Tài liệu phân tích truyện Vợ chồng A phủ

tai-lieu-phan-tich-truyen-vo-chong-a-phu

Tài liệu phân tích truyện Vợ chồng A phủ

PHÂN TÍCH NHÂN VẬT MỊ.

I. Mở bài:

Có những mảnh đất chỉ một lần đặt chân đến trong đời nhưng để thương, để nhớ. Những kí ức, kỉ niệm như một vùng sáng đã hằn in trong tâm khảm để mỗi khi nhớ lại lòng chợt dâng trào bao xúc cảm. Và có lẽ nhà văn Tô Hoài cũng có ấn tượng như vậy về mảnh đất Tây Bắc. Và hơn một cánh thư, là cả một tấm lòng gửi về Tây Bắc Vợ chồng A Phủ đã trả lại cho Tô Hoài niềm thương nỗi nhớ đầy vơi với cảnh và người nơi đây.

II. Thân bài:

1. Hoàn cảnh sáng tác.

Tô Hoài là nhà văn luôn cố gắng đi tìm sự thật trong đời sống để phản ánh vào tác phẩm. Nhà văn quan niệm phải nói lên sự thật dù có đập vỡ thần tượng trong lòng bạn đọc. Chính vì thế các trang văn của ông thấm đẫm chất hiện thực nhưng bằng vốn ngôn ngữ phong phú và lối diễn đạt tinh tế, hóm hỉnh mà độc giả yêu mến các trang văn của Tô Hoài.

Năm 1952 Tô Hoài đi cùng với bộ đội vào giải phóng Tây Bắc. Trong chuyến đi này nhà văn đã có dịp sống găn bó với đồng bào các dân tộc thiểu số (Thái, Mường, Mông, Dao …) nên đã để lại nhiều kỉ niệm, hiểu biết về cuộc sống con người miền núi. Tất cả những yếu tố trên và với một tài năng tuyệt vời đã thôi thúc Tô Hoài viết tập Truyện Tây Bắc gồm ba truyện: Cứu đất cứu Mường, Mường Giơn và Vợ chồng A Phủ.

Vợ chồng A Phủ được giải nhất Truyện và kí Việt Nam năm 1954-1955. Tác phẩm gồm hai phần, đoạn trích trong sách giáo khoa là phần một.

2. Khái quát về nhân vật Mị.

Có thể nói cuộc đời của Mị trong câu chuyện cũng là cuộc đời và số phận tiêu biểu cho người phụ nữ vùng cao Tây Bắc suốt những năm kháng chiến chống Pháp. Tô Hoài muốn làm sáng tỏ quy luật tất yếu của con đường nhân dân đến với cách mạng để giải phóng chính mình. Cuộc đời Mị vừa là bi kịch của số phận nhưng cũng là tất yếu của cách mạng. Điều đó đã làm nên thành công cho tác phẩm Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài cũng như hình tượng nhân vật Mị.

Cuộc đời Mị chia làm những chặng đường, mà mỗi chặng là một bước tiến quan trọng đưa nhân vật đến gần với ánh sáng của tự do hơn, cho dù có lúc Tô Hoài phải để nhân vật của mình đi qua bóng tối khổ đau.

3. Cách giới thiệu nhân vật của nhà văn.

Với thủ pháp nghệ thuật đòn bẩy và cách giới thiệu có vấn đề, nhà văn đã gây ấn tượng mạnh mẽ cho độc giả. Không đơn thuần là sự miêu tả hoàn cảnh và tính cách nhân vật như ta thường gặp mà có một điều gì như đặc biệt, như đổi mới ở đây. Khung cảnh đầu truyện cũng chính là khung nền mà Mị xuất hiện. Ai ở xa về có việc vào nhà thống lí Pá Tra cũng trông thấy một cô gái ngồi quay sợi bên tảng đá trước cửa, cạnh tàu ngựa. Không phải ngẫu nhiên mà Mị lại xuất hiện cạnh những vật vô tri, vô giác bởi chính cô cũng là một con người đang chết ngay khi còn sống: không cảm nhận, không buồn vui. Những chi tiết đắt giá làm nổi hình sắc nhân vật. Con người LẪN VÀO với những vật vô tri, thân phận trâu ngựa. Lúc nào cũng vậy, dù quay sợi, thái cỏ ngựa, dệt vải hay chẻ củi, cõng nước thì mặt cô cũng buồn rười rượi. Mâu thuẫn nảy sinh để ai cũng phải băn khoăn một câu hỏi: vì sao con gái một nhà giàu như nhà thống lí Pá Tra thì bao giờ biết đến cái khổ mà biết khổ, mà buồn. Chính vì vậy người đọc muốn đi tìm căn nguyên nỗi buồn khổ ấy của nhân vật, và nhà văn cũng có cái cớ để kể lại cuộc đời, số phận của nhân vật Mị. Đây là một cách mở truyện khá thành công, hấp dẫn của Tô Hoài.

Kết cấu đồng tâm, đi từ điểm nhấn trong cuộc đời nhân vật mà ra chứ không dựng theo trình tự thời gian. Cũng như Nam Cao lựa chọn giới thiệu nhân vật Chí Phèo khi nhân vật đã bị tha hóa, lưu manh hóa thì Mị cũng đến với bạn đọc khi cô về làm dâu nhà thống lí, khi sức sống của cô đã bị vùi dập. Vậy là giá trị tố cáo thông qua hình tượng nhân vật đã xuất hiện ngay trang văn đầu tiên của truyện. Từ đó tác giả bắt đầu làm một cuộc hành trình xuyên suốt cuộc đời nhân vật để làm sáng tỏ dụng ý nghệ thuật của mình. Người đọc ngược dòng thời gian tìm hiểu cuộc đời của Mị theo để thấy những mảng tối, sáng và những bước thăng trầm trong cuộc đời nhân vật.

4. Cuộc đời đầy khổ đau, bất hạnh của nhân vật Mị.

* Trước khi Mị về làm dâu nhà Thống Lý.

Mị được coi là một cô gái với nhiều đức tính tốt. Là một người con của núi rừng Tây bắc xinh đẹp, tài hoa, chăm chỉ, hiếu thảo và yêu tự do, cô có tình yêu đẹp và niềm tin vào cuộc sống tương lai tươi sáng. Nhưng Mị sớm phải gánh trên vai món nợ truyền kiếp của cha mẹ .

Có lẽ yêu Tây Bắc bao nhiêu thì Tô Hoài gửi gắm tình yêu vào Mị bấy nhiêu, ông đã mang bao yêu thương phủ lên đời Mị những ánh hào quang rực rỡ nhất của một người con gái. Mị xinh đẹp “những đêm tình mùa xuân đến, trai đứng nhẵn cả bức vách đầu buồng Mị”. Mị có tài thổi sáo khiến “bao người mê, ngày đêm thổi sáo đi theo Mị” …. Mị sống trong những tháng ngày tươi đẹp của tuổi thanh xuân, tràn trề cơ hội được hưởng thụ tình yêu và hạnh phúc. Bởi khao khát, Mị cũng đã có người yêu, một tình yêu đẹp với ngón tay đeo nhẫn và tín hiệu gõ vách hẹn hò.

Bên cạnh vẻ đẹp, tài năng thì bản chất của một người lao động không mất đi trong con người Mị – một cô gái của núi rừng. Mị biết cuốc nương, làm ngô và sẵn sàng làm nương ngô trả nợ cho bố mẹ:“bố đừng bán con cho nhà giàu con sẽ làm nương ngô trả nợ cho bố”. Mị hiếu thảo, sẵn sàng chịu vất vả, khổ cực vì cha, không ngại ngần mà làm nương trả nợ. Nhưng cũng chính là để bảo vệ mình, giữ cho mình một tình yêu tự do. Khao khát tình yêu tự do là hạt mầm đầu tiên gieo lên sức sống tiềm tàng đầy mãnh liệt ở Mị.

Xuất hiện với vẻ đẹp toàn diện của một cô gái không chỉ có ngoại hình xinh đẹp như bông hoa ban núi rừng Tây Bắc, mà Mị còn có nội tâm đẹp đẽ, trong sáng. Bên cạnh đó tài thổi sáo như điểm tô thêm vẻ đẹp cho nhân vật đạt đến độ toàn mĩ. Ấy vậy mà, cuộc đời Mị không theo ý muốn của cô, không thể tự quyết định cuộc đời của mình. Mị bị bắt về nhà Thống lý Pá Tra ép sống kiếp dâu con gạt nợ. Đó cũng là số phận chung của những người phụ nữ trong thời kì Pháp thuộc nơi miền núi Tây Bắc xa xôi ấy.

* Khi mới về làm dâu nhà Thống Lý.

Một cô gái trẻ đẹp với bao khát vọng về cuộc sống hạnh phúc tươi sáng ở tương lai, nhưng bàn tay vô hình của số phận đưa Mị đi làm dâu gạt nợ cho nhà giàu – Mị như chết đứng với số phận từ đây. Tô Hoài phải thật sự am hiểu về phong tục tập quán của người dân miền núi mới có thể miêu tả tỉ mỉ tục bắt vợ. Đêm mùa xuân ấy, cũng là đêm cuối cùng Mị còn tự do với tình yêu trong sáng, cháy bỏng của mình. Và cũng là đêm bắt đầu cho những chuỗi ngày tăm tối như địa ngục trần gian của Mị tại nhà thống lí Pá Tra. Tác giả miêu tả rất tự nhiên vào một đêm khuya Mị nghe tiếng gõ vách. Tiếng gõ vách hò hẹn của người yêu. Mị vừa hồi hộp lặng lẽ quơ tay lên để tìm bàn tay quen thuộc của người yêu. Khi nắm được vào bàn tay có đeo nhẫn ở đúng ngón tay mà người yêu Mị thường đeo thì tiếng gọi của tình yêu để cho Mị nhấc tấm vách gỗ bước ra với người yêu.

Một hành động tưởng như viết ra thật đơn giản nhưng sao lại làm ta nhớ đến cái táo bạo trong tình yêu của cô Kiều trong trang thơ của Nguyễn Du xưa kia. Đang trong đêm mà “xăm xăm băng lối vườn khuya một mình” sang hẹn ước, thề nguyền với chàng Kim. Cái tài của cả Nguyễn Du và Tô Hoài không chỉ là để cho nhân vật của mình thể hiện khao khát tự do yêu đương mà để thấy sức sống mãnh liệt khi họ dám bước qua bao lễ giáo, hủ tục để đến với tình yêu. Phải chăng điều này cũng là một dự báo ban đầu của sức sống tiềm tàng để về sau người đọc không ngỡ ngàng trước những hành động đầy bứt phá của Mị trên con đường tự giải phóng bản thân. Nhưng thật không may, tưởng rằng được đến với tình yêu và hạnh phúc của mình cũng là lúc Mị rơi vào vực thẳm của số phận với bi kịch về làm dâu gạt nợ cho nhà giàu.

* Sự phản kháng của Mị khi mới về làm dâu.

