Tây Tiến” (Quang Dũng) và “Việt Bắc” (Tố Hữu).

Hãy bình luận đầu tiên

Để lại một phản hồi

Thư điện tử của bạn sẽ không được hiện thị công khai.