Phân tích đoạn trích Huyện Trìa xử án (Trích Nghêu, Sò, Ốc, Hến)

phan-tich-doan-trich-huyen-tria-xu-an

Phân tích đoạn trích Huyện Trìa xử án (Trích Nghêu, Sò, Ốc, Hến)

I. Mở bài:

Nghêu, Sò, Ốc, Hến thuộc loại tuồng đồ (tuồng hài), châm biếm sâu sắc nhiều thói hư tật xấu trong xã hội và lật tẩy bộ mặt xấu xa của một số kẻ thuộc bộ máy cai trị ở địa phương trong xã hội xưa. Đây là tác phẩm tiêu biểu trong di sản tuồng truyền thống và là vở tuồng đồ thuộc loại đặc sắc nhất.

–  Đoạn trích Huyện Trìa xử án trích từ vở tuồng Nghêu, Sò, Ốc, Hến, là lớp XIII của vở tuồng, nhan đề do người biên soạn đặt.

II. Thân bài:

– Đoạn trích này kể lại một cảnh làm việc nơi huyện đường, xoay quanh cuộc kiện tụng liên quan đến vụ kiện giữa Thị Hến và vợ chồng Trùm Sò. Vợ chồng trùm sò kiện Thị Hến lên quan trên vì nghi ngờ ăn cắp đồ của gia đình mình. Tuy nhiên Huyện Trìa quan xử án lại là tên quan mê tiền bạc, sắc đẹp, nên Thị Hến đã thắng kiện.

1.  Hình ảnh các nhân vật.

a. Nhân vật huyện Trìa.

– Chức vụ: tri huyện (chức quan nội hạt). Hắn ta có thú vui hoa nguyệt, giữ chức vụ phán xử nhưng ngày ngày rảnh rỗi, không có việc gì làm.

– Gia cảnh: đủ đầy nhưng gia đình không êm ấm.

– Tính cách:

+ Hèn nhát, yếu đuối.

+ Tham lam: đề cao đồng tiền, “thẳng tay một mực ăn tiền”.

+ Hống hách: từ già đến trẻ, đều dùng đòn roi để uy hiếp.

+ Trăng hoa, phóng đãng: “Hoa nguyệt hôm mai thong thả”. Bản chất tà dâm, đam mê sắc đẹp của Thị Hến nên đã nhắc khéo Thị Hến lên hầu mình ắt sự việc mới được hoàn thành.

→  Nhân vật huyện Trìa thích ra oai, thích dọa nạt những người dân thường vô tội. Ngồi một chỗ cũng khiến lão buồn bực nên hay đi đe dọa người khác.

– Cách xử án: Phân xử không công bằng, nghiêm minh. Thị Hến là người có tội nhưng khi nghe đến hoàn cảnh đáng thương của Thị Hến, Huyện Trìa lại mủi lòng, ân xá cho Thị Hến.

→  Qua cách xử án, tên Huyện Trìa vừa là kẻ háo sắc, vừa đê tiện, xấu xa, ham mê hư danh.

b. Nhân vật Đề Hầu.

– Ngoại hình: lưng dài, mồm thì râu ria.

Tính cách:

+ Điêu toa, hay nói xằng bậy.

+ Nịnh hót: trong lòng thì ghét Huyện Trìa, định bụng sẽ mách mụ huyện nhưng ngoài mặt lại đồng thuận với lời kết tội của tên Huyện Trìa.

c. Nhân vật Thị Hến.

– Hoàn cảnh: góa bụa.

– Tính cách:

+ Điêu toa, ăn không nói có.

+ Khôn khéo, mưu mẹo: cố ý lấy lòng thương của Huyện Trìa và đồng thuận với lời đề nghị của tên tri huyện.

→ Mặc dù không miêu tả ngoại hình nhân vật Thị Hến nhưng quá cách tác giả để huyện Trìa si mê nàng có thể cảm nhận vẻ đẹp của nhân vật này.

→ Thị Hến được tha bổng trong khi Trùm Sò không lấy lại được của cải đã mất. Huyện Trìa xử án dựa vào tham mê, dục vọng với Thị Hến còn Trùm Sò chỉ biết than trời trong sự bất lực tuân theo phán quyết. Một kết quả không hề có sự công bằng, liêm chính mà chỉ có ham mê, cảm tính, tự ý quyết định.

d. Vợ chồng Trùm Sò.

– Xuất thân: địa chủ giàu có.

– Không những không đòi được của đã mất mà còn bị kết tội ức hiếp quả phụ.

