ve-dep-nghe-thuat-doc-dao-trong-tap-tho-nhat-ki-trong-tu-cua-ho-chi-minh

Vẻ đẹp nghệ thuật độc đáo trong tập thơ Nhật kí trong tù của Hồ Chí Minh

Vẻ đẹp nghệ thuật độc đáo trong tập thơ “Nhật kí trong tù” của Hồ Chí Minh

1. Ngôn ngữ sắc sảo, thể loại đa dạng, giàu sức biểu đạt.

Mặc dù từ cuối thế kỉ XIX, ở Việt Nam đã xuất hiện một số sáng tác văn xuôi bằng chữ Quốc ngữ và sang những năm đầu thế kỉ XX thì chữ Quốc ngữ đã được sử dụng rộng rãi. Đến những năm của thập niên 20 của thế kỉ XX, chữ Quốc ngữ đóng vai trò tích cực trong đời sống văn học từ báo chí đến dịch thuật và sáng tác. Trong khi đó, tập thơ Nhật ký trong tù của Hồ Chí Minh được viết từ mùa thu năm 1942 đến mùa thu 1943 lại viết bằng chữ Hán. Toàn bộ tập thơ có 134 bài thơ được viết bằng chữ Hán. Điều này cũng không có gì là lạ. Bởi vì Hồ Chí Minh được sinh ra trong một gia đình nhà Nho, Người được học chữ Hán từ rất nhỏ và được lớn lên trong một môi trường văn hóa chịu nhiều ảnh hưởng của Hán học. Vì thế Hồ Chí Minh rất thông thạo chữ Hán, rất giỏi chữ Hán. Nên việc dùng một thứ ngôn ngữ mình rất thông thạo để sáng tác là điều không có gì là khó hiểu.

Mặt khác, Hồ Chí Minh viết Nhật ký trong tù trong hoàn cảnh đang bị giam cầm trong nhà tù Tưởng Giới Thạch ở Trung Quốc nên việc sử dụng chữ Hán, một thứ chữ hàm súc về ý nghĩa để sáng tác thơ là điều dễ hiểu.

Khi nhận xét về một trong những biểu hiện nổi bật về ngôn ngữ của văn chương thời trung đại, tác giả Nguyễn Đăng Điệp có viết: “Ngôn ngữ đậm chất ước lệ. Nó hướng tới việc bộc lộ những vẻ đẹp cao nhã. Ngôn ngữ trang trọng mực thước được coi là chuẩn mực văn học thời đại này. Màu sắc Hán và điển tích cổ rất đậm” (Giọng điệu trong thơ trữ tình – trang 18). Trong Nhật ký trong tù, không khí cổ kính, trang trọng lan tỏa bao trùm cả tác phẩm là nhờ ở việc sử dụng hệ thống từ Hán Việt với tần số rất cao.

Về mặt thể loại, tất cả 134 bài thơ trong Nhật ký trong tù được sáng tác theo thể thơ Đường luật gồm thể thơ thất ngôn tứ tuyệt, ngũ ngôn, bát cú, thơ cổ phong. Đây là những thể thơ có yêu cầu niêm, luật, nghệ thuật đối, bố cục rất chặt chẽ. Những thể thơ đó là thành quả của quá trình bền bỉ tìm tòi trong suốt nhiều thế kỉ của văn học Trung Quốc. Và khi du nhập vào Việt Nam những thể thơ đó cũng nhanh chóng trở thành chuẩn mực trong sáng tác văn học trung đại trong suốt mười thế kỉ phát triển.

Đến với Nhật ký trong tù – một tập nhật ký được ghi bằng thơ, nghĩa là giá trị của một tập nhật ký ngang hàng với giá trị một tập thơ. Việc sử dụng các thể thơ Đường luật có ý nghĩa rất tích cực, thơ có niêm, luật, đối, bố cục chặt chẽ sẽ có tác dụng gạn lọc loại bỏ khỏi tác phẩm những cái gì chưa thật sự là thơ.

Đọc Nhật ký trong tù, bạn đọc sẽ thấy ở những bài có nội dung lớn, cần viết nhiều hơn khuôn khổ quy định, tác giả chia thành hai bài đứng chung dưới một đầu đề (ví dụ: Tảo giải). Nếu tách riêng ra, mỗi bài có thể tồn tại như một bài thơ độc lập nhưng cùng chung một đầu đề, chúng bổ sung ý nghĩa cho nhau.

Nhật ký trong tù cũng có hai bài thơ phá thể. Bài thứ nhất là Cháu bé trong nhà lao Tân Dương, câu đầu chỉ có ba chữ chứ không đúng bảy chữ theo quy định của thể thơ.