Về nhà thống lý Pá Tra, Mị âm thầm chịu đựng nỗi đau “có đến mấy tháng liền đêm nào Mị cũng khóc”. Giọt nước mắt của nhân vật Mị chính là sự phản kháng đối với thực tại. Sự phản kháng ở cấp độ thấp nhưng cũng đủ để thấy Mị không thỏa hiệp, đầu hàng chấp nhận số phận. Bởi trong người con gái ấy khao khát tự do chưa thể lụi tàn.

 Những tháng ngày sống trong nhà Pá Tra, Mị không thể thỏa hiệp với nó. Mị sẵn sàng quên hết đi tất cả để tìm đến cái chếtkhi ý thức được cuộc sống và tháng ngày sau này mình sẽ phải chịu đựng như thế nào, cuộc sống không đáng sống. Đây là cấp độ phản kháng cao hơn để khẳng định khao khát sống đang bùng cháy trong cô. Bởi khi còn muốn chết tức là con người ta còn ý thức được về một cuộc sống không đáng sống của mình, và còn khao khát được sống. Một điều tưởng chừng như phi lí nhưng lại nằm trong quy luật tâm lí tự nhiên của con người. Mị quyết định vào rừng hái nắm lá ngón, giấu vào trong tay áo và về qùy lạy bố để chết. Có lẽ để có đủ dũng cảm cầm nắm lá ngón trên tay Mị đã phải băn khoăn, trăn trở rất nhiều. Ai chẳng hiểu sự sống là đáng quý bởi cuộc đời ai sinh ra cũng chỉ được sống một lần, nên khao khát sống chính đáng là điều ai cũng mong muốn. Mị đã dám từ bỏ cuộc đời khi đang xuân thì phải chăng cuộc đời Mị không còn ý nghĩa. Hành động này của Mị là một lời tố cáo đanh thép xã hội thực dân phong kiến miền núi, đã đè nén, áp bức đẩy con người ta đến bước đường cùng. Trong Mị thấp thoáng số phận của những chị Dậu, những anh Pha, những Chí Phèo – người nông trước cách mạng tháng Tám.

Tưởng dứt hết nợ duyên với đời để tìm đến cái chết nhưng vì một chữ hiếu mà Mị không đành lòng nhìn bố mình chịu khổ cực. Mị đành từ bỏ ý định, cô ném nắm lá ngón xuống đất như ném đi khát vọng cuối cùng của cuộc đời mình. Vậy ra, trong cô gái trẻ kia, mạng sống, tình yêu, và tự do không phải là thứ cô đặt lên hàng đầu. Bên tình và bên hiếu trong giờ phút quyết định khiến cô phải lựa chọn và tất nhiên cô cũng như bao người con gái khác sẵn sàng:

Để lời thệ hải minh sơn
Làm con trước phải đền ơn sinh thành

Mị đã coi việc làm dâu trong nhà thống lý Pá Tra như làm kiếp trâu ngựa để trả nợ cho cha mẹ năm xưa, làm tròn chữ hiếu. Đây chính là phẩm chất đáng quý, đáng ngợi ca của nhân vật mà Tô Hoài đã tìm thấy nơi đáy sâu cùng cực của số phận.

* Khi làm dâu đã quen ở nhà thống Lý.

– Mị tê liệt trong tâm hồn.

Ở địa ngục trần gian của nhà Pá Tra, bao vất vả, cực nhục đổ lên đầu Mị. Mấy năm sau khi bố Mị qua đời, Mị cũng không nghĩ đến cái chết nữa, bởi vì “Mị quen cái khổ rồi. Bây giờ thì Mị tưởng như mình cũng là con trâu, con ngựa (…) chỉ biết việc ăn cỏ, biết đi làm mà thôi”. Cách so sánh bằng đã cho thấy điều mà tác giả dự báo ở đầu tác phẩm khi để nhân vật hiện lên giữa những vật vô tri, vô giác được cụ thể hóa hơn. Mị có khác nào một công cụ lao động của nhà thống lí, không có chút quyền tự do nào. Mị chỉ còn ý niệm về công việc nối tiếp công việc, mỗi năm, mỗi mùa, mỗi tháng cứ thế làm đi làm lại: tết xong thì hái thuốc phiện, giữa năm thì giặt đay, xe đay, cuối mùa đi bẻ bắp…Còn nỗi đau nào của một kiếp người mà phải mang thân trâu ngựa: « con ngựa con trâu làm còn có lúc, đêm nó còn được đứng gãi chân, đứng nhai cỏ, đàn bà con gái nhà này thì vùi vào việc cả đêm lẫn ngày ». Sự so sánh đòn bẩy cho thấy Mị còn không bằng cả kiếp trâu ngựa. Người đọc không chỉ ngậm ngùi, xót thương cho thân phận tủi cực của Mị mà cả những người phụ nữ miền núi trong xã hội xưa.

Thêm vào sự đọa đày thể xác ấy, còn là ách áp chế về tinh thần – thần quyền đã hỗ trợ đắc lực cho giai cấp thống trị. Nó thực sự là thứ “thuốc phiện tinh thần ». Bởi nó tạo thành một lối mòn trong suy nghĩ của Mị : đã bị bắt về nhà Pá Tra, đã cúng trình ma nhà nó rồi thì cả đời sống ở nhà này, và chết cũng là ma nhà này mà thôi. Mị đã không còn phản kháng để tìm lối thoát cho mình. Điều này xét về một góc độ nào đó, nếu nhìn về mặt đấu tranh giai cấp, thì nó còn nguy hại hơn là sự áp bức về thể xác.

Không chỉ dừng lại ở đó, ở tầng sâu hơn, ngòi bút Tô Hoài còn nêu lên một sự thực đau lòng: con người bị áp bức, nếu cứ nhẫn nhục chịu đựng, kéo dài đến một lúc nào đó, sẽ bị tê liệt cả tinh thần phản kháng. “Mỗi ngày Mị càng không nói, lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa” thật không ở đâu, mạng sống, nhân cách con người bị coi rẻ đến thế! Cũng không ở đâu, con người lại tuyệt vọng như vậy. Mị cam chịu thân phận con rùa nuôi trong xó cửa, chỉ biết ngồi trong cái buồng kín mít, trông ra cửa sổ vuông mờ mờ trăng trắng, “đến bao giờ chết thì thôi”.Một chi tiết tưởng chừng như nhỏ nhặt trong tác phẩm nhưng nếu nhìn kĩ ta lại thấy sau đó những ẩn ý của nhà văn. Căn buồng của một người phụ nữ nói chung và người phụ nữ Mông nói riêng là nơi chia sẻ mọi buồn vui, giấu kín bao khát khao mơ ước, và là không gian theo bám suốt cuộc đời của họ. Khi còn trẻ đó là căn buồng kín đáo của một cô thiếu nữ, với bao niềm riêng tư. Khi đi lấy chồng đó là căn buồng đong đầy hạnh phúc lứa đôi. Xa hơn là căn buồng đếm từng ngày, từng tháng khi thai nghén chín tháng mười ngày, khi nuôi con bế bồng với bao tin yêu, hi vọng…Tưởng như đó là không gian thân thương, gần gũi và ấp áp nhưng với Mị thì không. Đó là một căn buồng kín mít, chỉ có một lỗ vuông cửa sổ chỉ nhỏ bằng bàn tay mà ngồi trong đó nhìn ra bên ngoài lúc nào cũng thấy « mờ mờ, trắng trắng không biết là sương hay là nắng ». Người đọc có thể liên tưởng ngay đến hình ảnh một ngục thất tinh thần, thiếu sinh khí, thiếu sự sống. Phải chăng chính điều này đã làm tê liệt hơn sức sống trong người con gái đầy xuân xanh.

Khi một “nạn nhân” đau khổ, còn nghĩ đến cái chết để tìm sự giải thoát, thì phải chăng, trong họ vẫn còn khao khát sống. Với Mị cũng đã có một lần như thế nhưng giờ đây cô đã dường như phó mặc thân phận cho định mệnh, không còn ý thức về thời gian. Với Mị, sự chuyển biến của thời khắc sớm tối, năm tháng qua đi cũng không còn ý nghĩa, không gợi cho cô cảm xúc gì, cuộc sống chỉ là một màn sương mờ đục, không hiện tại, quá khứ và tương lai. Một con người sống mà chỉ như tồn tại, không có một ý niệm nào về cuộc sống. Có lẽ đây là bản án đanh thép mà nhà văn đã gửi đến cho xã hội thực dân nửa phong kiến đương thời – bóp nghẹt sức sống của con người.

5. Sức sống tiềm tàng của nhân vật Mị trong đêm tình mùa xuân.

Đau khổ kéo dài khiến cho lòng Mị tưởng chừng nguội lạnh. Dường như mọi cảm xúc, khát khao dã bị dập tắt từ lâu. Điều kì diệu là dẫu trong tột cùng đau thương thì mọi thế lực tội ác cũng không hủy diệt được con người. Lay lắt, đói khổ, nhục nhã nhưng Mị vẫn sống âm thầm mà mãnh liệt. Từ trong sâu thẳm tâm hồn người con gái bị dày đọa kia vẫn âm ỉ, le lói một ngọn lửa khao khát sống khi mùa xuân về. Sức sống ấy như hòn than nhỏ đang bị vùi lấp trong cái vẻ ngoài lặng câm vô cảm. Vô tình cơn gió mùa xuân đã làm hồi sinh con người Mị, thức dậy cả một kí ức tươi đẹp và trỗi dậy một sức sống, lòng ham sống đến cuồng nhiệt nhưng cũng đầy bi kịch.

– Những nhân tố tác động làm bùng lên sức sống của nhân vật:

+ Thiên nhiên đầy đột biến ở Hồng mùa Ngài xuân ấy như một dự báo.

Mùa xuân ở Hồng Ngài rộn rã âm thanh và màu sắc. Một năm với tiết xuân mới: các nương ngô, nương lúa đã thu hoạch xong. Trẻ con đi chăn trâu tinh nghịch đốt những mái lều canh nương để lửa khói sáng trắng trên nương. Đó là tiếng cười của trẻ con, màu vàng ửng của cỏ gianh và gió rét dữ dội, là màu đỏ của những chiếc váy hoa phơi trên những mỏm đá xòe ra như những con bướm sặc sỡ. Cái rét đến sớm và dữ dội, công việc cũng đã xong và năm ấy Hồng Ngài ăn tết sớm. Sự đột biến của thiên nhiên của mùa xuân năm ấy liệu có báo hiệu sự đột biến trong nhân vật Mị, con người vẫn đang trong tuổi xuân và đầy sức xuân trong mình ?

+ Men rượu nồng say ngày tết.