2. Kết quả phiên tòa.

– Thị Hến được tha bổng trong khi Trùm Sò không lấy lại được của cải đã mất.

– Huyện Trìa xử án dựa vào tham mê, dục vọng với Thị Hến còn Trùm Sò chỉ biết than trời trong sự bất lực tuân theo phán quyết.

Một kết quả không hề có sự công bằng, liêm chính mà chỉ có ham mê, cảm tính, tự ý quyết định.

3. Tiếng cười dân gian qua vở tuồng.

– Qua cách miêu tả sự việc, hành động của nhân vật và qua ngôn ngữ kịch có thể thấy tác giả dân gian thể hiện thái độ:

+ Phơi bày bộ mặt xấu xa, thối nát của những kẻ quan lại tham ô, nhũng nhiễu dân chúng và đam mê tửu sắc.

+ Cười cợt, phê phán phán những kẻ được coi là “cầm cân nảy mực” như Huyện Trìa, Đề Hầu nhưng xét xử không công bằng.

+ Cảm thông, thương xót cho thân phận của những người dân thấp cổ bé họng, qua tiếng than của vợ chồng Trùm Sò.

4. Đặc sắc nội dung và nghệ thuật.

– Đoạn trích phơi bày bộ mặt xấu xa thối nát của những kẻ quan lại, chức dịch tham ô, nhũng nhiễu dân chúng và đam mê tửu sắc, vạch trần những góc khuất đen tối, xấu xa của xã hội với những mặt trái, những điều tiêu cực còn tồn tại chốn cửa quan – nơi mà người ta tìm đến để đòi lại công bằng. Qua đoạn trích, tác giả bộc lộ niềm cảm thông, thương xót cho thân phận của những người dân thấp cổ bé họng.

– Nghệ thuật xây dựng tuyến nhân vật với những tính cách đa dạng thể hiện được mọi góc nhìn về xã hội đương thời. Tình huống tuồng đắt giá giúp các nhân vật bộc lộ hết bản chất. Thể hiện được những đặc trưng của tuồng: ngôn ngữ, nhân vật, lời thoại, cử chỉ, hành động.

– Nghệ thuật châm biếm hóm hỉnh. Ngôn từ dễ hiểu, mộc mạc.

II. Kết bài:

– Khẳng định giá trị của đoạn trích.

Bài văn tham khảo:

Bài làm 1:

  • Mở bài:

“Huyện Trìa xử án” thuộc lớp XIII trong vở tuồng “Nghêu, Sò, Ốc, Hến” là một đoạn trích đặc sắc cả về nội dung lẫn nghệ thuật. Thông qua văn bản, tác giả dân gian muốn tố cáo, phê phán bọn tham quan, ô lại trong xã hội phong kiến. Đoạn trích đã kể lại cảnh xử án của tên Huyện Trìa nơi công đường.

  • Thân bài:

Để làm nổi bật chủ đề của văn bản, tác giả dân gian đã tập trung khắc họa các nhân vật. Trước hết, qua lời xưng danh, người đọc có được những hình dung ban đầu về tên Huyện Trìa. Hắn là kẻ đứng đầu chốn nha môn của một huyện. Mọi người vẫn thường khen hắn “Cầm đường ngày tháng vào ra,/ Hoa nguyệt hôm mai thong thả”. Thực chất, câu nói này là sự châm biếm, mỉa mai của dân làng đối với tên tri huyện.

Mặc dù giàu tiền bạc, uống rượu bằng chén tiện làm từ sừng tê giác nhưng cuộc sống hôn nhân của hắn với mụ huyện lại không hạnh phúc, tròn đầy. Vì tính hay ghen nên mụ thường lớn tiếng với chồng. Mỗi lần đi ra ngoài, Huyện Trìa lại rúm ró, sợ sệt. Ở nhà thì lòng bực tức không yên. Thật khác hẳn với một tri huyện đạo mạo, hống hách nơi công đường!

Không chỉ trăng hoa tên tri huyện còn là kẻ tham lam, hống hách, chuyên ức hiếp dân lành. Hắn vô cùng đề cao đồng tiền, luôn “Thẳng tay một mực ăn tiền”. Không kể gái, trai, già, trẻ, tên tri huyện đều xử phạt bằng đòn roi. Là người thực thi công lí nhưng hắn lại làm việc theo cảm tính, không đề cao pháp luật “Luật không hay (thời ta) xử theo trí” khiến lòng người không phục.