Phiên âm:

Oa…! Oa…! Oa…!
Gia pha đương bình cứu quốc gia,
Sở dĩ ngã niêm tài bán tuế,
Yến đáo ngục trung căn trước ma.

Dịch thơ:

Cháu bé trong nhà lao Tân Dương

Oa…! Oa…! Oa…!
Cha sợ sung quân cứu nước nhà;
Nên nỗi thân em vừa nửa tuổi
Phải theo mẹ đến ở nhà pha.

Bài thơ thứ hai:

Phiên âm:

Giải vãng Vũ Minh

Kí giải đáo Nam Ninh,
Hựu giải phản Vũ Minh;
Loan loan, khúc khúc giải,
Đồ diên ngã hành trình.
Bất bình!

Dịch thơ:

Giải đi Vũ Minh
Đã giải đến Nam Ninh.
Lại giải về Vũ Minh;
Giải đi quanh quẹo mãi,
Kéo dài cả hành trình.
Bất bình!

Bài thơ có năm câu, bốn câu đầu tạo nên một bài thơ tứ tuyệt. “Bất bình” đứng riêng tạo ra một câu cảm thán đặc biệt. Đó là hai bài thơ phá cách biểu hiện của yếu tố phản thơ Đường đầy sáng tạo của tác giả.

2. Thi liệu mang vẻ đẹp của Đường thi.

Khi tiến hành khảo sát tập thơ Nhật ký trong tù trên phương diện thi liệu (Đường thi), chúng tôi thấy nổi bật lên ở hai điểm đó là tứ thơ và hình ảnh thơ.

Thời Đường, thi nhân Vương Chi Hoán có bài Đăng Quán Tước lâu như sau:

Đăng Quán Tước lâu

Bạch nhật y sơn tận,
Hoàng Hà nhập hải lưu;
Dục cùng thiên lí mục,
Cánh thướng nhất tằng lâu.

Trong Nhật ký trong tù, Hồ Chí Minh có bài Nạn hữu xuy địch (Người bạn tù thổi sáo)

Phiên âm:

Nạn hữu xuy địch

Ngục trung hốt thính tư hương khúc,
Thanh chuyển thê lương điệu chuyển sầu;
Thiên lý quan hà vô hạn cảm,
Khuê nhân cách thướng nhất tằng lâu.

Dịch thơ:

Người bạn tù thổi sáo

Bỗng nghe trong ngục sáo vi vu,
Khúc nhạc tình quê chuyển điệu sầu;
Muôn dặm quan hà khôn xiết nỗi,
Lên lầu ai đó đứng trông nhau.

Hình ảnh con người trong tư thế đăng cao là hình ảnh quen thuộc trong thơ Đường (Đăng U Chân đài ca – của tác giả Trần Tử Ngang, Đăng cao – của Đỗ Phủ…). Có lẽ tư thế đăng cao thể hiện được khí thế vươn lên của con người, vươn lên để mở rộng chân trời tri thức, lên cao để hòa nhập với thiên địa vô cùng. Có điều khác ở chỗ, tứ thơ “Cánh thướng nhất tằng lâu” của Hồ Chí Minh bắt nguồn từ chuyện nghe một người bạn tù thổi sáo. Ngay nhan đề của bài thơ đã là sự bay bổng vượt lên trên sự tăm tối, nhơ bẩn ở chốn lao tù. Ở đó có một tâm hồn nhạy cảm với âm thanh trong lành và da diết của tiếng sáo, của sự đồng cảm giữa những con người cùng cảnh ngộ – khúc nhạc tình quê chuyển điệu sầu, của sự đồng điệu tâm hồn của cả người nghe sáo lẫn người thổi sáo. Từ âm thanh tiếng sáo nhớ quê của anh bạn tù, tác giả dẫn người đọc đến sự liên tưởng đến cảnh sinh li tử biệt giữa vợ chồng người bạn tù, liên tưởng đến sự “quan san cách trở” của chính thi nhân với quê hương và bạn bè. Đặc biệt là ở câu cuối xuất hiện hình ảnh người thiếu phụ nơi quê nhà xa xôi bước lên lầu cao – lên lầu ai đó ngóng trông nhau. Hình ảnh này gợi ta nhớ đến Khuê oán của Vương Xương Linh:

Khuê oán

Khuê trung thiếu phụ bất tri sầu,
Xuân nhật ngưng trang thướng thúy lâu;
Hốt kiến bạch đầu dương liễu sắc,
Hối gia phu kiến mịch phong hầu.

