Giá trị hiện thực và nhân đạo trong truyện ngắn Chí Phèo.

gia-tri-hien-thuc-va-nhan-dao-trong-truyen-ngan-chi-pheo

Giá trị hiện thực và nhân đạo trong truyện ngắn Chí Phèo.

  • Mở bài:

Chí Phèo là truyện ngắn thành công của Nam Cao qua việc xây dựng kết cấu, tình huống truyện, chi tiết đắt giá; xây dựng được nhân vật điển hình. Nhà văn đã phản ánh đầy đủ và cụ thể bức tranh xã hội một làng quê. Bằng cái nhìn vừa căm phẫn cái xấu vừa thấm đẫm tình yêu thương đối với tầng lớp thấp cổ bé họng, tác phẩm vì thế đã có giá trị rất lớn trong việc nâng cao nhận thức, tình cảm cho người đọc.

  • Thân bài:

Giá trị hiện thực là sự tái hiện một cách chân thực những điều đang diễn ra trong cuộc sống; mà ở đây là bức tranh cuộc sống một làng quê trong xã hội thuộc được nửa phong kiến.

Giá trị nhân đạo là sự quan tâm đến những người có hoàn cảnh không may; thông cảm, chia sẻ và phát hiện những phẩm chất tốt đẹp ở họ.

Biểu hiện giá trị hiện thực trong truyện ngắn Chí Phèo:

1. Tác phẩm phản ánh những vấn đề cơ bản của xã hội nông thôn Việt Nam trước Cách mạng tháng 8.

– Tác phẩm vạch rõ và phơi bày bộ mặt bất nhân, tàn ác của giai cấp thống trị:

+ Ảnh hưởng của chế độ thực dân được thể hiện gián tiếp qua sự xuất hiện của nhà tù. Nhà tù thực dân làm con người biến dạng về ngoại hình, méo mó nhân cách. Chúng còn cấu kết với nhau cùng bóc lột, sống xa hoa trên sức lao động của nhân dân. Mặt khác, chúng “ngầm cho nhau ăn bùn”, chia thành nhiều phe cánh để đấu đá nhau, tranh giành quyền lợi của nhau ở mảnh đất “quần ngư tranh thực”.

+ Đại diện cho giai cấp phong kiến trong truyện là nhân vật Bá Kiến. Bá Kiến xuất thân trong một gia đình giàu có, mấy đời làm chánh tổng, bá hộ, sống sung túc phè phỡn với nhiều đất đai, của cải. Mặc dù không được đặc tả ngoại hình, nhưng qua tiếng cười và tiếng quát, ta có thể tưởng tượng phần nào sự bề thế, uy quyền của Bá Kiến. Con người Bá Kiến được thể hiện trong nhiều mối quan hệ. Hắn là con mọt già chuyên đục khoét và tìm mọi cách vắt kiệt sức của người dân. Lão là con cáo già gian xảo quỷ quyệt với những đường đi nước bước được tính toán cẩn thận để áp bức nhân dân.

– Tác phẩm chỉ rõ mối quan hệ của nội bộ giai cấp thống trị, những bè cánh địa chủ cường hào; mâu thuẫn giai cấp đối kháng, gay gắt giữa bọn địa chủ cường hào thống trị với những người nông dân bị áp bức, bóc lột. Tiêu biểu là mâu thuẫn giữa bá Kiến với Chí Phèo.

+ Dưới sự áp bức của thực dân phong kiến, người nông dân phải sống trong cảnh bần cùng cơ cực (không có của cải, nghề nghiệp; chỉ biết làm thuê để kiếm sống). Không những thế, người nông dân bị tha hóa, lưu manh, mất nhân phẩm (Chí Phèo, Năm Thọ, Binh Chức) (Nguyên nhân: do cuộc sống khó khăn,..; họ bị chính đồng loại của mình quay lưng; làm mất “sức đề kháng”)

+ Hiện thực đời sống tăm tối, đau khổ của người nông dân, người lao động lương thiện được thể hiện tập trung qua số phận của nhân vật Chí Phèo. Chí là đại diện, điển hình cho bi kịch bị chà đạp cả nhân hình, nhân tính: từ một ngwòi lao động lương thiện, bị tha hoá thành kẻ lưu manh và trở thành “con quỷ dữ của làng Vũ Đại”, cuối cùng chết một cách thảm khốc trên ngưỡng cửa trở về với cuộc sống lương thiện.