Thậm chí, hắn còn là một kẻ tráo trở, chuyên luồn cúi, nịnh hót quan trên. Chỗ nào “tốt tiền tốt bạc”, dù phải tốn nhiều công sức, của cải, hắn cũng sẵn lòng đi lo.

Bộ mặt xấu xa, đê tiện của tên quan huyện được thể hiện rõ nhất qua cảnh xử án. Hắn phân xử bừa bãi, làm việc thiếu nghiêm minh. Khi nghe Thị Hến trình bày về tình cảnh của bản thân, thói háo sắc liền trỗi dậy. Hắn động lòng thương xót, một mặt thì tỏ vẻ nghiêm nghị “Cứ mực thẳng, cung cho ngay, bày cho thiệt/ Kẻo hai đàng cua nói có, vọ nói không”, mặt khác lại tạo điều kiện cho Thị Hến thoát tội. Biết được Thị Hến chấp thuận với lời đề nghị của mình, tên Huyện Trìa liền kêu Đề Hầu làm tờ khai cho Thị Hến. Cuộc xử án kết thúc bằng việc vợ chồng Trùm Sò nhận tội, “lui về bổn quán”. Hắn tuyên án xằng bậy, không đúng tội trạng dù vật chứng, tang chứng rõ rành rành. Người có tội trong phút chốc vô tội, còn kẻ kêu cầu bỗng trở thành phạm nhân.

Bên cạnh nhân vật Huyện Trìa, Đề Hầu cũng được khắc họa một cách sinh động, rõ nét. Hắn là tay sai, giúp sức cho Huyện Trìa thực hiện hành vi của mình. Qua lời miêu tả của Huyện Trìa, Đề Hầu hiện lên với tấm lưng dài cùng khuôn mặt đầy râu ria “Lưng cù chầy hình khéo bơ sờ,/Mồm xà cáng vinh râu ngoe ngoét.”. Ngoại hình của hắn vô cùng dị hợm, ghê gớm. Chẳng thế, hắn cũng có thói xu nịnh không khác gì Huyện Trìa “Đã biết mặt lão Đề hay nói bậy/ Còn giơ hàm chú Lại nói cò cưa”. Trong lòng thì ghét Huyện Trìa, định bụng sẽ mách mụ huyện “Ông Huyện cũng xằng,/ Phen này ông bày mặt thú lang/ Huếch với mụ ắt râu trụi lủi” nhưng ngoài mặt lại đồng thuận với lời kết tội của lão “Lão Trùm Sò ăn nói trầm trây,/ Thị Hến oan, tình hình tỏ rõ”.

Trong cuộc xử án đầy bất công này, không thể không nhắc tới Thị Hến. Thị ta là người đàn bà góa bụa. Tính cách thì gian manh, chuyên “ăn không nói có”. Rõ ràng, Thị Hến đã tiêu thụ vật phẩm ăn trộm nhưng trước mặt Huyện Trìa lại chối bay chối biến “Mua của chiên việc ấy vốn không/ Vì ai giận nên khai rằng có”. Biết tên Huyện Trìa trước nay háo sắc, Thị Hến đã cố tình lấy lòng thương. Nghe hắn nói “phải năng lên hầu gần quan”, Thị Hến liền cảm ơn, đồng thuận.

Nếu như Huyện Trìa, Đề Hầu đại diện cho những kẻ thống trị, gian ác thì vợ chồng Trùm Sò lại đại diện cho những người dân “thấp cổ bé họng”. Mặc dù là người bị hại nhưng vợ chồng Trùm Sò không những không đòi được của đã mất mà còn bị kết tội ức hiếp quả phụ. Cuối cùng, họ không thể làm gì khác ngoài việc chấp nhận:

“Trời cao kêu chẳng thấu,
Quan lớn dạy phải vâng,
Cúi đầu tạ dưới sân,
Xin lui về bổn quán.”

  • Kết bài:

Bằng việc khắc họa nhân vật thông qua lời nói hành động, nghệ thuật châm biếm đặc sắc kết hợp với ngôn từ giản dị, mộc mạc, tác giả dân gian đã thể hiện thái độ mỉa mai đối với những tên quan ô lại. Đồng thời, phê phán bọn đứng đầu bộ máy cai trị chuyên đi nhũng nhiễu, làm hại người dân. Qua lớp tuồng này, ta càng thêm đồng cảm với nhân dân trong xã hội phong kiến. Vở tuồng “Nghêu, Sò, Ốc, Hến” sẽ mãi là tác phẩm tiêu biểu, đặc sắc trong nền nghệ thuật dân gian Việt Nam.