Giữa tập thơ Nhật ký trong tù của Hồ Chí Minh và Thơ Đường của nhiều tác giả văn học Trung Quốc có sự gặp gỡ của nhiều hình ảnh thơ như:

+ Hình ảnh dòng sông:

“Tình xuyên lịch lịch Hán Dương Thụ” (Thôi Hiệu – Hoàng Hạc lâu) và “Giang tâm như kính tịnh vô trần” (Hồ Chí Minh – Tân xuất ngục học đăng sơn)

+ Hình ảnh ánh trăng:

“Ngẩng đầu nhìn trăng sáng/ Cúi đầu nhớ cố hương” (Lý Bạch – Tĩnh dạ tư) và “Quần tinh ủng nguyệt thướng thu sang” (Hồ Chí Minh – Tảo giải)

+ Hình ảnh đám mây, cánh chim:

“Hoàng Hạc nhất khứ bất phục phản/ Bạch vân thiên tải không du du” (Thôi Hiệu – Hoàng Hạc lâu) và “Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ/ Cô vân mạn mạn độ thiên không” (Hồ Chí Minh – Mộ)

Và rất nhiều hình ảnh nữa mà trong giới hạn của chuyên đề người viết chưa có điều kiện nêu hết ra ở đây. Dẫu là tiếp thu thi liệu Đường thi nhưng chúng ta vẫn thấy đến với thơ Hồ Chí Minh những hình ảnh thơ ấy mang dáng dấp nỗi niềm của hồn Việt. Cùng là hình ảnh cánh chim nhưng trong Hoàng hạc lâu của Thôi Hiệu ta hình dung ra hình ảnh cánh chim bay vào chốn vô cùng để rồi mất hút trong hư không. Còn ở thơ Hồ Chí Minh cánh chim có tâm trạng, có đường bay cụ thể, có mục đích để bay về. Nó là một biểu hiện của sự sống rất đỗi bình thường và giản dị nhưng không thiếu được trên thế giới này. Việc lưu luyến nhìn theo cánh chim bay giữa trời chiều còn thể hiện được tâm hồn của một con người luôn biết nâng niu trìu mến đối với sự sống, biết rung động trước những buồn vui mưa nắng của cuộc đời.

Việc tiếp thu thi liệu( Đường thi) còn thể hiện ở điểm thứ hai nữa đó là việc xây dựng không gian nghệ thuật trong thơ phảng phất không gian thơ Đường.

Liễu Tông Nguyên có bài thơ Giang Tuyết:

Phiên âm:

Giang Tuyết

Thiên sơn điểu phi tuyệt,
Vạn kính nhân tông duyệt;
Cô chu thôi lập ông,
Độc điếu hàn giang tuyết.

Dịch thơ:

Sông tuyết

Nghìn non bóng chim tắt,
Muôn nẻo, dấu người không;
Thuyền đơn, ông tơi nón,
Một mình câu tuyết sông.

Ở Nhật ký trong tù, Hồ Chí Minh có bài: Mộ

Mộ

Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ,
Cô vân mạn mạn độ thiên không;
Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc,
Bao túc ma hoàn lô dĩ hồng.

Ở cả hai bài thơ, cái tôi trữ tình gần như hòa lẫn vào ngoại cảnh. Nhân vật trữ tình dường như lánh hẳn sang một bên để ngoại cảnh phơi bày mọi dáng vẻ của nó. Chỉ có khác nhau ở chỗ, không gian vũ trụ trong bài thơ Giang Tuyết lạnh lẽo hơn, cô quạnh hơn phù hợp với hình ảnh một con người đơn độc, chờ thời. Còn trong bài thơ Mộ của Hồ Chí Minh không gian ấm áp hơn, có sinh khí hơn điều này phù hợp với hình ảnh con người miệt mài lao động để duy trì sự sống.

Thử so sánh hai bài Hoàng hôn của Hồ Chí Minh và Phong kiều dạ bạc của Trương Kế.

Hoàng hôn

Phiên âm:

Phong như lợi kiến ma sơn thạch,
Hàn tự tiên phong thích thụ chu;
Viễn tự chung thanh thôi khách bộ,
Mục đồng xuy địch dẫn ngưu quy.

Dịch thơ:

Hoàng hôn

Gió sắc tựa gươm mài đá núi;
Rét như dùi nhọn chích cành cây;
Chùa xa chuông giục người nhanh bước
Trẻ dẫn trâu về tiếng sáo bay.

Phong kiều dạ bạc

Phiên âm:

Nguyệt lạc ô đề sương mãn thiên,
Giang phong ngư hỏa đối sầu miên;
Cô Tô thành ngoại hàn san tự,
Dạ bán chu thanh đáo khách thuyền.