→ “Chí Phèo” đã khái quát hiện thực mang tính quy luật trong xã hội cũ: có áp bức, có đấu tranh, đấu tranh tự phát thường dẫn đến kết cục bi thảm. Và những cuộc đấu tranh như thế này chưa thể kết thúc được vì “tre gài măng mọc”. Bá Kiến chết còn Lí Cường, còn nhiều tên cường hào ác bá khác thì còn những “hiện tượng Chí Phèo” và còn những cuộc đấu tranh tự phát…

Biểu hiện giá trị nhân đạo trong truyện ngắn Chí Phèo:

– Thấu hiểu hoàn cảnh của người lao động; bày tỏ sự thương cảm sâu sắc đối với những số phận khổ đau, bất hạnh: Sự xót xa với thân phận một sinh linh bé nhỏ (Chí Phèo từ lúc bị bỏ rơi ở cái lò gạch cũ đã được nhiều người dân chuyền tay nhau nuôi nấng).

– Cảm nhận được thế giới nội tâm của Chí với nhiều cung bậc cảm xúc khác nhau. Hiểu được tâm trạng phẫn uất, tuyệt vọng của Chí (khi bị cự tuyệt tình yêu và đòi lương thiện)

– Phát hiện những phẩm chất tốt đẹp của họ: Chí Phèo hiền lành, cần cù lao động, ước mơ trong sáng, giàu lòng tự trọng. Thị Nở giàu tình người (thể hiện ở sự chăm sóc với Chí Phèo, bát cháo hành)

– Khẳng định chất lương thiện trong con người tưởng chừng đã hóa quỷ dữ (qua lời đối thoại và độc thoại nội tâm của Chí.

  • Kết bài:

“Chí Phèo” là một tác phẩm văn học chân chính như trong quan niệm của Nam Cao: “Tác phẩm văn học có giá trị là tác phẩm phải thể hiện nỗi đau của con người, nó ca tụng lòng thương, tình bác ái, sự công bình, nó làm cho người gần người hơn”. Tác phẩm khẳng định tậm vóc của nhà văn Nam Cao: khả năng khái quát hiện thực và tư tưởng nhân đạo.


Tham khảo:

  • Mở bài:

Là nhà văn trung thành với chủ nghĩa hiện thực, cũng như các cây bút tả chân đương thời, Nam Cao quan tâm trước hết tới việc đi sâu thể hiện tình cảnh khốn khổ của người nghèo bị áp bức, trong đó có Chí Phèo. Tác phẩm gây ấn tượng đậm nét về bức tranh đời sống xã hội nông thôn. Đó là hệ thống tôn ti trật tự của làng Vũ Đại; là ấn tượng về tình trạng khép kín của làng xã phong kiến. Đặc biệt nó đã phơi bày các mối quan hệ xã hội phức tạp của hiện thực, đã miêu tả trung thực những quan hệ thực (Ăng-ghen). Đồng thời là tình thương đối với những con người bị xã hội đẩy vào con đường tha hóa, bị hắt hủi… Đó chính là giá trị hiện thực và nhân đạo của truyện ngắn Chí Phèo.

  • Thân bài:

Nam Cao được coi là nhà văn của nông dân trước hết vì ông có Chí Phèo. Chí Phèo có phạm vi hiện thực phản ánh trải ra cả bề rộng không gian và bề dài thời gian. Làng Vũ Đại trong tác phẩm chính là hình ảnh thu nhỏ của xả hội nông dân Việt Nam đương thời.

Ngòi bút Nam Cao tỏ ra sắc sảo khi vạch ra mối quan hệ thực trạng nội bộ bọn cường hào. Chẳng phải vì đất làng Vũ Đại có cái thế quần ngư tranh thực như lời ông thầy địa lí nói nên bọn cường hào chia năm bè bảy cánh đối nghịch nhau, mà do chúng là một đàn cá tranh mồi, mồi thì ngon đấy, nhưng năm bè bảy mối. Ngoài mặt tử tế với nhau nhưng trong bụng muốn cho nhau lụi bại. Đây là hiện tượng có tính quy luật ở nông thôn, ảnh hưởng sâu sắc tới đời sống xã hội – ruồi muỗi phải chết oan uổng khi trâu bò húc nhau.