Đêm tình mùa xuân, mọi người uống rượu, đi chơi và Mị cũng tìm đến rượu, nhưng không phải để tìm vui mà là để giải sầu “Mị uống ực từng bát rồi say”. Cách uống rượu của Mị như nuốt căm, nuốt hận vào lòng. Sự bất bình thường ấy đã nói lên tất cả. Sức chịu đựng có hạn, đã đến lúc cần bùng cháy. Rượu và tiếng sáo chính là chất men say đánh thức phần đời đã mất của Mị, giờ đây Mị không còn lặng câm nữa. Mị đã hồi sinh! Rượu chính là chất men xúc tác để nhân vật có đủ sức mạnh và can đảm làm những việc mà khi tỉnh táo Mị không thể bởi bao áp chế đè nặng. Vì thế mới có những diễn biến đầy phức tạp trong tâm lí và hành động của Mị trong đêm tình mùa xuân. Có lẽ chúng ta không thể cảm nhận và phân tích những nét tâm lí ấy bằng lí trí của một người tỉnh táo mà phải là sự chuyếnh choáng trong hơi men nồng nàn của rượu, trong kí ức của tiến sáo năm xưa. Cũng như tâm lí của nhân vật Chí Phèo đang chơi vơi giữa hai bờ say, tỉnh của Nam Cao khi xách dao đến nhà Bá Kiến để đòi lương thiện. Tâm trạng lưỡng cực đầy tinh tế của nhân vật, «không phải người viết mà là thần viết».

+ Tiếng sáo gọi bạn trên núi.

Mùa xuân năm ấy với Mị không thể thiếu được “tiếng sáo gọi bạn yêu”. Chính thanh âm quen thuộc ấy như một cơn gió thổi tung đám tàn tro đang vây quanh cuộc đời Mị. Đặc biệt qua nghệ thuật trần thuật và miêu tả tiếng sáo đặc sắc, Tô Hoài đã mang đến cho người đọc một linh hồn đang cựa quậy hồi sinh đằng sau lớp xác giá băng. Chính tiếng sáo đã tác động đến Mị, góp phần thức tỉnh một tâm hồn nguội lạnh. Tiếng sáo như sợi dây vô hình nối mị với quá khứ và hiện tại làm sống dậy trong Mị một kí ức đẹp tươi. Nói đúng hơn nó đánh thức cái tài hoa trong Mị ngày nào. Mị thổi sáo hay, thổi lá giỏi có biết bao nhiêu người mê ngày đêm thổi sáo đi theo Mị. Quá khứ đẹp nhưng đối lập với hiện tại buồn mênh mang. Tác giả miêu tả tiếng sáo rất cụ thể: khi còn xa Mị cảm thấy « lấp ló» ngoài đầu núi. Nhưng rồi nó đến gần hơn, vọng lại rõ hơn để rồi nghe thấy «thiết tha bổi hổi» Mị nghe rõ và nhẩm được cả lời của bài hát. Mị ngồi nhẩm thầm lời của người đang thổi sáo:

Mày có con trai con gái rồi
Mày đi làm nương
Ta chưa có con trai con gái
Ta đi tìm người yêu

Ngay sau đó là một câu văn ngắn gọn, chắc nịch : «Những đêm tình mùa xuân đã tới». Mùa xuân mới, sự bùng trỗi dậy của sức sống, của những khao khát và đổi thay của đất trời, vạn vật. Phải chăng với Mị điều đó cũng đang đến gần.

6. Diễn biến tâm lí của Mị trong đêm tình mùa xuân.

Sự xuất hiện cũng như tác động đồng thời của cả ba tác nhân có thể ví như một làn gió đã thổi tan lớp tro tàn nguội lạnh trong tâm hồn Mị và khơi lên hơi ấm mà hòn than của sức sống vốn bị vùi chôn nơi sâu kín nhất trong tâm hồn. Để rồi dẫn đến hàng chuỗi các hành động cả vô thức lẫn ý thức nhưng chứa đựng đầy sức sống của nhân vật.

– Khi ngập mình trong hơi men nồng nàn, tha thiết, với tiếng sáo đang đang “văng vẳng gọi bạn đầu làng”, Mị đang sống về ngày trước và không gì có thể ngăn được niềm vui sướng ấy: “lòng Mị đột nhiên vui sướng như những đêm tết ngày trước”.Còn gì hạnh phúc bằng khi mình tìm lại được chính mình? Tô Hoài đã thâm nhập vào mê cung tâm trạng của người phụ nữ này và bằng lòng cảm thông yêu thương sâu sắc, nhà văn đã làm người đọc thực sự xúc động trước những biến đổi về tâm lý của Mị. Con rùa nuôi trong xó cửa ấy đã không còn lùi lũi nữa. Nó đã phá vỡ cái bức tường vô cảm kia để khát khao tìm ra thiên đường mùa xuân của tuổi trẻ, của hạnh phúc. Mị nhận thức được chính mình, đó chính là ý thức về tuổi trẻ. Mị thấy mình còn trẻ “Mị trẻ lắm. Mị hãy còn trẻ. Mị muốn đi chơi”. Còn trẻ nghĩa là còn sức sống, còn khao khát, còn muốn yêu thương. Đúng là một cảm xúc bi kịch: nhận ra mình còn trẻ khi mà tuổi xuân bị tước đoạt rồi và sống trong hoàn cảnh hiện tại này của Mị thì đúng là bi kịch. Nhưng dù đó là bi kịch thì Mị vẫn vui sướng vì dù sao con tim ấy đã vui trở lại.

– Nhưng đớn đau thay, cùng với cảm xúc tìm lại được chính mình là một nỗi tủi thân. Mị đã có chồng nhưng người chồng ấy không tình yêu, không hạnh phúc. A Sử – kẻ khốn nạn ấy đã giam hãm cuộc đời Mị và dẫu “không có lòng với nhau mà cũng phải ở với nhau”. Cảm xúc ấy như gáo nước lạnh dội vào mặt, làm tan biến đi tất cả niềm vui sướng mà nãy giờ Mị chắt chiu gom góp. Còn gì đau khổ bằng lấy một người mà mình không có tình yêu. Còn gì đau khổ bằng phải sống với một kẻ vũ phu chỉ xem mình là món đồ chơi và bị khinh rẻ như súc nô. Mị lại tưởng đến nắm lá ngón, Mị ước ao có nắm lá ngón trong tay lúc này Mị sẽ ăn cho chết ngay chứ không buồn nhớ lại nữa, nhớ lại nước mắt chỉ ứa ra. Muốn chết để giải thoát nỗi đọa đày, muốn chết để thoát khỏi bi kịch, điều này dễ thông cảm nhưng hơn hết Tô Hoài đã mang đến cho người đọc sự lột xác của Mị. Muốn chết chính là biểu hiện của sức sống. Khi Mị đã hồi sinh, khó có thể nào chấp nhận được thực tại cay đắng này. Vậy là hơn một lần Mị tìm đến cái chết nhưng lần này thì sự hồi sinh trong con người tưởng như đã chết với tâm hồn, tư tưởng nhưng không phải. Sức sống ấy bỗng dưng ùa về, làm cô khao khát hơn bao giờ hết kiếp sống đáng sống, sống đúng với nghĩa của một con người. Đây phải chăng là tình yêu, lòng nhân đạo của tác giả đối với nhân vật.

– Không có lá ngón trong tay, tâm trạng Mị chợt xoay sang hướng khác. Khi tiếng sáo gọi bạn yêu ngoài kia đang réo rắt, khi mà cả thiên đường hạnh phúc của mùa xuân phía sau ô cửa nhỏ kia đang nồng nàn, thôi thúc trái tim Mị. Mị không thể ngồi yên được nữa. Mị phải đứng dậy! Mị hành động trong lặng lẽ. Lặng lẽ nhưng mãnh liệt. Mị đã thắp lên ngọn đèn trong căn phòng u ám, đặc cóng muộn phiền. Không phải bỗng dưng mà Tô Hoài chọn hành động thắp đèn làm hành động đầu tiên sau khi người con gái lặng câm ấy thức tỉnh, bởi trong hoàn cảnh này ngọn đèn như xua tan đi tất cả cái bóng tối u ám đang bao quanh cuộc đời Mị. Ngọn đèn thắp sáng tâm hồn Mị, đốt cháy cả nỗi khát khao vượt ra khỏi bức tường địa ngục để đến với thế giới ngoài kia đang dập dìu tiếng sáo. Nhà văn diễn tả thật sâu sắc khát vọng cháy bỏng của Mị bằng một đoạn văn ngắn nhưng giàu sự cảm thông. Câu văn ngắn, nhịp văn mạnh mẽ thể hiện sự trỗi dậy mãnh liệt của nhân vật “Mị quấn lại tóc. Mị với tay lấy cái váy hoa vắt ở phía trong vách”. Mị hành động thản nhiên, dù A Sử đang hiện diện trong căn buồng của Mị. Nhưng Mị không sợ, bóng ma thần quyền đã không thể làm gì Mị bởi sức sống trong con người ấy đang trỗi dậy mạnh mẽ. Nhưng đớn đau thay, sự độc ác tàn nhẫn của giai cấp thống trị miền núi đã dập tắt đi cái khát vọng và sự trỗi dậy đó của Mị, mà A Sử chính là kẻ đại diện. A Sử đã nhẫn tâm trói Mị bằng một thúng sợi đay, tóc Mị xõa xuống hắn cuốn luôn tóc Mị lên cột làm cho Mị không cúi, không nghiêng đầu được nữa. Sự đè nén, áp chế đến tàn nhẫn của bọn thống trị.

– Nhưng lúc này đây, Mị đâu còn sống bằng thể xác nữa mà Mị đang thực sự đang sống với tâm hồn. A Sử trói được thể xác của Mị nhưng không thể nào trói được tâm hồn cô. Thậm chí sự áp bức về thể xác càng lớn thì sự trỗi dậy của tinh thần càng mạnh mẽ. Bởi tâm hồn Mị đã vượt ra khỏi cái lỗ vuông bằng bàn tay kia để sống cùng đêm tình mùa xuân. Thể xác Mị nằm đây, giữa bốn bức tường câm lặng nhưng hồn Mị đang “đi theo những cuộc chơi những đám chơi”, mị còn nhẩm thuộc lòng trong đầu lời bài hát của người thổi sáo mà có lẽ đó cũng là bài hát và khúc nhạc sáo mà Mị thổi năm nào: “Em không yêu, quả pao rơi rồi. Em yêu người nào, em bắt pao nào ?”. Tâm hồn Mị ngập đầy tiếng sáo, ăm ắp những kỷ niệm đẹp tươi. Có lúc tiếng sáo nhập cả vào hồn Mị làm Mị bừng lên như ngọn lửa gặp cơn gió lớn “Mị vùng bước đi”. Hành động này cho thấy Mị không hề biết mình đang bị trói (hoặc có thể biết bị trói nhưng đã quên vì sức sống của tâm hồn lớn hơn nỗi đau thể xác). Nhưng rồi “tay chân đau không cựa được” lại đưa Mị về với hiện thực cay đắng “Mị thổn thức nghĩ mình không bằng con ngựa”- hiện thực khắc nghiệt của thực tại đè nặng làm cho Mị không thể sống với thế giới mộng tưởng của mình được. Nhưng sức sống ấy vẫn âm ỉ cháy dù đau đớn, tủi nhục.