Dịch thơ:

Trăng tà chiếc quạ kêu sương,
Lửa chài ông bến sầu vương giấc hồ;
Thuyền ai đậu bến Cô Tô,
Nửa đêm nghe tiếng chuông chùa Hàn San.

Cả hai bài thơ đều có những chi tiết: âm thanh tiếng chuông chùa, tiếng sáo mục đồng, gió. Nhưng thi liệu không chỉ dừng lại ở những hình ảnh quen thuộc đó mà gợi lên cho người đọc sự liên tưởng đến hình ảnh tù nhân bị trói giải đi trong buổi chiều tà – chùa xa chuông giục người nhanh bước được gợi lên từ hình ảnh người lữ thứ trong thơ của Bà Huyện Thanh Quan:

Trời chiều bảng lảng bóng hoàng hôn,
Tiếng ốc xa đưa vẳng trống dồn.
Gác mái, ngư ông về viễn phố,
Gõ sừng, mục tử lại cô thôn.
Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi,
Dặm liễu sương sa khách bước dồn.
Kẻ chốn chương đài, người lữ thứ,
Lấy ai mà kể nỗi hàn ôn?

(Chiều hôm nhớ nhà – Bà Huyện Thanh Quan)

Mặt khác, vẻ đẹp cổ điển trong bài thơ Hoàng hôn của Hồ Chí Minh còn được thể hiện ở tính chất “thi trung hữu họa” của thơ cổ điển phương Đông. Bốn câu, hai tám chữ trong bài thơ đủ để gợi lên một bức tranh sinh động với gió chém vào đá núi, với rét cứa vào cành cây, với người khách bộ hành bước trên đường, với mục đồng vắt vẻo trên lưng trâu trong bản hòa tấu của âm nhạc: tiếng gió vút, tiếng chuông chùa ngân nga, tiếng sáo véo von. Cái thoáng nhẹ mà sâu lắng của buổi chiều hoàng hôn lại có sức ngân vang, lan tỏa trong lòng người đọc.

Cả Hồ Chí Minh trong Nhật ký trong tù và Đỗ Mục thời Đường đều có bài thơ có tên đề giống nhau.

Thanh Minh (Hồ Chí Minh)

Phiên âm:

Thanh minh thời tiết vũ phân phân,
Lung lý tù nhân dục đoạn hồn;
Tá vấn tự do hà xứ hữu?
Vệ binh dao chỉ biện công môn.

Dịch thơ:

Thanh minh lất phất mưa phùn,
Tù nhân nghe thấm nỗi buồn xót xa;
Tự do thử hỏi là đâu?
Lính canh trỏ lối thẳng ra công đường

Thanh minh (Đỗ Mục)

Phiên âm:

Thanh minh thời tiết vũ phân phân,
Lộ thương hành nhân dục đoạn hồn;
Tá vấn hữu gia hà hữu xứ?
Mục đồng dao chỉ Hạnh Hoa thôn.

Dịch thơ:

Thanh minh lất phất mưa phùn,
Khách đi đường thấm nỗi buồn xót xa;
Hỏi thăm quán rượu là đâu?
Mục đồng trỏ lối: Hạnh Hoa thôn ngoài.

Không những tên bài thơ giống nhau mà cả không gian mưa bụi cũng có, cái se lạnh của thời tiết cũng có, và cả cách cấu tứ cũng giống nhau. Nhưng xét thật kĩ thì có ngoại cảnh giống nhau thôi còn tâm cảnh thì lại khác. Cũng trên nền không gian đó một người muốn tìm nơi bán rượu để sưởi ấm trong tiết trời lạnh giá, còn người kia thì lại khao khát cháy bỏng cuộc sống tự do.

Và còn rất nhiều thi liệu (Đường thi) trong Nhật ký trong tù của Hồ Chí Minh nữa nhưng chúng tôi muốn dùng hai bài thơ sau để khép lại phần này.

Phiên âm :

Tương giang (Lương Ý Nương)

Quân tại Tương giang đầu,
Thiếp tại Tương giang vĩ;
Tương tư bất tương kiến,
Đọc ẩm tương giang thủy.

Dịch thơ:

Chàng ở đầu sông Tương,
Thiếp ở cuối sông Tương;
Nhớ nhau không gặp mặt,
Cùng uống nước sông Tương.

Phiên âm:

Nạn hữu chi thê thám giam (Hồ Chí Minh)

Quân tại thiết song lý,
Thiếp tại thiết song tiền;
Tương cận tại chỉ xích,
Tương cách tự thiên nguyên.

Dịch thơ:

Anh ở trong song sắt
Em ở ngoài song sắt;
Gần nhau trong tấc gang,
Mà cách nhau trời vực.