Dựng nên bức tranh xã hội ở nông thôn, trước hết Nam Cao tập trung làm nổi bật xung đột giai cấp giữa địa chủ cường hào với người nông dân bị áp bức – phản ánh hiện thực nông thôn trên bình diện mâu thuẫn giai cấp. Nó làm nên giá trị nhận thức và sức mạnh phê phán to lớn.

Nam Cao đã xây dựng hình tượng điển hình về giai cấp thống trị ở nông thôn: Bá Kiến – lão cường hào cáo già với giọng quái rất sang, cái cười Tào Tháo cho thấy bản chất gian hùng, khôn róc đời. Và tư cách nhem nhuốc của cụ tiên chỉ: thói ghen tuông, Bá Kiến nghiền ngẫm về nghề thống trị, rút ra phương châm: mềm nắn, rắn buông, bám thằng có tóc, ai bám thằng trọc đầu, thứ nhất sợ kẻ anh hùng, thứ nhì sợ kẻ cố cùng liều thân… Với chính sách: lấy thằng đầu bò trị thằng đầu bò, thu dụng những thằng bạt mạng, không sợ chết, không sợ đi tù.

Nam Cao không đi vào nạn sưu thuế, tô tức, tham nhũng mà ở Chí Phèo Nam Cao đi vào phương diện: người nông dân bị xã hội tàn phá về tâm hồn, hủy diệt về nhân tính, bị phủ nhận tư cách làm người. Nỗi thống khổ của Chí Phèo không phải ở chỗ cuộc đời Chí Phèo chỉ là số không: không nhà cửa, không cha mẹ, không họ hàng thân thích, không tấc đất cắm dùi… mà chính là ở chỗ Chí Phèo bị xã hội rạch nát bộ mặt, cướp đi linh hồn, bị loại khỏi xã hội loài người, sống kiếp quỷ dữ.

Mở đầu tác phẩm là hình ảnh Chí Phèo ngật ngưỡng vừa đi vừa chửi. Nhưng đằng sau chân dung gã say rượu có cái gì như là sự vật vã của một linh hồn đau đớn, tuyệt vọng. Tiếng chửi của Chí Phèo không hẳn là bâng quơ. Tuy say, nhưng vẫn mơ hồ thấm thìa nỗi khổ của thân phận. Chí Phèo là điển hình cho một bộ phận cố nông bị đẩy vào con đường lưu manh hóa. Chí Phèo trước hết là hiện tượng có tính quy luật của tình trạng áp bức bóc lột tàn bạo ở nông thôn Việt Nam. Lúc bây giờ. Đó là hiện tượng những người nông dân bị đè nén thái quá đã chống trả lại để tồn tại bằng con đường lưu manh. Nam Cao khốn khổ giành lấy sự tồn tại bằng việc bán cả nhân phẩm đã trở thành lực lượng mù quáng dễ dàng bị bọn thống trị lợi dụng. Vì thế, Chí Phèo từ chỗ liều chết với bố con lão, chỉ cần lời nói và mấy hào chỉ trở thành tay sai mới của lão. Sức mạnh tố cáo to lớn của hình tượng Chí Phèo trước hết đã làm nổi bật hiện tượng có quy luật diễn ra ở nông thôn – hiện tượng lưu manh hóa. Song ý nghĩa khái quát của hình tượng Chí Phèo còn ở cấp độ cao hơn: sự hủy diệt, nhân tính trong xã hội độc ác, không cho con người được làm người.

Tác phẩm Chí Phèo không dừng ở đó mà với câu chuyện về mối tình Chí – Thị, bằng giọng văn bông lơn, có lúc như chế giễu chuyện tình của hạng nửa người nửa ngợm thì đây vẫn là chuyện có nội dung nghiêm túc, chứa đựng tư tường nhân đạo mới mẻ.