– Suốt đêm, Mị lúc mê lúc tỉnh. Lúc mê thì sống trong “hơi rượu tỏa” cùng tiếng sáo mênh mang gọi bạn tình. Lúc tỉnh thì “nồng nàn tha thiết nhớ”. Rất tài tình thì nhà văn mới có thể miêu tả được tâm trạng của nhân vật lúc này bởi nhân vật không sống với cái xác mà sống với hồn cốt và sống với hoài niệm trong tâm trí của mình, một trạng thái chập chờn giữa cơn tỉnh, cơn mơ. Có một chi tiết lại xuất hiện như một dấu hiệu thức tỉnh của nhân vật. Đó là hình ảnh giọt nước mắt của Mị. Mị đã khóc ròng rã hàng tháng trời khi bị bắt về làm dâu nhà thống lí. Nhưng cũng đã bao ngày tháng Mị không khóc, cũng không còn buồn nữa. Và cho đến tận bây giờ giọt nước mắt ấy lại chảy ra, phải chăng đó là dấu hiệu một tâm hồn, một sức sống đã hồi sinh thực sự. Chi tiết này có lẽ Tô Hoài đã bắt gặp Nam Cao, bởi các nhân vật của Nam Cao cũng có những giọt nước mắt của sự bừng tỉnh : Hộ khóc, Chí Phèo khóc, Thứ khóc… Mị khóc, Mị đã hồi sinh để nhận ra bi kịch của cuộc đời mình. Mị khóc nhưng rồi « Mị nín khóc, Mị lại bồi hồi ». Câu văn đồng thời đan xen cả hiện tại và quá khứ, giữa tỉnh và say, giữa thực và mơ. Cả đêm hôm đó Mị sống trong trạng thái khi tỉnh khi mê. Cho tận đến sáng, có lẽ đó là lúc hơi rượu đã nhạt, tiếng sáo đã ngừng và đêm tình mùa xuân cũng tàn thì Mị mới choàng tỉnh.

* Nhận xét: Có một chi tiết rất đắt khi nhà văn kết thúc diễn biến tâm trạng của Mị trong đêm tình mùa xuân. Đó là chi tiết: Mị tỉnh dậy và nhớ lại câu chuyện người đàn bà bị chồng trói chết trong căn nhà này. Và Mị đã sợ, sợ chết “Mị cựa quậy xem thử mình còn sống hay đã chết”. Sợ chết là biểu hiện của lòng ham sống. Vậy là sức sống trong con người khốn khổ ấy đã không lụi tàn mà ngược lại vẫn mãnh liệt như những đợt sóng ngầm gầm gào trong lòng đại dương tưởng như không gì có thể dập tắt nổi. Nói như nhà văn Lỗ Tấn “Một tia lửa hôm nay báo hiệu một đám cháy ngày mai”. Chắc chắn đợt sóng ngầm ấy sẽ hứa hẹn trở thành bão táp của ngày mai. Đó là đêm cởi trói cho A Phủ một năm sau đó.

→ Sức sống tiềm tàng trong nhân vật Mị đã có cơ hội đánh thức sau bao ngày bị vùi chôn trong đọa đày. Nó đủ kéo Mị ra khỏi vỏ bọc của một con rùa rụt cổ, của một cái bóng vô hồn, của một vật vô tri vô giác trong nhà Pá Tra. Thậm chí là đủ để cho nhân vật có thể phản kháng với thực tại, cho dừ sự phản kháng ấy còn yếu ớt. Nhưng nó là tín hiệu dự báo sự đột phá của nhân vật trong cuộc vùng dậy cởi trói cho A Phủ và giải thoát chính bản thân, tìm sự sống cho mình.

7. Diễn biến tâm lí của Mị trong đêm giải cứu A Phủ.

* Nhân vật A Phủ.

A Phủ cũng là nạn nhân của việc cho vay nặng lãi, A Phủ trở thành trâu ngựa trong nhà Pá Tra. Hai số phận nhưng một cảnh ngộ. Họ là nô lệ, ăn đời ở kiếp cho lũ nhà giàu. Vì để hổ bắt mất một con bò, mạng sống của A Phủ bị treo lên giá chết. Án tử đang đợi A Phủ từng phút từng giây.

  • Mị với hiện tại:

Đêm tình mùa xuân, như cơn gió thoảng qua đời Mị, cô lại tiếp tục quay về kiếp sống trâu ngựa tại nhà thống lí – vô hồn, vô cảm. Đó là những đêm mùa đông trên núi cao dài và buồn. Mị thức dậy và sống cùng ngọn lửa. Mị vẫn câm lặng trong nỗi cô đơn. Lửa cũng cô đơn. Hai kẻ cô đơn ấy sưởi ấm cho nhau. Nhìn thấy A Phủ bị trói đứng như thế, Mị cũng bình thản, bình thản một cách lạ lùng đến nhẫn tâm. Thậm chí nếu A Phủ là cái xác chết ở đó thì Mị vẫn như vậy mà thôi, vẫn dậy sưởi lửa mà như không hay. Phải chăng “Sống lâu trong cái khổ Mị quen khổ rồi” nên Mị không còn nhận ra nỗi khổ của người khác. Bởi khi con người ta không còn biết thương đến bản thân mình thì không thể yêu thương người khác được.

  • Nhân tố tác động làm bừng tỉnh Mị.

Đã mấy ngày A Phủ bị trói đứng ở cột: chịu đau, chịu đói, chịu rét nhưng không một tiếng kêu nài, van xin. Chỉ khi dòng nước mắt của A Phủ “bò xuống hai hõm má đã xám đen lại”, dấu hiệu của thần chết đã xuất hiện trên khuôn mặt người nô lệ ấy, thì trái tim Mị mới bừng tỉnh, lòng thương người trong Mị mới trỗi dậy. Nhưng không phải nhìn thấy dòng nước mắt của A Phủ mà Mị đã cảm thương con người này, đó là cả một quá trình diễn biến tâm lý đầy phức tạp trong Mị mà Tô Hoài đã miêu tả thật tinh tế.

  • Diễn biến tâm lí của Mị trong đêm giải cứu A Phủ.

Chính “dòng nước mắt lấp lánh ấy” đã làm tan chảy lớp băng giá lạnh trong lòng Mị. Lúc này đây, Mị mới thấm thía được nỗi cùng cực của kiếp người.

– Khi nhìn thấy dòng nước mắt ấy “lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại”, Mị chợt nhớ ngay lại đêm năm trước A Sử cũng trói đứng Mị như vậy và cô thấy thương mình. Mị hình dung lại chuỗi ngày ê chề dài dằng dặc của cuộc đời mình. A Phủ sao mà giống Mị thế, Mị cũng từng bị A Sử trói đứng thế kia, có «nhiều lần khóc nước mắt rơi xuống miệng, xuống cổ không biết lau đi được».

– Mị chợt nhận ra người ấy giống mình về cảnh ngộ, mà những người cùng cảnh ngộ rất dễ cảm thông cho nhau. Mị căm phẫn khi nhớ lại người đàn bà bị trói chết trong căn nhà này. Mị càng căm phẫn càng uất hận “chúng nó thật độc ác”. Mị nhận ra kẻ gieo rắc nỗi khổ. Chúng nó – cha con thống lí Pá Tra, những kẻ đại diện cho thế lực phong kiến miền núi chuyên bóc lột, áp bức nhân dân. Nhớ đến những chuyện ngày trước, Mị lại trở về với hiện tại, Mị đau khổ cay đắng cho thân phận của mình: “Ta là thân đàn bà chúng nó đã bắt ta về trình ma nhà nó rồi thì chỉ còn biết đợi ngày rũ xương ở đây thôi”.

– Khi không tìm được lối thoát cho mình nhưng trong Mị tình người đã trỗi dậy, bởi đồng cảnh ngộ nên Mị hiểu nỗi khổ mà A Phủ đang phải gánh chịu, thậm chí là đang đối mặt, cận kề với cái chết nên Mị không thể làm ngơ. Mị không có quyền bỏ mặc người khác. Lý trí mách bảo Mị rằng phải cứu A Phủ. Trái tim nhân ái đã thôi thúc Mị phải hành động. Nhưng Mị chợt chùn lại. Mị giằng xé dữ dội giữa mạng sống của mình và người đồng cảnh ngộ. Có thể Mị cứu được A Phủ nhưng chính Mị sẽ lại phải chết trên cái cọc ấy. Nhưng Mị nào đâu thấy sợ, bởi giờ đây, lòng thương người đã lớn hơn tất cả mọi nỗi sợ hãi.

– Khi lòng thương, tình yêu đủ lớn nó sẽ có sức mạnh để áp đảo mọi thế lực, thậm chí là đánh đổi cả mạng sống của mình cho người khác. Mị táo bạo, Mị quyết liệt, Mị nổi loạn. Chính hành động cắt dứt sợi dây trói đã phần nào cho thấy vẻ đẹp sức sống của Mị. Đó chính là sức sống của cô gái Mèo dám dứng lên đương đầu với lũ ác thú. Dù còn mang tính tự phát nhưng đó là dấu hiệu dự báo cho thấy được sự bừng tỉnh của những con người nô lệ đang đi theo tiếng gọi của cách mạng. Có ai ngờ được rằng Mị cắt đứt dây trói cho A Phủ cũng là vô tình cắt đi sợi dây oan nghiệt trói buộc cuộc đời mình. Mị đã làm một cuộc cách mạng tất yếu.

– Giây phút đứng lặng trong bóng tối là Mị sống trong sự ngổn ngang trăm mối, rối bời: chạy theo A Phủ hay ở đây chờ chết? Khi đã cứu được người, A Phủ đã được tự do, được sống thì cũng là lúc tình thương người trong Mị hoàn thành bổn phận. Giờ đây chỉ còn lại mình Mị với số phận đã an bài và một cái chết đang chờ đón. Khi con người ta đang đứng giữa ranh giới mà sự sống và cái chết chỉ cận kề trong gang tấc thì bản năng sinh tồn của con người sẽ trỗi dậy. Mị hành động theo bản năng tất yếu. Cuối cùng tiếng gọi của tự do và sức sống tiềm tàng đã thôi thúc Mị phải sống và Mị vụt chạy theo A Phủ. Mị vụt chạy ra..Mị băng đi…như đi tìm sự sống và tự do cho chính mình. Những bước chân của hai con người khốn khổ ấy băng qua đêm tối như đạp đổ cường quyền, thần quyền của bọn lãnh chúa phong kiến đương thời đã đè nặng tâm hồn họ bao năm qua. Ta hãy nghe Mị nói sau bao nhiêu năm câm nín: “A Phủ. Cho tôi đi!… Ở đây thì chết mất”. Có lẽ chưa bao giờ niềm khao khát sống và khát khao tự do đến với Mị mãnh liệt như lúc này. Hành động cắt dây trói cho A Phủ nhưng cũng chính Mị tự tay cắt đứt bao sợi dây của cường quyền, thần quyền đã trói buộc mình. Tiếng gọi tự do đang vẫy chào họ phía trước, nơi họ đến là Phiềng Sa vùng đất hứa còn Hồng Ngài hôm nay còn chăng là những ngày buồn đau, tủi nhục trong quá vãng.