Cách cấu tứ bài thơ giống nhau, giá trị tư tưởng của hai bài thơ cũng giống nhau – đó là sự thông cảm, chia sẻ với cảnh ngộ bị chia cách của những người yêu nhau. Nhưng khác nhau ở chỗ Tương Giang của Lương Ý Nương không nói đến nguyên nhân của sự xa cách, còn bài thơ của Hồ Chí Minh nguyên nhân hiện lên qua hình ảnh cánh cửa sắt.

Từ những điều đã viết ở trên, có thể giúp cho chúng ta nhận xét rằng trong Nhật ký trong tù, tác giả Hồ Chí Minh đã cố ý ghi chép sự việc diễn ra trong đời sống hằng ngày bằng những phương tiện đặc trưng của thi ca cổ điển. Việc sử dụng thi liệu (Đương thi) vào trong Nhật ký trong tù có ý nghĩa rất tích cực. Nó giúp cho người cầm bút gạn lọc được những xù xì, góc cạnh xô bồ tràn vào trong tác phẩm và mặt khác nó cũng giúp cho nhiều hình ảnh, nhiều chi tiết trở nên gợi cảm, có giá trị nghệ thuật cao hơn.

3. Nghệ thuật đối đa dạng, cân xứng mẫu mực.

Như đã khẳng định điều làm nên nét đẹp riêng của tập thơ Nhật ký trong tù là vẻ đẹp cổ điển sang trọng bát ngát như thơ Đường thơ Tống. Điều này càng kỳ diệu hơn nữa khi ta nhớ năm 1941 cũng là năm nhà phê bình Hoài Thanh viết Thi Nhân Việt Nam, tập sách được xem là bảng tổng kết thành tựu của một nền thi ca mới. Cùng trong thời gian này cội nguồn thi ca cổ điển kia lần nữa lại trổ đóa hoa muộn mà hương sắc lạ lùng đủ gợi lại cả một thời xuân sắc mãn khai đó là Nhật ký trong tù.

Riêng trong vẻ đẹp của thi ca cổ điển, phép đối giữ vai trò điều phối giữa tình và ý, làm thơ không chỉ nặng về tình mà còn sâu sắc trong ý tứ. Chính vì thế mà mọi uyên bác thâm sâu của thơ Đường hầu như đều được triển khai trong các vế đối, và như chắc chắn rằng tên gọi Thực – Luận của các cặp đối của thể thất ngôn bát cú có mối liên hệ chặt chẽ và nhân quả trong đặc tính thiên về ý tứ của nó. Cũng do đó mà phép đối trong thơ ca cổ điển cũng là phép thử chắc chắn tài năng của các thi nhân, hoặc vượt qua thử thách để vươn lên hàng tầm cỡ, hoặc lẩn khuất vào trong muôn ngàn nỗi nhàn nhạt vô vị của bạt ngàn câu chữ.

Nói vậy để ta có thể hình dung hết vẻ đẹp uyên bác của Nhật ký trong tù qua phép đối chắc tay của tác giả Hồ Chí Minh.

Nhật ký trong tù có hai bài được làm theo thể thất ngôn bát cú, còn lại làm theo thể ngũ ngôn, cổ thi, thể thất ngôn tứ tuyệt chiếm tỉ lệ cao nhất. Riêng trong tứ tuyệt do đặc tính cấu trúc nên có thể là không có đối (thể kết hợp hai câu đầu và hai câu cuối của thể bát cú), có thể là đối ở từng cặp câu (loại kết hợp phần thực và phần luận của thể bát cú), có thể đối hai câu đầu (loại kết hợp hai cặp câu đầu của thể bát cú), có thể đối hai câu sau (loại kết hợp hai cặp câu cuối của thể bát cú). Nhật ký trong tù sử dụng đa dạng các thể thất ngôn tứ tuyệt kể trên. Phép đối cũng đa dạng từ chính đối (tương hợp) đến phản đối (tương phản); từ công đối (đối chỉnh) đến khoan đối (đối không chỉnh), ngôn đối (đối thành ngữ) và sự đối (đối kinh sách), tá đối (đối hình đối tiếng).

Cái nhìn khái quát này cung cấp một kết luận rằng tác giả Nhật ký trong tù rất am hiểu luật thi cổ điển và vận dụng một cách thoải mái thi luật hiểm hóc này trong thơ của mình.

Nếu cái nhìn thể loại gợi nên ý tưởng phần hình thì cảm nhận vẻ đẹp của phép đối ở Nhật ký trong tù qua những biểu hiện cụ thể đem đến cho người đọc một tình cảm vừa yêu mến vừa ngưỡng mộ.