Sự xuất hiện của nhân vật Thị Nở trong tác phẩm có một ý nghĩa thật đặc sắc. Con người xấu đến “ma chê quỷ hờn”, kỳ diệu thay, lại là nguồn ánh sáng duy nhất đã rọi vào chốn tối tăm của tâm hồn Chí Phèo thức tỉnh, gợi dậy bản tính người nơi Chí Phèo, thắp sáng một trái tim đã ngủ mê qua bao ngày tháng bị dập vùi, hất hủi. Sau cuộc gặp gỡ ngắn ngủi với Thị Nở, Chí Phèo giờ đây đã nhận ra nguồn ánh sáng ngoài kia rực rỡ biết bao, nghe ra một tiếng chim vui vẻ, tiếng anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá, tiếng lao xao của người đi chợ bán vải… Những âm thanh ấy bao giờ chả có. Nhưng hôm nay Chí mới nghe thấy. Chao ôi là buồn, trong cái phút tỉnh táo ấy, Chí Phèo như đã thấy tuổi già của hắn, đói rét, ốm đau và cô độc – cái này còn sợ hơn đói rét và ốm đau. Cũng may Thị Nở mang bát cháo hành tới. Nếu không, hắn đến khóc được mất trong tâm trạng như thế… Nhìn bát cháo bốc khói mà lòng Chí Phèo xao xuyến bâng khuâng: Hắn cảm thấy lòng thành trẻ con, hắn muốn làm nũng với thị như làm nũng với mẹ… Ôi sao mà hắn hiền! “Hắn thèm lương thiện – Hắn khát khao làm hòa với mọi người”… Từ một con qủy dữ, nhờ Thị Nở, đúng hơn nhờ tình thương của Thị Nở, Chí thực sự được trở lại làm người, với tất cả những năng lực vốn có. Một chút tình thương, dù là tình thương của một con người dở hơi, bệnh hoạn, thô kệch, xấu xí,… cũng đủ để làm sống dậy cả một bản tính người nơi Chí Phèo. Thế mới biết sức cảm hóa của tình thương kỳ diệu biết nhường nào!

Bằng chi tiết này, Nam Cao đã soi vào tác phẩm một ánh sáng nhân đạo thật đẹp đẽ – Nhà văn như muốn hòa vào nhân vật để cảm thông, chia sẻ những giây phút hạnh phúc thật hiếm hoi của Chí Phèo…

Giá trị nhân đạo còn thể hiện ở tấn bi kịch tinh thần của Chí Phèo: bi kịch của con người bị từ chối không được làm người. Khi hiểu ra xã hội không công nhận mình, bà cô Thị Nở – định kiến xã hội đã không chấp nhận cho cháu bà đến với Chí. Chí vật vã đau đớn. Hắn càng uống càng tỉnh hắn ôm mặt khóc rưng rức. Chí quằn quại, đau đớn vì tuyệt vọng, thấm thía về tội ác kẻ thù. Chí Phèo trợn mắt chỉ tay vào Bá Kiến đòi quyền làm người, đòi lại bộ mặt người đã bị vằm nát. Kẻ thù bị đền tội, và sau đó Chí tự sát. Chí phải chết vì ý thức nhân phẩm đã trở về, không chấp nhận kiếp thú vật. Chí Phèo chết trên ngưỡng cửa trở về cuộc sống, Chí chết quằn quại trong vũng máu, trong khao khát được làm người lương thiện. Ai cho tao lương thiện là lời nói đanh thép, phẫn nộ, làm người đọc sững sờ và day dứt. Đó vẫn là một câu hỏi lớn không lời đáp.

Bằng bút pháp độc đáo, tài hoa linh hoạt, giàu biến hóa, Nam Cao khi tả, khi kể theo một kết cấu tâm lý và mạch dẫn dắt của câu chuyện với một cách thức bề ngoài tưởng chừng như khách quan, lạnh lùng và tàn nhẫn, nhưng chất chứa bên trong biết bao nỗi niềm quằn quại, đau đớn trước thân phận đau đớn của kiếp người. Lồng vào bức tranh hiện thực trên kia là thái độ yêu ghét, là cách phân tích và đánh giá những vấn đề về hiện thực mà nhà văn đặt ra. Ngay việc lựa chọn một nhân vật cùng đinh thống khổ nhất của xã hội làm đối tượng miêu tả và gởi gắm biết bao thông cảm, suy tư thương xót… tự nó đã mang nội dung nhân đạo. Nhưng giá trị nhân đạo của tác phẩm thể hiện tập trung nhất ở cách nhìn nhận của nhà văn đối với nhân vật bị tha hóa đến tận cùng. Nam Cao vẫn phát hiện trong chiều sâu của nhân vật bản tính tốt đẹp vốn dĩ, chỉ cần chút tình thương chạm khẽ vào là có thể sống dậy mãnh liệt, tha thiết.