8. Ý nghĩa hành động Mị cắt dây trói cho A Phủ.

Đây không phải là hành động mang tính bản năng. Đúng hơn, cùng với sự trỗi dậy của ký ức, khát vọng sống tự do, đã khiến Mị chạy theo A Phủ. Mị giải thoát cho A Phủ và giải thoát cho bản thân mình! Hành động táo bạo và bất ngờ ấy là kết quả tất yếu của sức sống tiềm tàng khi người con gái dám chống lại cả cường quyền và thần quyền. Hành động này đã được dự báo, dự đoán trong quá khứ khi Mị khóc lúc mới về làm dâu nhà Pá Tra, Mị định lấy lá ngón tự tử, khi Mị hừng hực sức sống trong mùa xuân năm trước để năm nay Mị đủ sức cầm con dao cắt dây trói cho A Phủ. Giải cứu A Phủ là Mị giải cứu chính mình. Sức sống mãnh liệt của người con gái ấy vượt lên trên cả cường quyền, thần quyền thậm chí là chấp nhận cả cái chết để đánh đổi một cuộc sống đáng sống, và được sống là chính mình. Hành động này là biểu hiện đầy đủ nhất, cao nhất của nhân vật Mị mà tác giả Tô Hoài đã dày công phân tích đầy lô gic và thyết phục.

Thành công của nhà văn khi miêu tả sự hồi sinh của nhân vật đó chính là nhờ vào nghệ thuật trần thuật hấp dẫn. Phân tích tâm lí nhân vật sắc sảo. Cách dựng cảnh sinh động. Cách lột tả nội tâm nhân vật nhiều bất ngờ thú vị. Ngôn ngữ mộc mạc giản dị. Tất cả đã tạo nên giá trị nhân văn sâu sắc của tác phẩm, góp phần mang đến cho người đọc sự xúc động mãnh liệt trước số phận của đồng bào miền núi Tây Bắc dưới ách thống trị của bọn chủ nô và lũ Tây đồn.

→ Khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc luôn tiềm ẩn trong sâu thẳm tâm hồn nhân vật. Nó như ngọn lửa vẫn đang âm ỉ cháy dưới lớp tro tàn nguội lạnh và chỉ cần một làn gió mát lành thổi tới là có thể bùng cháy một cách mãnh liệt. Những tác động ngoại cảnh là yếu tố không nhỏ để khơi lên sức sống tiềm tàng của Mị. Đó cũng chính là tinh thần nhân văn của tác phẩm mà Tô Hoài gửi gắm.

III. Kết bài:

Qua hình tượng nhân vật Mị, điều Tô Hoài muốn nhắn nhủ chính là sức sống mãnh liệt của người con gái ấy. Không một thế lực nào có thể dập tắt nó, thậm chí nếu càng đè nén, càng áp bức thì đến một lúc nào đó nó sẽ trỗi dậy mạnh mẽ hơn. Đồng thời nhà văn cũng ca ngợi vẻ đẹp của những cô gái dân tộc Mèo xinh đẹp, tài hoa và hiếu thảo. Vẻ đẹp chân chất, giản dị như những bông hoa ban nơi núi rừng Tây Bắc để lại thương nhớ nhiều không chỉ cho nhà văn mà còn để thương để nhớ cho bạn đọc mãi mãi về sau.

PHÂN TÍCH NHÂN VẬT A PHỦ.

I. Mở bài:

“Vợ chồng A Phủ” là một truyện ngắn được rút ra từ tập “Truyện Tây Bắc” của Tô Hoài viết vào năm 1953 ngay sau chuyến thâm nhập thực tế của tác giả. Truyện đã được tặng giải nhất của Hội Văn nghệ Việt Nam 1954 – 1955. Đấy là truyện ngắn đặc sắc nhất của Tô Hoài nói riêng và của văn xuôi chống Pháp nói chung, tác phẩm là một bức tranh chân thực về cuộc sống và thân phận khổ đau của những người nông dân nghèo miền núi dưới ách áp bức, bóc lột của thực dân, phong kiến, đồng thời là bài ca về phẩm chất, sức sống, khát vọng tự do của con người lao động miền núi, là hình ảnh con đường giải phóng và sự đổi đời của họ. Tiêu biểu cho những con người ấy là A Phủ, một trong hai nhân vật thành công nhất của Tô Hoài trong truyện ngắn này.

II. Thân bài:

1. Cách giới thiệu nhân vật.

Trong tác phẩm tác giả không giới thiệu nhân vật A Phủ theo trình tự tuyến tính của thời gian mà để cho nhân vật xuất hiện đầy bất ngờ, đường đột trong một cuộc hỗn chiến với A Sử.

A Sử vốn là con quan, nên dù có vợ rồi, nó vẫn muốn đi bắt vài đứa con gái nữa về làm vợ. Chỉ cần nhìn thấy chiếc vòng bạc ở cổ rủ xuống những tua chỉ xanh đỏ là không ai dám động vào. Có lẽ vì thế mà A Sử tha hồ ngông ngược quậy phá. Nó vào làng trêu con gái, thậm chí còn đánh cả trai làng. Mâu thuẫn đã diễn ra từ đêm hôm trước, và được giải quyết vào sáng hôm sau. A Sử dẫn đầu nhóm đến để tìm trai làng, còn trai làng dẫn đầu là A Phủ. Chỉ cần nhìn thấy bọn A Sử trai làng đã xôn xao và cất tiếng gọi A Phủ: A Phủ đâu? A Phủ đánh chết nó đi! Không phải ngẫu nhiên mà A Phủ lại được gọi tên lên trong một nhóm các trai làng. Hẳn là vị trí của A Phủ không đơn giản như những chàng trai kia. Điều này phần nào bộc lộ phẩm chất con người, bản tính của A Phủ. Cách để nhân vật xuất hiện với những câu hỏi bỏ ngỏ lại trong lòng người đọc khiến cho họ phải cuốn theo mạch truyện để tìm hiểu rõ ngọn nguồn về nhân vật.

A Phủ hiện lên rất chân thực, sống động và mạnh mẽ trong trận trả đũa A Sử. Thân hình là một chàng trai to lớn. Với hàng loạt những động từ mạnh mà tác giả sử dụng rất đắc địa trong những câu văn với các vế câu ngắn, nhanh, mạnh, ngắn gọn, gấp gáp: A Phủ chạy vụt ra ném con quay rất to vào mặt A Sử. A Phủ xộc tới, nắm cái vòng cổ, kéo dập đầu xuống, xé vai áo, đánh tới tấp. Với những hành động của A Phủ người đọc nhận thấy rất nhiều gợi ý về con người này. Không chỉ là một sức mạnh của một con người cường tráng. Mà đó còn là phẩm chất của một con người thấy chuyện bất bình không bỏ qua. Thậm chí khi biết đó là con quan nhưng cũng không sợ. Thậm chí A Phủ biết đánh con quan là mắc tội chết, nhưng vẫn làm vì bản tính của một con người ngay thẳng không chịu khuất phục trước cường quyền. Với những hành động mà A Phủ đánh A Sử còn cho thấy sức mạnh từ nội tại bên trong một con người – một Lục Vân Tiên của thời hiện đại. Lần theo thời gian, tác giả đưa ta về với tuổi thơ đầy sóng gió của A Phủ.

2. Lai lịch của A Phủ.

Đó là một chàng trai phải chịu đựng một tuổi thơ bơ vơ đau khổ. A Phủ quê ở Háng-bla, vừa mới lên mười tuổi đầu đã phải gánh chịu một tai họa khủng khiếp. Trận dịch đậu mùa tràn đến làm cho trẻ con, người lớn chết. Nhà A Phủ, cha mẹ, anh chị em cũng bị chết hết, chỉ con sót lại một mình A Phủ – một mầm sống khỏe. Làng chết nhiều quá, có người làng đói bụng đã bắt A Phủ đem xuống bán đổi lấy thóc của người Thái dưới cánh đồng. Là một thiếu niên có tính gan bướng, không chịu ở dưới cánh đồng thấp, A Phủ đã trốn lên núi cao khác, lưu lạc đến Hồng Ngài. Đi làm cho nhà người khác để sống, lần nữa mùa này sang mùa khác, dù sống trong cảnh cực khổ, cô đơn, nhưng chẳng bao lâu A Phủ trưởng thành với biết bao những phẩm chất tốt đẹp của người lao động miền núi. A Phủ cứ thế lớn lên và trưởng thành với núi rừng Tây Bắc và mang đầy đủ, trọn vẹn những phẩm chất tốt đẹp của những con người nơi đây.

3. Phẩm chất của A Phủ.

A Phủ là một chàng trai người Mèo có nhiều phẩm chất tốt đẹp của người lao động. A Phủ sớm tự khẳng định tính cách gan góc, một mình kiếm sống, học hỏi đủ thứ nghề “biết đúc lưỡi cày, biết đúc cuốc, lại cày giỏi và săn bắn bò tót rất bạo”. Khi lớn lên, A Phủ chẳng những hiền lành, lao động giỏi mà còn có sức khỏe hơn người: “công việc làm hay đi săn, cái gì cũng làm phăng phăng…”, “A Phủ chạy nhanh như ngựa”.Vượt lên trên hoàn cảnh khắc nghiệt, A Phủ vẫn sống một cuộc sống phóng khoáng, hồn nhiên, yêu đời, tự tin của tuổi trẻ. “Đang tuổi chơi, trong ngày Tết đến, dù chẳng có quần áo mới như trai khác, A Phủ chỉ có độc một chiếc vòng cổ, A Phủ cứ đi chơi cùng trai làng, đem sáo, khèn, con quay và cả quả pao đi tìm người yêu ở các làng trong rừng”. Bởi vậy được nhiều người con gái trong làng mê và trở thành niềm ao ước của biết bao cô gái. Họ kháo với nhau: “đứa nào được A Phủ cũng bằng được con trâu tốt trong nhà, chẳng mấy chốc mà giàu”. Với tập tục, phép làng, lễ cưới xin khắc nghiệt của xã hội phong kiến miền núi đương thời, A Phủ, chàng trai không cha không mẹ, không ruộng nương, không tiền bạc ấy, làm sao có thể lấy nổi vợ, làm gì có gia đình, hạnh phúc?