Đề từ của tập thơ là một bài thơ tròn trịa của thể ngũ ngôn:

Phiên âm:

Thân thể tại ngục trung,
Tinh thần tại ngục ngoại;
Dục thành đại sự nghiệp,
Tinh thần cánh yếu đại.

Dịch thơ:

Thân thể ở trong lao,
Tinh thần ở ngoài lao;
Muốn nên sự nghiệp lớn,
Tinh thần càng phải cao.

Cặp hai câu đầu sử dụng phản đối để nêu lên một nghịch cảnh, sắc gọn như những nhát cắt hiện thực nghiệt ngã, cặp hai câu sau dụng chính đối như thừa long nâng đỡ tinh thần bay lên cõi lạ, vững trong tư thế đứng trên ngục thất vượt ngoài ngục trung. Lối vận dụng này lần nữa rất sắc sảo trong bài Nhập Tĩnh Tây huyện ngục.

Bài Học dịch kỳ II bàn từ kỳ thế bỗng chuyển sang sự thế một cách thâm trầm cũng là công năng của phép chỉnh đối:

Thác lộ, song xa dã một dụng,
Phùng thì, nhất tốt khả thành công.

Lưu thủy đối ý tứ nâng đỡ lẫn nhau, bay bướm tài hoa trong vịnh cảnh (là nét đặc trưng trong chùm ba bài thơ Thu của Tam Nguyên Yên Đỗ), lại khoan thai đĩnh đạc khi dụng tình. Tham lĩnh ý tứ tác giả Nhật ký trong tù khi vận dụng thể loại này:

Nguyệt chiếu đình tiêu tăng lãnh khí,
Khuy song Bắc đẩu dĩ hoành thiên.

(Dạ lãnh)

Không gian mở rộng bát ngát mênh mông, một cuộc vượt ngục tinh thần thật ngoạn mục được thực hiện nhờ nghệ thuật đối!

Tuy thị hiềm nghi gián điệp phạm,
Nghi dung khước tượng cựu công khanh.

(Vãng Nam Ninh)

Phong thái ung dung đĩnh đạc của con người đùa cợt với gian khổ, ngạo nghễ với lao lung đã đến hàng thượng thặng, một công lực tu vi thượng thừa.

Và đây, tâm- hình- tiếng hòa thành khối lòng thống thiết là hiệu quả của tá đối:

Ngoại cảm Hoa thiên tân lãnh nhiệt,
Nội thương Việt địa cựu sơn hà;

(Bệnh trọng)

Tâm hoài cố quốc thiên đường lộ,
Mộng nhiễu tâm sầu, vạn lũ ti;

(Thu dạ)

Một đặc điểm của thi ca bác học được coi trọng ở trường quy là phép đối sự, các điển tích điển cố được sử dụng dễ dàng, lộ ra một tri thức mênh mông, đồng thời cũng minh định tâm thế của người làm thơ cao hạ trung gian … Người đọc cảm nhận được tấm lòng ngay thẳng trong trắng lại sắt son như nhất của người trượng phu quân tử khi ngẫm về chân quân tử:

Thụ sao xảo họa Trương Phi tượng,
Xích nhật trường minh Quan Vũ tâm;

(Tức cảnh)

Nghệ thuật thi ca cổ điển là một tổng hòa của những phép thử nghiêm cẩn đòi hỏi sự tinh tế cẩn trọng của người làm thơ. Tuy nhiên, sức sống muôn đời của thi ca vẫn cứ là một tự do tuyệt đối, sự tự do khi đã làm chủ được mình, làm chủ được phương tiện thi ca. Trong phép đối cũng cùng một nguyên lý ấy. Đỗ Phủ xứng danh thi thánh với hai câu tuyệt bút:

Lưỡng cá hoàng ly minh thúy liễu
Nhất hàng bạch lộ thướng thanh thiên

(Tuyệt cú)

Cặp đối chỉnh mà thoáng đến trong vắt. Thôi Hiệu lại tự tôn độc nhất như cánh hạc vàng độc lai độc vãng bằng cặp đối không chỉnh cũng đến sững sờ:

Hoàng hạc nhất khứ bất phục phản
Bạch vân thiên tải không du du.

(Hoàng hạc lâu)

Thế mới biết việc đem các vế bằng trắc làm công cụ để đo cái tài thật khác gì việc làm ngu ngơ của mấy gã thầy bói xem voi.