  • Kết bài:

Chí Phèo của Nam Cao được đánh giá cao chính ở giá trị tố cáo. Thông qua số phận Chí Phèo, Nam Cao phản ánh sâu sắc hiện thực xã hội Việt Nam lúc bấy giờ và thực trạng người nông dân bị đày đọa, đè nén và âm thầm chịu đựng rồi tuyệt vọng, liều lĩnh phản ứng cực đoan. Nam Cao cũng bày tỏ niềm cảm thông, tình thương yêu đối với người nông dân bị đẩy vào con đường lưu manh hóa, phát hiện bản chất tốt đẹp vốn có của họ. Song cũng như các nhà văn hiện thực cùng thời, chưa tìm được cho nhân vật của mình lối thoát. Sau này, bằng con đường cách mạng, Tô Hoài, Kim Lân đã tìm cho nhân vật mình một hướng đi riêng.


Phân tích truyện ngắn Chí Phèo.

  • Mở bài:

Nam Cao là một trong những nhà văn lớn trong nền văn học Việt Nam, nhiều sáng tác của ông có thể coi là kiệt tác. Ớ chủ đề viết vế người nông dân trước Cách mạng tháng Tám, truyện ngắn Chí Phèo vẫn được coi là thành công xuất sắc.

  • Thân bài:

So với một số sáng tác khác của Nam Cao, truyện ngắn Chí Phèo có phạm vi phản ánh tương đối rộng và nhất là có sức khái quát xã hội cao. Có thể nói, làng Vũ Đại trong tác phẩm là hình ảnh chân thực, thu nhỏ của nông thôn Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám. Chí Phèo đi sâu miêu tả, phân tích các quan hệ xã hội làng quê dưới chế độ cũ. Đó là những mối quan hệ đầy mâu thuẫn và mâu thuẫn rất gay gắt. Trước hết, đó là những mâu thuẫn thường xuyên trong nội bộ giai cấp thống trị, bọn chúng chẳng khác nào “đàn cá tranh mồi”, làng Vũ Đại ở thế “quần ngư tranh thực”. “Mồi thì ngon đấy, nhưng có dăm bè bảy bối, bè nào cũng muốn ăn”. Do đó, một mặt chúng cấu kết với nhau để bóc lột nông dân, mặt khác chúng lại luôn luôn rình cơ hội trừng trị lẫn nhau, mong cho nhau lụn bại để cưỡi lên đầu lên cổ, để cho nhau “ăn bùn”. Chính mâu thuẫn này có liên quan đến số phận những cố nông nghèo khổ như Binh Chức, Chí Phèo,… Nó cũng liên quan đến mâu thuẫn đối kháng gay gắt giữa người nông dân với địa chủ. Nam Cao cũng đi sâu vào việc phản ánh mâu thuẫn đối kháng giai cấp giống nhiều cây bút hiện thực như Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan,…

Trong truyện ngắn “Chí Phèo”, qua hình tượng nhân vật bá Kiến, toàn bộ bộ mặt tàn ác, xấu xa của giai cấp thống trị đã bị phơi bày. Bá Kiến điển hình cho những tên địa chủ cường hào, ác bá ở các làng xã Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám. Nam Cao đã miêu tả sinh động bản chất gian hùng của một tên địa chủ cáo già trong nghề thống trị. Một bá Kiến với kiểu nói “rất sang”, với lối nói ngọt nhạt, với cái cười Tào Tháo, bao giờ cũng làm cho kẻ yếu bóng vía phải sợ. Hắn biết “mềm nắn rắn buông, thứ nhất sợ kẻ anh hùng, thứ hai sợ kẻ cố cùng liều thân, bám lấy thằng có tóc ai bám thằng trọc đầu..Hắn nghiệm ra rằng : “Một người khôn ngoan nên bóp đến nửa chừng. Hãy ngấm ngầm đẩy nó xuống sông, nhưng rồi lại dắt nó lên để nó đền ơn. Hãy đập bàn, đập ghế đòi cho được năm đồng, nhưng được rồi thì lại vứt trả lại năm hào “vì thương anh tung quá”. Và cũng phải tuỳ mặt nữa…”. Hắn cũng nhận ra rằng “những thằng tứ cố vô thân giết chết chúng nó thì dễ, nhưng giết được, chỉ còn có xương, mà lại mở một dịp tốt cho các phe nghịch nó xoay lại mình…”, ”Bỏ tù nó thì dễ nhưng ngày ra tù nó chẳng để cho mình yên thân”. Nếu bóc lột con em nông dân quá mức là dại, bởi vì “mười thằng bị đẩy ra khỏi làng thì cả mười khi trở về đều giở toàn những giọng uống máu người không tanh…”.