4. Con đường đẩy A Phủ vào kiếp nô lệ.

Đau khổ hơn nữa, A Phủ là đứa con của núi rừng, tự do mà vẫn không thoát khỏi kiếp sống nô lệ. Do tính tình phóng khoáng, bướng bỉnh và yêu lẽ phải, chính nghĩa nên A Phủ đã dám đánh lại con quan. Hành động dữ dội đó của A Phủ còn có nguyên cớ sâu xa từ một mối thù giai cấp gay gắt. Sau đó A Phủ bị cha con thống lí Pá Tra và bọn tay sai bắt và đánh đập vô cùng tàn bạo, dã man hơn cả thời trung cổ.

* Cảnh xử kiện có một không hai.

– Thành phần xử kiện.

Thông thường khi xử kiện thì có bên nguyên, bên bị, có người làm chứng, có quan phân xử. Ở cuộc xử kiện này có đầy đủ những thành phần đó nhưng sắp xếp đầy phi lí. Người kiện chính là A Sử, người xử kiện lại là thống lí Pá Tra đồng thời cũng là người cho vay tiền. Cán cân công lí đã xoay vần theo sức mạnh của quyền lực và tiền bạc.

– Cảnh xử kiện.

Xử kiện thì phải diễn ra chốn công đường thâm nghiêm, minh bạch. Tất cả phải tỉnh táo về tinh thần. Ấy vậy mà cuộc xử kiện diễn ra ngay trong nhà Pá Tra. Và điều đặc biệt hơn nữa là ở đó lại chuẩn bị một tiệc cỗ và tiệc hút. Các quan chức, thống quán, xéo phải kéo đến ăn cỗ, hút thuốc phiện và đánh đập A Phủ suốt từ trưa đến hết đêm: “càng hút, càng tỉnh, càng đánh, càng chửi, càng hút”. Người bị xử, là trung tâm của buổi xử kiện thì không được nói một lời nào. Cứ mỗi lần bọn chức việc hút xong A Phủ lại quỳ trước nhà, lại bị người xô đến đánh. Mặt A Phủ sưng lên, môi và đuôi mắt dập chảy máu. Hai đầu gối sưng bạnh ra như mặt hổ phù”. Người thì đánh, người thì quỳ lạy, kể lể, chửi bới. Cứ liên tục quay vòng những hành động: Xong một lượt đánh, kể, chửi, lại hút. Và không chỉ diễn ra trong chốc lát cảnh tượng xử kiện hãi hùng này mà nó kéo dài suốt chiều, suốt đêm. Đúng là cảnh tượng xử kiện có một không hai trong lịch sử văn học. Sự bất công, độc ác trong cuộc xử kiện đã lột trần bộ mặt thật của bọn chúa đất phong kiến miền núi.

Như vậy dưới ách thống trị tàn bạo và khắc nghiệt của lũ chúa đất, cuộc sống của người dân nghèo miền núi thật thảm thương, họ bị đánh đập hành hạ như một con vật. Tuy vậy A Phủ không hề khóc lóc, van xin mà trái lại vẫn tỏ ra cứng rắn, gan dạ “A Phủ quỳ chịu đòn chỉ im lặng như tượng đá”.

– Kết quả cuộc xử kiện.

Cuối cùng, với cách xử kiện quái gở, A Phủ đã bị phạt làm nô lệ suốt đời không công cho nhà thống lí. Đáng ra với tội đánh con quan thì A Phủ sẽ bị xử tội chết nhưng A Phủ được tha cho mạng sống để làm nô lệ để trả nợ cho Pá Tra “đời mày, đời con mày, đời cháu mày tao cũng bắt thế, bao giờ trả hết nợ mới thôi”. Và số tiền mà A Phủ phải vay để thiết đãi các quan làng xử kiện là 100 đồng bạc trắng. Không có tiền phải vay nhà thống lí. Cảnh thống lí cho A Phủ vay tiền cũng nghịch lí không kém gì cảnh xử kiện. Pá Tra lấy tráp ở ngăn bàn ra, để mở trăm bạc trắng rồi đưa cho A Phủ sờ tay vào coi như đã nhận tiền rồi cúng trình ma nhận mặt con nợ. Vẫn là một lối mòn cũ, giống như đã làm với Mị: dùng cường quyền để ép A Phủ, sau đó dùng thần quyền để mê hoặc: cúng trình ma để con nợ không còn có ý định trốn thoát nữa. A Phủ trở thành tên nô lệ chung thân bị khinh rẻ, bị ngược đãi trong vòng kiểm soát của thống lí Pá Tra.

5. Cuộc sống của A Phủ ở nhà thống lí.

Từ đây A Phủ sống cuộc đời của thân phận nô lệ, bị thống lí bòn rút sức lao động “đốt rừng, cuốc nương, săn bò tót, bẫy hổ, chăn bò, ngựa quanh năm một thân một mình, rong ruổi ngoài gò ngoài rừng”.Quanh năm A Phủ bôn ba một thân một mình rong ruổi ngoài gò ngoài rừng. Với sức vóc của một chàng trai khỏe mạnh, lại biết công biết việc nên công việc làm hay đi săn cứ đi phăng phăng. Điều đặc biệt là chúng ta tự hỏi vì sao một chàng trai khao khát tự do, không chịu gò mình vào khuôn phép nào lại chấp nhận sống kiếp nô lệ cho nhà thống lí? Phải chăng cũng vì công việc mà A Phủ đang làm vẫn đảm bảo cho chàng trai này cuộc sống tự do như mong đợi, vẫn như ngày chưa đi ở cho nhà Pá Tra. Tự do giữa núi rừng với thiên nhiên, cây cỏ, muông thú.

6. Bi kịch tính mạng và số phận của A Phủ.

Nếu cuộc đời làm nô lệ của A Phủ cứ thế trôi đi êm đềm thì chắc chẳng bao giờ có thêm bước ngoặt nào trong cuộc đời chàng trai này. Nhưng cuộc đời là sóng gió, là phong ba, chỉ với một việc cỏn con mà tính mạng của A Phủ bị đe dọa…

Vào mùa năm đó, khi hổ, gấu đang đói, chúng kéo từng đàn ra phá nương, bắt bò ngựa, do mải mê bẫy nhím nên A Phủ đã để hổ vồ mất một con bò. Bi thảm và tuyệt vọng hơn nữa khi tính mạng của A Phủ sống hay chết lại được quyết định bởi bàn tay tàn bạo của thống lí Pá Tra. Thống lí quát thẳng vào mặt A Phủ “Quân ăn cướp làm mất bò tao…” rồi sai A Phủ lấy cái cọc, tự đóng cọc, và lấy dây mây để trói mình. Pá Tra bắt và cuộn dây mây cuốn từ chân lên vai trói đứng A Phủ. Nếu không bắt được hổ đem về thì cho A Phủ “đứng chết ở đấy”. Người đọc có lẽ cảm giác thấy đau đớn, xót xa bởi mạng sống của một con người mà không bằng một con bò – quá rẻ mạt. Con người không được làm chủ cuộc đời, không bảo vệ được sinh mạng của mình. Đó là lời tố cáo chế độ xã hội đương thời đã bóp nghẹt quyền sống của con người. A Phủ hay Mị đều một thân phận nô lệ như nhau.

Sau mấy ngày bị “trói đứng ở trong góc nhà”, “chỉ đứng nhắm mắt” và thần chết đã đặt tay lên hai hõm má xám lại vì tuyệt vọng và khổ đau của A Phủ. Cận kề bờ vực của cái chết: “Cơ chừng chỉ đêm mai là người kia chết đau, chết đói, chết rét, phải chết”. Một câu văn với sự dự đoán nhưng như lời khẳng định chắc nịch theo các thành phần vị ngữ được ngắt ra dứt khoát: chết đau, chết đói, chết rét, phải chết. Còn nỗi đau nào lớn hơn khi con người ta ý thức được rằng mình sẽ chết, sắp chết, chứng kiến cái chết đang lan khắp cơ thể mà đành bất lực tuyệt vọng. Không có một con đường nào khác. Đó là bi kịch của số phận một con người. Miêu tả cuộc sống khổ cực đau thương, tủi nhục của A Phủ, Tô Hoài một mặt đồng cảm xót thương với thân phận khổ đau của người lao động miền núi, một mặt khác vừa vạch trần bộ mặt tàn bạo, dã man của bọn chúa đất đã vùi dập không tiếc thương sự sống của họ.

7. Sức sống mãnh liệt trỗi dậy khi cận kề cái chết.

Tuy vậy, với khát vọng sống mãnh liệt, với bản chất gan góc, bất khuất sẵn có đã tiềm ẩn trong dòng máu của mình, A Phủ không chịu tìm cái chết mà tìm mọi cách tự giải thoát. “Đến đêm, A Phủ cúi xuống nhay đứt hai vòng mây, nhích giãn dây trói một bên tay”. Nhưng nếu một mình, với chút sức lực yếu đuối của mình thì A Phủ không thể tìm được lối thoát trong thân phận của một người nô lệ. Và khi có sự trợ giúp của Mị, cả hai đã đứng lên tự giải phóng và tìm được đường đi cho mình, thoát khỏi kiếp sống nô lệ. A Phủ đã bị trói đứng mấy ngày, không được ăn uống, lại chịu cái lạnh cắt da cắt thịt của vùng núi cao Mị tưởng A Phủ đã chết rồi nếu không thấy A Phủ mở mắt và nước mắt bò xuống hai hõm má. Lúc ấy, mị thấy A Phủ thở phè phè, không biết là mê hay tỉnh. Nhưng với quá trình đấu tranh tâm lí đầy giằng xé của mình, Mị đã quyết định tiến lại gần cầm dao cắt nút dây mây, cởi trói cho A Phủ. Bản thân Mị cũng hốt hoảng nhưng cuối cùng hành động đó cũng xảy ra. Dù Mị chỉ thì thào một tiếng “đi ngay”. Khi vừa cởi được dây trói thì “A Phủ khuỵu xuống, không bước nổi”. Ta cứ tưởng khi Mị cắt dây trói A Phủ sẽ gục ngã, nhưng không, khi đứng giữa ranh giới của sự sống và cái chết, thậm chí là cái chết đang cận kề thì bản năng sống của con người sẽ trỗi dậy, bùng lên mạnh mẽ mà không một thế lực nào cản trở nổi. “A Phủ đã quật sức vùng lên, chạy xuống dốc núi”.

Với A Phủ lúc này chỉ có con đường chạy trốn mới tìm được lối thoát cho cuộc đời, mới giữ được tính mạng và giải phóng khỏi kiếp nô lệ. A Phủ và Mị trốn khỏi Hồng Ngài, tới khu du kích Phiềng Sa, gặp cán bộ A Châu. A Phủ và Mị lần lượt trở thành chiến sĩ du kích, tích cực tham gia vào cuộc đấu tranh giải phóng hoàn toàn cuộc đời mình, bản làng quê hương mình. Từ đấu tranh tự phát A Phủ và Mị tiến dần đến cuộc đấu tranh tự giác. Nếu đứng lên đấu tranh đơn lẻ, một mình sẽ không bao giờ giành được thắng lợi, nhưng nếu biết đoàn kết hợp sức nhau lại thì thắng lợi sẽ nằm trong tầm tay. Minh chứng là cuộc sống đổi thay của nhân dân vùng núi Tây Bắc khi cách mạng về, tập hợp quần chúng nhân dân dưới lá cờ thống nhất của Đảng lãnh đạo và đưa cuộc cách mạng đi hết thắng lợi này đến thắng lợi khác bằng sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân.