Luận về phép đối của thơ ca cổ điển, tôi cứ liên tưởng đến huyền thoại về Thập bát La Hán trận của phái Thiếu Lâm: Cao đồ Thiếu Lâm Tự khi muốn hạ sơn thì phải tự mình vượt qua trận đồ do thập bát La Hán án ngữ. Có những cao đồ vượt qua để hoằng dương võ thuật Thiếu Lâm, cũng có những môn đồ kém độ tu vi đã phải bị vây khổn giữa trận đồ đến khốn đốn. Và trong trận đồ của thi ca cổ điển, bao nhiêu môn đồ bị khổn nguy, được mấy cao đồ vượt trận đồ? Nền văn học Việt Nam qua mười thế kỷ với thi nhân danh tiếng đếm trên đầu ngón tay là một cảnh báo nghiêm khắc. Và cái tên Hồ Chí Minh bằng tập Nhật ký trong tù với địa vị chắc chắn trên lộ trình tiếp nối của thơ ca cổ điển là một dấu lạ phép kì của thi ca Việt. Và nền thi ca cổ điển Việt Nam như đã yên lòng khi dừng lại ở tên tuổi cuối cùng này. Nên chăng? Hay tiếc thay?

4. Bút pháp chấm phá, tả cảnh ngụ tình tài tình, điêu luyện.

Mỗi một thể loại hay trường phái văn học, đều có phương pháp sáng tác riêng. Và chính điều này sẽ mang lại nét đặc trưng của nó. Thơ Đường là một thành tựu đặc sắc của văn học Trung Quốc nói riêng và của nhân loại nói chung lại càng không thể thiếu điều đó. Nói đến nghệ thuật thơ Đường, ngoài nghệ thuật đối như đã trình bày ở trên, chúng ta không thể không nói đến bút pháp chấm phá, tả cảnh ngụ tình. Bút pháp chấm phá là một đặc điểm thi pháp của thơ Đường. Hồ Chí Minh đã sử dụng bút pháp này trong tập thơ Nhật ký trong tù. Có điều tác giả đã sử dụng một cách hết sức linh hoạt, sáng tạo nên tránh được sự sáo mòn. Bút pháp chấm phá, tả cảnh ngụ tình đã góp phần thể hiện được bức chân dung tinh thần tự họa của con người Hồ Chí Minh và cả tái hiện lại được những bất công ngang trái của chế độ nhà tù ở Quảng Tây Trung Quốc dưới thời Tưởng Giới Thạch.

Với bút pháp này, cảnh là cái được mượn để cốt nói lên suy nghĩ tình cảm của nhân vật trữ tình. Hay nói cách khác cảnh chỉ là cái cớ, còn tình mới là đích đến cuối cùng. Trong rất nhiều bài thơ được Hồ Chí Minh sử dụng bút pháp này, chúng tôi chọn hai tác phẩm sau:

Phiên âm:

Tân xuất ngục học đăng sơn

Vân ủng trùng sơn, sơn ủng vân,
Giang tâm như kính tịnh vô trần;
Bồi hồi độc bộ Tây Phong lĩnh,
Dao vọng Nam thiên ức cố nhân.

Dịch thơ:

Núi ấp ôm mây, mây ấp núi,
Lòng sông gương sáng, bụi không mờ
Bồi hồi dạo bước Tây Phong lĩnh,
Trông lại trời Nam, nhớ bạn xưa.

Cũng giống như thơ Đường, Hồ Chí Minh không tả mà chỉ gợi. Hai nét trong bút pháp hội họa truyền thống phương Đông trong tranh thủy mặc đã được tác giả sử dụng rất thành thục vào trong bài thơ của mình đó là: một nét vẽ mây và núi gợi lên vẻ đẹp hùng vĩ của núi non, một nét vẽ dòng sông trong vắt chảy dưới chân núi phản chiếu ánh mặt trời như một tấm gương phẳng sáng trong. Chỉ cần có hai nét chấm phá thôi mà bao gồm cả cao sơn lưu thủy. Nhân vật trữ tình như hòa lẫn vào bức tranh thiên nhiên hùng vĩ với núi ôm mây mây ấp núi soi bóng xuống dòng sông trong vắt phẳng lặng. Nhân vật mang cốt cách của một nhà hiền triết, nhìn cảnh vật từ trên cao, từ xa, bao quát cả càn khôn vào trong tầm mắt của mình. Cả một vùng bao la, bát ngát được phác họa rất có hồn chỉ qua hai nét chấm phá ấy. Nếu dừng lạ chỗ ấy thôi thì chưa trọn vẹn.