Bài làm 2:

Nghêu, Sò, Ốc, Hến là vở tuồng đặc sắc về nội dung và nghệ thuật, đậm chất dân gian, tiêu biểu cho tuồng đồ. Vở Tuồng là một chuỗi những sự việc dở khóc dở cười khi Trần Ốc, một gã kẻ trộm, nhờ thầy bói là Lữ Ngao gieo quẻ chỉ hướng vào ăn trộm nhà Trùm Sò – một trọc phú trong vùng. Ốc đem của trộm được bán cho Thị Hến, một gái goá trẻ đẹp, ma mãnh. Trùm Sò báo với lí trưởng, thuê phù thuỷ dùng bùa phép tìm kẻ gian.

Một tên gia định của Thị Hến, vì bất bình với cách đối xử cay nghiệt của Thị Hến, đã có lời nói hớ hênh, khiến tang vật do Ốc lấy cắp từ nhà Trùm Sò bị phát giác. Lí Hà giam giữ Thị Hến cùng tang vật. Đề Hầu xuất hiện, thấy Thị Hến xinh đẹp, có ý bênh vực thị. Sau đó, cả bọn bị giải lên huyện để quan xét xử. Thị Hến làm cho cả quan huyện lẫn Đề Hầu mê mệt nhan sắc của mình. Thị được tha bổng, Trùm Sò không lấy lại được tài sản mất cáp.

Kết thúc vở tuồng là màn kịch khôi hài do Thị Hến bày ra, lần lượt đưa Thầy Nghêu, Huyện Trìa, Đề Hầu vào tròng, lật tẩy bản chất của gã thầy tu và thầy trò hai tên chức dịch mê gái.

Phân đoạn “Huyện Trìa xử án” sáng lên với những câu chuyện trong đời sống thường nhật của nhân dân, tinh thần phê phán những thói hư tật cấu trong xã hội phong kiến thời xưa, đặc biệt là sự bất công trong vấn đề xử án của quan lại.

Ngay từ những câu thoại đầu tiên đã mang đến cho ta cái cảm giác ngập ngụa sự tự mãn của quan huyện “Nội hạt tiếng khen khen ta”. Một loạt những ghi danh của Huyện Trìa dài như tấu sớ để muốn tỏ ý khoe khoang tự cao tự đại. Những tưởng chỉ để “khoe khéo” bản thân Huyện Trìa đã ranh ma đến độ bật mí luôn cơ hội thắng kiện.

Mục đích xử kiện của Huyện Trìa qua lời danh xưng chính xác là xử kiện chỉ vì muốn được nhiều tiền của, những ai đút lót càng nhiều càng được quan xử thắng. Khi xưa dân gian từng có câu nói bất hủ, đi vào biết bao vở hài kịch: “Tốt khoe, xấu che” đằng này có lẽ Huyện Trìa cũng đã khoe được hết những gì của bản thân kể cả những tật xấu cũng lỡ làng trưng ra:

“Cao tài tật túc”
“Tiên đắc hữu tiền”

Gây ấn tượng bằng cách dùng tên các con vật để đặt tên cho các nhân vật trong tác phẩm văn học sẽ giúp mang đến những điều mới lạ, hấp dẫn cho người đọc và đậm chất văn học dân gian. Sau những lời tự mãn cha chẳng mấy tốt đẹp của quan huyện, hội đồng loã của quan cũng đã lên tiếng:

ĐỀ HẦU:

Trộm của Trùm Sò đêm trước
Vu cho Thị Hến đêm qua
Bắt tới chốn huyện nha,
Xin ngài ra xử đoán.

HUYỆN TRÌA:

Lão Đề lấy tờ khai,
Đặng ta toan làm án
Cứ mực thẳng, cung cho ngay, bày cho thiệt
Kẻo hai đàng của nói có, vợ nói không

THỊ HẾN:

Trông ơn quan lớn
Đoái xét phận hèn 
Phụ mẫu dân quyền quý ấy bề trên
Ti tiện nữ đơn cô là phận dưới.”

Chân dung những kẻ nịnh bợ giả nhân giả nghĩa trình bày trước quan huyện. Đề Hầu vốn là kẻ khiến Huyện Trìa “bằng mặt mà không bằng lòng”:

 “Đã biết mặt lão Đề hay nói bậy

Mồm xà cáng vinh râu ngoe ngoét.”