III. Kết bài:

Khắc họa nhân vật thông qua những hành động, A Phủ hiện lên trong tác phẩm như một nhân vật anh hùng cổ trang, kiếm lời mà sống động. Dù số phận của Mị và A Phủ có những điểm chung nhưng cách miêu tả và khắc họa chân dung hai con người thì không giống nhau. Nhưng đó là số phận tiêu biểu cho người dân vùng cao Tây Bắc. Từ bóng tối của cuộc đời đau khổ tủi nhục, họ đã vươn tới ánh sáng rực rỡ của nhân phẩm, của tự do và cách mạng. Đó cũng là giá trị nhân đạo mới mẻ, sâu sắc của tác phẩm giàu chất thơ này.

BỨC TRANH HIỆN THỰC VỀ ĐỜI SỐNG CỦA ĐỒNG BÀO DÂN TỘC MIỀN NÚI.

  • Mở bài:

Tô Hoài là một trong những nhà văn tiêu biểu của nền văn xuôi Việt Nam hiện đại. Sáng tác của ông thường đầy ắp các chất liệu của đời sống hiện thực. Ông có vốn hiểu biết sâu sắc về đời sống và phong tục tập quán của nhiều vùng trên đất nước ta, trong đó có vùng đất Tây Bắc. “Vợ chồng A Phủ” trích trong tập “Truyện Tây Bắc” là một trong những truyện ngắn đặc sắc của Tô Hoài viết về vùng đất này. Truyện được ra đời sau một chuyến đi kéo dài nhiều tháng khi Tô Hoài cùng bộ đội lên giải phóng Tây Bắc năm 1952. Cuộc sống, con người và phong cảnh nơi đây đã để lại trong ông nhiều tình cảm đặc biệt sâu sắc. Nó trở thành nguồn cảm hứng chủ yếu để ông viết nên truyện ngắn này.

  • Thân bài:

“Vợ chồng A Phủ” là câu chuyện viết về những người dân lao động vùng cao Tây Bắc không cam chịu bọn thực dân, chúa đất áp bức, đày đọa, giam hãm trong cuộc sống tối tăm vùng lên phản kháng, đi tìm cuộc sống tự do. Nó đã khắc họa chân thực những nét riêng biệt về phong tục, tập quán, tính cách và tâm hồn người dân, các dân tộc thiểu số bằng một giọng văn nhẹ nhàng, tinh tế, đượm màu sắc và phong vị dân tộc, vừa giàu chất tạo hình, vừa giàu chất thơ. Truyện ngắn đã để lại rất nhiều ấn tượng sâu sắc trong lòng độc giả. Có ý kiến cho rằng: “ Qua truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ”, Tô Hoài đã dựng lên một bức tranh hiện thực về đời sống của đồng bào dân tộc miền núi Tây Bắc, đồng thời nhà văn chỉ ra con đường giải phóng cho người lao động có cuộc đời tăm tối và số phận bi thảm”.

Đúng vậy, ý kiến đó đã phản ánh một cách chân thực về giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo của tác phẩm. Ý kiến “Tô Hoài đã dựng lên một bức tranh hiện thực về đời sống của đồng bào dân tộc miền núi Tây Bắc” chỉ là một khía cạnh nhỏ trong giá trị hiện thực của tác phẩm. Nhưng nó đã cho thấy rõ nét cái tàn bạo, độc ác của bọn chúa đất, bọn thực dân (cha con Thống lí Pá Tra). Đồng thời cũng cho thấy cái số phận, nỗi thống khổ của người dân khi phải sống dưới ách thống trị của chúng (nhân vật Mị và A Phủ).

Trước hết, đối với nhân vật Mị, mở đầu tác phẩm, tác giả đã miêu tả hình dáng người con gái ngồi quay sợi gai bên tảng đá trước cửa, cạnh tàu ngựa. “Lúc nào cũng vậy, dù quay sợi, thái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi hay đi cõng nước dưới khe suối lên, cô ấy cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi”. Một cô gái cô độc, âm thầm, gần như lẫn vào các sự vật vô tri: cái quay sợ, tảng đá, tàu ngựa, … trong khung cảnh đông đúc, tấp nập của nhà quan Thống lí. Là con dâu của một gia đình quyền thế có “nhiều nương ngô, nhiều bạc, nhiều thuốc phiện nhất làng”, vậy tạo sao lúc nào cô ấy cũng buồn? Tác giả đã tạo ra tình huống có vấn đề để dẫn dắt người đọc cùng tìm hiểu số phận của nhân vật Mị trong truyện.

Mị là một cô gái có nhiều thiệt thòi. Cô là con gái lớn trong một gia đình nghèo ở vùng cao Tây Bắc, mồ côi mẹ từ nhỏ, lớn lên trong vòng tay che chở của cha. Khi lớn lên, Mị trở thành một thiếu nữ xinh đẹp, một bông hoa của núi rừng, đã làm say lòng bao chàng trai Tây Bắc: “Trai đến đứng nhẵn cả chân vách đầu buồng Mị”. Mị có tài thổi sáo bằng lá, thổi kèn lá hay như thổi sáo, khiến cho trai làng “ngày đêm đã thổi sáo đi theo Mị”. Là một cô gái toàn vẹn cả sắc lẫn tài như vậy, lẽ ra cô phải được hưởng một cuộc sống hạnh phúc. Nhưng vì nhà nghèo nên cô không được sống như mong ước. Vì món nợ từ thời cha mẹ để lại, cô bị lừa và bị bắt về làm dâu gạt nợ cho nhà Thống lí Pá Tra. Ban đầu cô phản kháng: “Có đến hàng mấy tháng, đêm nào Mị cũng khóc”. Mị đã định ăn lá ngón tự tử. Trước khi chết cô đã về lạy cha, nhưng lời kêu van thống thiết của người cha già đã khiến Mị phải nuốt nỗi cay đắng, tủi nhục vào lòng, đành quay trở lại nhà Thống lí. Thương người cha già, Mị không còn ý định tự tử nữa.

Quãng đời của Mị sống với A Sử là những ngày vất vả, đau khổ. Cuộc sống của cô ngày càng đau khổ, ngày càng vất vả, nghiệt ngã. Mị đã trở thành nô lệ, bị chiếm đoạt sức lao động, nhan sắc và cuộc đời. Mị như một công cụ lao động cho nhà Thống lí Pá Tra. Cuộc sống của Mị gắn chặt với các sự vật vô tri. Càng ngày Mị càng ít nói “lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”. Bây giờ Mị không nghĩ đến chuyện chết nữa vì đã quen với cái khổ rồi và cho rằng mình còn sống mà như đã chết, bởi cuộc sống chẳng còn nghĩa lí. Đời Mị cứ thế lặng lẽ trôi đi. Cái ác của bọn Thống lí đã giết chết phần tốt đẹp trong con người Mị. Mị bị đày đọa đến mức tinh thần phản kháng cũng dần tê liệt. Tiếng thở dài của cô thể hiện thái độ buông xuôi, phó mặc cho số phận. “Bây giờ thì Mị tưởng mình cũng là con trâu, mình cũng là con ngựa…”. Con trâu, con ngựa nhà giàu đêm còn được nghỉ, còn cô không lúc nào ngớt việc.

Bị biến thành một thứ công cụ lao động là nỗi cực nhục mà Mị phải chấp nhận và chịu đựng. Nhưng sự ê chề của kiếp sống nô lệ chưa dừng lại ở đó, Mị còn phải chịu sự cầm tù kéo dài về tinh thần. “Ở cái buồng Mị nằm, kín mít, có một chiếc của sổ, một lỗ vuông bằng bàn tay…”. Cô sống vô cảm, chai lì, không còn ý thức về khổ đau, thời gian, tình yêu, khát vọng và cuộc sống. Đã bao năm rồi, Mị không biết đến mùa xuân, không đi chơi tết. Đó là cuộc sống chết về tinh thần, sống như một cái xác không hồn ở chốn địa ngục, trần gian. Nó đã gieo vào lòng người đọc sự cảm thông, thương xót.

Sự bất công, tàn bạo của bọn chúa đất, thực dân (tiêu biểu là cha con Thống lí Pá Tra) không chỉ dừng lại ở nhân vật Mị, qua diễn biến tâm trạng Mị, sự đau khổ về thể xác và tinh thần, mà còn xuất hiện khi nhà văn Tô Hoài miêu tả nhân vật A Phủ qua các hành động.

Cũng như Mị, A Phủ có một số phận đặc biệt. Từ nhỏ đã là cậu bé mồ côi. Trận dịch đầu mùa đã cướp đi của cậu tất cả: cha mẹ, người thân, nhà cửa… A Phủ đã từng bị bắt cóc, đem xuống núi bán đổi lấy thóc của người Thái. Tuy mới 10 tuổi nhưng A Phủ không thích ở dưới cánh đồng thấp, cậu cố tìm cách trốn thoát rồi lưu lạc đến Hồng Ngài. Lớn lên giữa núi rừng, A Phủ trở thành một thanh niên khỏe mạnh, có sức sống mạnh mẽ, cách ham sống tự do, có tài năng lao động đáng quý: đục lưỡi cày, đục cuốc, cày giỏi, săn bò tót giỏi. Con gái trong làng nhiều cô mê.

Cuộc sống hoang dã cùng hoàn cảnh sống cực nhọc, vất vả đã hun đúc A Phủ trở thành một chàng trai có tính cách mạnh mẽ, gan góc, can đảm và nghĩa khí. Mùa xuân, thanh niên đi chơi quay, thổi sáo. A phủ cũng đi chơi. A Sử đến phá quấy bị A Phủ ném quay vào mặt và bị đánh tới tấp khiến cho A Sử bị thương. Hành động nhanh, dồn dập thể hiện tính cách mạnh mẽ, gan góc và khát vọng tự do quyết liệt của A Phủ.

A Phủ đã phải trả giá rất đắt cho hành động táo tợn của mình. Trận đánh ấy đã mở đầu cho một chằng đường khổ sở tột cùng trong cuộc đời A Phủ. Anh bị Thống lí Pá Tra bắt, đánh đập và phạt vạ.