Một bức tranh sơn thủy đẹp không thể thiếu cái hồn của cảnh vật! Bài thơ Mới ra tù tập leo núi có cả điều đó nữa. Hồ Chí Minh rất tài tình khi thả hồn mình vào bức tranh qua những hình ảnh thơ giàu giả trị biểu cảm và hình ảnh thơ mang ý nghĩa tượng trưng. Ngay câu thơ đầu có hai hình ảnh: “núi ôm mây” và “mây ấp núi”, hình ảnh thơ gợi người đọc liên tưởng tới niềm khao khát về tình cảm bạn bè, đồng chí. Đến câu thơ thứ hai, hình ảnh “dòng sông” mang một ý nghĩa tượng trung. Dòng sông trong suốt như gương không chút bụi mờ hay chính là tâm hồn nhà thơ trải qua bao tháng ngày bị giam cầm, đày ải mà vẫn trắng trong, không vẩn bụi? Đến câu cuối nỗi nhớ bạn hay là nỗi nhớ nước luôn canh cánh bên lòng?

Nhờ bút pháp chấm phá, tả cảnh ngụ tình ấy nên bài thơ dẫu kết thúc rồi vẫn không khép lại mà mở ra một trường liên tưởng ở người đọc. Thiết nghĩ thành công ở bất kì tác phẩm nghệ thuật nào xét đến cùng đều phải đạt đến chỗ đó.

Trong bài Nạn hữu xuy địch (Người bạn tù thổi sáo), Hồ Chí Minh một lần nữa khiến chúng ta kinh ngạc:

Phiên âm:

Ngục trung hốt thính tư hương khúc,
Thanh chuyển thê lương điệu chuyển sầu;
Thiên lý quan hà vô hạn cảm,
Khuê nhân cách thướng nhất tằng lâu.

Dịch thơ:

Bỗng nghe trong ngục sáo vi vu,
Khúc nhạc tình quê chuyển điệu sầu;
Muôn dặm quan hà khôn xiết nỗi,
Lên lầu ai đó đứng trông nhau.

Đối với tác phẩm này, chùng tôi muốn nhấn mạnh đến bút pháp tả cảnh ngụ tình đặc biệt tập trung ở câu cuối: “Khuê nhân cánh thướng nhất tằng lâu”.

Việc câu thơ này ghép từ một câu trong bài Lên lầu quán tước để nói cái chót vót của lầu cao. Câu thơ của Vương Chi Hoán được đặt vào trong không gian nghệ thuật của bài Người bạn tù thổi sáo góp phần làm giàu thêm chất trữ tình cho tác phẩm. Câu thơ nói lên cảnh tượng của một con người đang bước chân leo thêm một tầng lầu. Một tầng lầu nữa, có nghĩa là trước đó đã lên một tầng, hoặc đã mấy tầng rồi mà vẫn chưa đủ nên bước chân leo thêm một tầng lầu nữa. Có bao nhiêu tầng lầu là có bấy nhiêu thương nhớ. Đây không chỉ có cái cao của tầng lầu, cái mênh mông của trời đất mà có cả cái mênh mông của lòng người.

Bài thơ kết thúc với bước chân dừng lại ở tầng lầu, như dừng lại ở bên bờ vực thẳm, vực thẳm của sự im lặng đến đáng sợ. Bao nhiêu người phụ nữ hóa đá cũng đều ở đầu non, dưới bờ vực thẳm và trước mặt là vời vợi không gian thương nhớ, đợi chờ. Người phụ nữ trong bài thơ chưa hóa đá nhưng đã bước lên lầu cao như dáng một tượng vọng phu. Có lẽ ý thơ không dừng lại ở đó. Bài thơ bộc bạch dùm nỗi riêng tư của vợ chồng người bạn tù với tấm lòng thương cảm vô bờ. Nhưng âm thầm vận vào mình, bài thơ thêm cái đằm thắm sâu xa của Bác. Người thương nhà, Bác nhớ nước. Tình quê, tình vợ chồng, nỗi nước, nỗi nhà đan quyện vào nhau, xoắn xuýt lấy nhau, chồng chất lên nhau.

Bài thơ giống thơ Đường ở ngôn ngữ, ở thể loại, ở thi liệu, ở bút pháp tả cảnh ngụ tình. Đặc biệt bút pháp tả cảnh ngụ tình giúp cho bài thơ có điệu ngân vang, lan tỏa rất lớn. Điệu ngân vang bắt đầu từ khúc tư hương và sau là cái cảm giác không gian, cái thương nhớ ngóng trông dằng dặc, mênh mông. Câu cuối khép bài thơ lại mà lòng người lại mở ra vô tận, vô biên. Câu thơ hay ở chỗ lời xưa được vận dụng một cách tự nhiên nhưng ý nay cũng tự nhiên mà được hình thành. Truyền thống và hiện đại xuyên thấm vào nhau làm nên vẻ đẹp của thi phẩm

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Lên đầu trang