Vốn Huyện Trìa đã biết được tính cách của Đề hầu từ trước: một người hay nói bật, điêu toa, không có thiện cảm. Nếu không có vụ này mối quan hệ của ông với hắn cũng chỉ là bề trên kẻ dưới. Phải công nhận Đề Hầu lanh lỏi “miệng lưỡi không xương nhiều đường lắt léo”, chẳng những thế thưa hỏi lại đường hoàng câu từ lại đậm chất thơ:

“Trộm của Trùm Sò đêm trước
Vu cho Thị Hến đêm qua
Bắt tới chốn huyện nha, 
Xin ngài ra xử đoán.”

Điệp vần “a” độc đáo tạo nét chấm phá cho tính cách của một nhân vật phản diện là quá phù hợp. Được đà Thị Hến lấn tới thưa ngay những lời thiệt thòi. Vốn xinh đẹp nên Thị Hến khiến cả Đề Hầu và cả Huyện Trìa phải lòng:

 “Thấy cô đơn chút chạnh lòng thương
Phải nâng lên hầu gần quan
Ai dám nói vu oán giá họa.”

Phen này cả Huyện Trìa và Đề Hầu dường như lạc lối theo đúng cái bản chất lương tâm của chúng. Bị mù mờ, bản chất ham tiền háo sắc trỗi dậy. Có thể nói Nhân vật tiêu biểu cho các vai tuồng này thường mang tính ước lệ và tính cách không thay đổi, thể hiện chủ yếu qua lời thoại và hành động của mình. Khi xuất hiện lần đầu, các nhân vật chính thường có lời xưng danh. Tính cách, đặc điểm của nhân vật trong tuồng, một phần được biểu đạt qua cách hoá trang, nhất là qua các nét vẽ, màu sắc trên khuôn mặt diễn viên và đặc biệt là lời thoại.

Lời thoại trong tuồng cũng có vai trò, đặc điểm như lời thoại trong chèo đã nói ở phần trước. Lời thoại của nhân vật tuồng, chủ yếu là đối thoại có xen độc thoại hay bàng thoại, dưới hình thức nói, ngâm hoặc hát và chủ yếu là thơ vầ văn vần. Cho nên ta mới có cơ hội thấy những lời hót hay như sáo của Huyện Trìa, Đề Hầu và Thị Hến.

Có thể thấy rằng trong xã hội đầu rẫy những bất công ấy kẻ thấp cổ bé họng luôn là người ở dưới. Một loạt những lời nói giả dối được trình bày trước, cuối cùng những câu thoại được thốt lên từ người chịu nhiều bất công nhất:

 “Mồng một mất đồ hôm nọ,
Mồng hai nhìn thấy đặng đây
Đồ đạc nhìn đã không sai
Mua chác đó xin người tra hỏi” 

Một điều khá đặc biệt, một chi tiết rất nhỏ và khó phát hiện. Ta nhận thấy những lời của Trùm Sò chính xác là những lời khai báo ngay thẳng, không chút nịnh bợ. Điều đó khác hoàn toàn với những lời nịnh bợ, kể lể số phận để người khác của Thị Hến:

“Nỗi ức oan khôn xiết, Lời ngay thẳng thưa qua,
Việc làm ăn ngày tháng vào ra,
Phận goá bụa hôm mai côi cút.
Gẫm gia đình khó thốt Nhờ quan lớn tỏ lòng. 
Mua của chiên việc ấy vốn không
Vì ai giận nên khai rằng có.”  

Vốn là kẻ ham tiền háo sắc, nghe lời nịnh bợ của mỹ nhân Huyện Trìa thuận theo ngay. Những điều Trùm Sò-kẻ mất trộm khai báo ở đây, không được Huyện Trìa và Đề Hầu chú ý đến khi xét xử vì thái độ của hai người họ khá thờ ơ. Những lần Sò được nói rất ít như thể là người ngoài cuộc trong khi dó Sò phải là người được trình với quan nhiều nhất. Cả Huyện Trìa và Đề Hầu đều xét xử một cách không căn cứ, qua loa nếu không muốn gọi là “nói nhăng nói cuội”:

“Huyện Trìa:
Gẫm đó dây duyên nợ
Thật trời đất đẩy đưa,
Căn duyên khéo khéo tình cờ 
Nhơn ngãi khăng khăng vương vấn.
Khuyên mụ đừng trách phận, 
Đây ta đã đành lòng. 
Cứ đây mà khai báo cho xong, Rồi ta sẽ xử phân thuận ly”

Đề Hầu chen giọng với lời độc thoại xéo sắc, “đổi trắng thay đen”:

“Đề Hầu”:
– Mụ đà nên tệ
Ông Huyền cũng xằng,
Phen này ông bày mặt thú lang
Huếch với mụ ất râu trụi lủi. 
– Đòi Thị Hến vào đây ta hỏi, 
Nào tờ khai đem nạp tại đây.
Lão Trùm Sò anh nói trầm trây, 
Thị Hến oan, tình hình tỏ rõ.
Tờ khai đó, đâu đành có đó, 

Ban đầu vốn là nghi phạm Thị Hến lại được tẩy trắng lộ liễu và bỗng dưng trở thành người bị hại sau lời phân xử của Huyện Trìa và Đề Hầu. Sau cùng lời phán xử cũng được Huyện Trìa đưa ra:

Lúc ra đây, rồi lại xử đây
– thế lão Lại đã bầy, Làm tờ khai cho nó,
Nguyên tang không phải đó,
Tình trạng nghiệm là phi.
Ỷ phú gia hống hách, 
Hiếp quả phụ thân cô,
Cứ lấy đúng pháp công, 
Tội cả vợ lẫn chồng, 
Ta thứ liền ông, liền mụn.”

Cùng với đó là tiếng kêu oan của nhà Sò:

“- Trời cao kêu chẳng thấu, 
Quan lớn dạy phải vâng, 
Cúi đầu tạ dưới sân, 
Xin lui về bốn quán”.

Từ lời phán cuối cùng của Huyện Trìa, lời than của Trùm Sò, lời tri ân của Thị Hến, có thể thấy rằng kết quả mà Huyện Trìa đưa ra không công bằng với tất cả mà có phần thiên vị cho Thị Hến. Bởi nếu như có sự công bằng thì vợ chồng Trùm Sò không phải than thở khi nghe quyết định của phiên tòa.

Nhà Trùm Sò vốn là một trọc phú trong vùng mà còn bị xử ép quá đáng bởi cái tật háo sắc ham tiền của bọn quan lại. Vậy thử hỏi nếu là những người dân không quyền hạn, nghèo khổ trong cái xã hội mà “đồng tiền lăn trên đáy mọi lương tâm” này sẽ ra sao?

“Nước non lận đận một mình,
Thân cò lên thác xuống ghềnh bấy nay.
Ai làm cho bể kia đầy,
Cho ao kia cạn, cho gầy cò con?”

Những người nông dân trong xã hội xưa là những con người thấp cổ bé họng, bị đàn áp và đối xử bất công. Họ đều là những người nông dân hiền lành, chất phác, lương thiện và giàu tình yêu thương. Nhưng do bị nô dịch nên cái nghèo vẫn luôn đeo bám suốt cuộc đời của những người nông dân ấy.

Số phận của những người nông dân thấp cổ bé họng gần như rơi vào tuyệt vọng bởi sự chà đạp bất công của những tên “cai trị” hống hách, vô nhân tính. Tuy vậy thì họ vẫn giữu được những phẩm chất tốt đẹp nhất. Càng vậy ta càng thêm trân trọng những người nông dân mang những phẩm chất tốt đẹp dù trong bất kì hoàn cảnh nào. Đồng thời cũng xót xa cho số phận đau khổ của họ.

Tác phẩm là câu chuyện trong đời sống thường nhật của nhân dân, phê phán những thói hư tật cấu trong xã hội phong kiến thời xưa, đặc biệt là sự bất công trong vấn đề xử án của quan lại. Trong đó cảm hứng chủ đạo là cuộc sống con người trong xã hội cũ. Đoạn trích “Huyện Trìa xử án” là một vở tuồng mang tính châm biếm, mỉa mai xã hội bất công với người dân, một xã hội đầy rẫy những nhuốc nhơ ô hợp.

Cất lên từ tiếng nói của những người nông dân, nghệ thuật dân gian luôn gần gũi, dễ nghe, dễ hiểu, dễ đồng cảm. Đoạn trích “Huyện Trìa xử án” thực sự đã lắng đọng cái thần cốt trong lòng khán giả, gieo vào tâm hồn con người những hạt giống tốt đẹp. Như thể một dòng sông của những điều thiện lương, tác phẩm đã cho ta được đắm mình trong những giá trị nhân đạo sâu sắc, nuôi dưỡng tâm hồn ta luôn hướng về chân-thiện-mĩ.

Hãy bình luận đầu tiên

Để lại một phản hồi

Thư điện tử của bạn sẽ không được hiện thị công khai.