Nhà văn Tô Hoài tỏ ra rất sắc sảo trong việc miêu tả con người và cuộc sống vùng cao. Cha con tên Thống lí cùng lũ tay sai là hiện thân của giai cấp thống trị tàn ác, vô nhân đạo. Cuộc xử kiện tại nhà Thống lí Pá Tra diễn ra trong khói thuốc mù mịt kéo dài suốt mấy ngày đêm. Cứ mỗi đợt chúng hút xong, A Phủ lại phải quỳ ra giữa nhà để lũ tay sai của tên Thống lí xông đến đánh. “Cứ như thế, suốt chiều, suốt đêm, càng hút, càng tỉnh, càng đánh, càng chửi, càng hút”. A Phủ bị đánh đập tàn nhẫn nhưng chỉ quỳ im như tượng đá. A Phủ phải chịu phạt 100 đồng bạc, được Pá Tra cho vay và ở lại nhà Pá Tra làm thuê trừ nợ. Hủ tục, pháp lý nằm trong tay bọn chúa đất. Đây là cảnh xử kiện quái đản, lạ lùng. Tác giả vừa tố cáo tội ác dã man của bọn Thống lí Pá Tra vừa nói lên tình cảnh khốn khổ của những người dân.

Qua giá trị hiện thực của tác phẩm (cuộc đời, số phận của nhân vật Mị và A Phủ) nhà văn Tô Hoài đã thể hiện giá trị nhân đạo sâu xa. Nhà văn đã chỉ ra con đường giải phóng cho người lao động có cuộc đời tăm tối, số phận bi thảm. Con đường ấy được thể hiện rõ nét qua diễn biến tâm trạng Mị trong đêm tình mùa xuân và hành động Mị cởi trói cho A Phủ, cùng A Phủ trốn thoát.

Là con dâu trong nhà Thống lí Pá Tra bị đày đọa, bóc lột sức lao động, cầm tù về tinh thần nhưng từ sâu trong lòng Mị vẫn ấp ủ một ngọn lửa khát vọng sống, tự do, chỉ chờ cơ hội là trỗi dậy mạnh mẽ.

Sự hồi sinh của nhân vật Mị được tác giả miêu tả sâu sắc và tinh tế. Những yếu tố bên ngoài tác động vào tâm lí nhân vật như khung cảnh mùa xuân, tiếng sáo gọi bạn tình,… đã thức tỉnh tất cả cảm xúc của Mị: căm ghét sự bất công, tàn bạo, khao khát một cuộc sống tự do, hạnh phúc.

Mùa xuân đến với Hồng Ngài. Một mùa xuân hiện ra với màu sắc, âm thanh: tiếng sáo, tiếng khèn,… Cái không khí nồng nàn của mùa xuân như được tăng thêm bởi bữa rượu ngày Tết ở nhà Thống lí với tiếng chuông đánh ầm ĩ,… “Ngày Tết, Mị cũng uống rượu. Mị lén lấy hũ rượu, cứ uống ực từng bát”. Mị đang sống trong một trạng thái khác thường. Men rượi làm cho Mị lâng lâng say, nhưng tâm hồn cô thì từ từ thức tỉnh. Cái cách uống rượu “ực từng bát” khiến ta nghĩ như thể Mị đang cố uống cạn những cay đắng, uất hận của phần đời đã qua. Hơi men của rượu đã đưa tâm hồn Mị đi theo tiếng sáo, nó khiến cô nhớ lại những kỉ niệm đẹp của thời con gái,…

Nhớ lại quá khứ có nghĩa là Mị đã thoát ra khỏi tình trạng sống mà như đã chết. Mị thấy phơi phới trở lại, trong lòng vui sướng như những đêm Tết ngày trước. Mị nhận ra mình còn trẻ lắm và cô muốn đi chơi. Sức sống bấy lâu nay bị đè nén, giờ đây trỗi dậy mạnh mẽ, không gì ngăn nổi.

Xuất hiện trong tâm trí Mị đầu tiên là một ý nghĩ lạ lùng mà rất chân thật. “Nếu có nắm lá ngón trong tay lúc này, Mị sẽ ăn cho chết ngay,…”. Nghịch lí trên cho thấy khi niền khao khát sống được khơi lên, nó sẽ trở thành một mãnh lực xung đột gay gắt với trạng thái vô nghĩa của thực tại. Mị đã ý thức được thực tại của mình. Đó là biểu hiện của lòng khát khao sống mãnh liệt.

Trong khi đó, tiếng sáo gọi bạn tình cứ thôi thúc, mời gọi. Tiếng sáo là biểu tượng về khát vọng tình yêu. Tiếng sáo được miêu tả song hành với diễn biến tâm trạng Mị. Nó chính là ngọn gió thổi bùng lên đốm lửa vẫn đang cháy âm ỉ trong lòng cô gái khao khát tình yêu. Tiếng sáo đầy ám ảnh đã nhập vào thế giới tâm hồn Mị. Giờ đây tâm hồn Mị đang rập rờn tiếng sáo.

Sức sống trỗi dậy trong tâm hồn Mị như những đợt sóng ào ạt. Hành động Mị vào phòng lấy mỡ thắp nến cho sáng có nghĩa là Mị đang soi sáng tâm hồn mình để tìm lối thoát. Con người đích thực trong Mị đã sống lại, hòa lẫn với con người thực tại khiến tâm hồn cô chập chờn bất định. Dường như không đếm xỉa gì đến những xiềng xích tàn bạo của nhà Thống lí Pá Tra, Mị hành động như một con người tự do theo suy nghĩ, cảm xúc của mình. Cô quấn lại tóc, rút cái váy hoa trên vách, sửa soạn đi chơi Tết.

Giữa lúc khát vọng sống của Mị trỗi dậy mãnh liệt nhất thì cũng là lúc nó bị vùi dập phũ phàng nhất. A Sử trói đứng Mị vào cột nhà khiến cô không thể cúi, nghiêng đầu được. A Sử chỉ trói được thể xác của Mị, nhưng không trói được tâm hồn của Mị. “Mị vẫn nghe tiếng sáo đưa Mị đi theo những cuộc chơi, những đám chơi”. Tâm hồn Mị vẫn đi theo tiếng sáo và quên nỗi đau thể xác. Đến khi cô muốn “vùng bước đi” thì mới biết mình đang bị trói, tay chân đau nhức, Mị thổn thức nghĩ mình không bằng con ngựa.

Nhưng vào khuya, cô lại quên ngay hiện tại và bồi hồi sống lại cùng tiếng sáo. Mị “lúc mê, lúc tỉnh” cho đến khi trời tang tảng sáng lúc nào cũng không biết. Mị bàng hoàng tỉnh và thấy im ắng, không biết có chuyện gì xảy ra nữa. Mị chợt nhớ lại câu chuyện mà người ta hay kể ở nhà Thống lí Pá Tra, ngày xưa có một người vợ chết vì bị chồng trói trong nhà ba ngày. Nghĩ thế, Mị sợ lắm. Cô còn thử cựa quậy xem mình còn sống hay đã chết. Mị đã thức tỉnh và khao khát được sống.

Tô Hoài đã đặt sự hồi sinh của Mị bên cạnh tình huống đầy bi kịch: khát vọng sống mãnh liệt và hiện thực phũ phàng, nhưng sức sống của Mị lại càng dữ dội hơn. Nhà văn muốn khẳng định con người có sức sống mãnh liệt cho dù bị đày dọa, dẫm đạp đến thế nào.

Phản ứng của Mị chưa thể giải phóng được cuộc đời Mị, đem đến cho Mị một cuộc sống tự do, hạnh phúc. Mị chỉ thực sự được giải thoát khi cô có hành động cởi trói cho A Phủ.

Từ khi đi ở trừ nợ cho nhà quan Thống lí Pá Tra, A Phủ làm “phăng phăng”, việc gì cũng làm tốt cả. Nhưng sơ ý, vì mải mê bẫy nhím nên hổ đã bắt mất một con bò. A phủ không trốn tránh trách nhiệm mà đã dũng cảm nhận lỗi và xin Pá Tra cho mượn súng để đi bắn hổ nhưng bị từ chối. Suốt mấy ngày đêm, anh bị cha con Thống lí Pá Tra trói đứng vào một cây cột trong góc nhà chờ chết. Người con trai dũng mãnh ấy đã lâm vào tình cảnh tuyệt vọng. Nhưng cuộc sống của anh chưa hẳn đã dừng lại tại đây. A Phủ đã được Mị cắt dây cởi trói và cứu thoát.

Ban đầu chứng kiến cảnh A Phủ bị trói, Mị vẫn hoàn toàn vô cảm “thản nhiên ngồi thổi lửa, hơ tay”. Nhưng vào một đêm Mị tỉnh dậy sưởi lửa, cô nhìn thấy một dòng nước mắt chảy trên má A Phủ đen và xám lại. Lúc đó, cô mới nhận ra mình bởi cô cũng đã phải chịu đựng những khổ sở, cay đắng như thế. Cô cảm thấy thương A Phủ, cảm nhận được sự tàn ác của nhà Thống lí Pá Tra. “ Trời ơi, nó bắt trói đứng người ta đến chết…”. “Chúng nó thật độc ác…”. “Người kia việc gì mà phải chết thế”. Mị nhớ lại đời mình, lại tưởng tượng cảnh A Phủ tự trốn thoát,… Nghĩ thế, “Mị cũng không thấy sợ….”. Lòng thương người đã cho cô dũng cảm để cắt dây cởi trói cho A Phủ. Ban đầu, cô sợ mình phải đứng thế vào chỗ đó và “Mị đứng lặng trong bóng tối”. Nhưng sức sống mãnh liệt đã khiến cô có đủ dũng cảm chạy theo A Phủ, trốn khỏi Hồng Ngài đến Phiềng Sa và giác ngộ cách mạng. Hành động của Mị hoàn toàn là tự phát. Cô cởi trói cho A Phủ cũng chính là giải thoát cho cuộc đời mình. Đó là quy luật tất yếu của nhận thức “tức nước vỡ bờ”.

Mị là một cô gái trẻ đẹp, bị đẩy vào hoàn cảnh bi đát, phải sống triền miên trong đau khổ khiến cô dần tê liệt. Nhưng trong Mị vẫn tiềm tàng về sức sống, nó đã thức dậy và giúp cô có hành động táo bạo giải thoát cho cuộc đời mình. Cô có đời sống nội tâm âm thầm nhưng mạnh mẽ.

  • Kết bài:

Qua việc miêu tả số phận và cuộc đời của nhân vật Mị và A Phủ, cách kể chuyện tự nhiên, sinh động, hấp dẫn; ngôn ngữ hồn nhiên, giàu hình ảnh; nghệ thuật xây dựng nhân vật, phân tích tâm lí tinh tế, miêu tả phong tục tập quán đặc sắc… Nhà văn Tô Hoài đã làm sống lại quãng đời tăm tối, tủi cực của người dân miền núi Tây Bắc dưới ách thống trị dã man của bọn chúa đất, thực dân phong kiến. Đồng thời khẳng định sức sống tiềm tàng, mãnh liệt, không bị hủy diệt của những người dân nô lệ. Tác giả khẳng định: chỉ có sự vùng dậy của chính họ thì mới dẫn tới cuộc đời tươi sáng. Đó là giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo sâu sắc của tác phẩm.

Hãy bình luận đầu tiên

Để lại một phản hồi

Thư điện tử của bạn sẽ không được hiện thị công khai.