Đó là những tính toán, kinh nghiệm của một kẻ xảo quyệt. Hơn ai hết, bá Kiến áp dụng một quỷ kế “trị không lợi thì cụ dùng”. Hắn biết uốn mình mềm dẻo theo các thủ thuật lúc cương lúc nhu, hắn giương lên các bẫy đường mật để dụ những kẻ mất cảnh giác, hắn dùng vật chất để ràng buộc những ai nhẹ dạ, hắn thu nạp dưới trướng những kẻ đầu bò đầu bướu không sợ đi ở tù làm tay sai thân tín… Cách đối xử của bá Kiến với Chí Phèo thể hiện đầy đủ bản chất gian ngoan của hắn. Nam Cao không đi sâu vào miêu tả đời tư thối nát của hắn mà chỉ tập trung thể hiện mối quan hệ với nông dân, chính vì thế bá Kiến có một cá tính khác biệt với nhiều điển hình về giai cấp thống trị của văn học hiện thực phê phán đương thời. Với sự gian hùng và xảo quyệt ấy, những kẻ như bá Kiến đã biến những người nông dân chất phác, hiền lành thành những tên lưu manh, đã cướp đi của họ phần Người quý giá và đẩy họ vào con đường không lối thoát.

Giá trị lớn nhất của truyện ngắn Chí Phèo là đi sâu thể hiện bi kịch của người nông dân trước Cách mạng tháng Tám. Trong tác phẩm, nhà văn tập trung chủ yếu làm nổi bật hình tượng trung tâm Chí Phèo. Có thể nói, Chí Phèo là điểm hội tụ những giá trị nhân đạo sâu sắc nhất của tác phẩm. Trước hết, Chí Phèo là hiện tượng có tính quy luật, là sản phẩm của làng quê Việt Nam trước Cách mạng với những “cụ tiên chỉ” như bá Kiến. Đó là hình tượng người lao động lương thiện bị đè nén bóc lột đến cùng cực đã chống trả lại xã hội bằng con đường lưu manh. Bá Kiến đẩy Chí Phèo – một anh canh điền hiền lành, chất phác cũng có biết bao ước mơ như “có một gia đình nho nhỏ, chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải” – thành một con quỷ dữ.

Nhà tù thực dân cùng bá Kiến làm biến chất Chí Phèo. Anh trai cày hiền lành, chăm chỉ thành một kẻ khác hẳn với “cái đầu thì trọc lốc, cái răng cạo trắng hớn, cái mặt thì đen mà rất cơng cơng, hai mắt gườm gườm trông gớm chết !… Cái ngực phanh, đầy những nét chạm trổ rồng phượng với một ông tướng cầm chuỳ”. Và Chí không phải là hiện tượng cá biệt. Trong nhiều truyện ngắn, nhà văn cũng xây dựng hàng loạt những nhân vật như vậy, do thái độ đối xử của xã hội mà trở nên ngang ngược bất trị như Trạch Văn Đoành, anh cu Lộ, Binh Chức,… Như vô tình, tác giả đã nhắc đến những Binh Chức, những Năm Thọ khi nói về thân phận những kẻ đi tù về trở thành kẻ khác. Nhưng nỗi bất hạnh của Chí không chỉ dừng ở chỗ không được làng coi là con người, bị mọi người hắt hủi, tâm trạng cô đơn của Chí cứ kéo dài triển miên trong suốt mấy chục năm của cuộc đời, mọi người đều tránh mặt hắn, không ai thèm ra lời, hắn bị tước quyền làm một con người chỉ vì cái xã hội tàn ác đẩy đến bước đường cùng không lối thoát. Khi gặp thị Nở, lần đầu tiên từ khi trở về làng Chí mới hoàn toàn tỉnh táo để nhớ lại những ước mơ về hạnh phúc bình dị.

Đó cũng là lúc Chí nhận ra hiện thực-đau khổ của mình. Trận ốm là dấu hiệu của tuổi già, đã yếu đi nhiều, ý thức về tương lai chỉ còn đói rét ốm đau và cả cô đơn mà “cô đơn thì đáng sợ hơn đói rét và ốm đau nhiều lần”, đã khiến Chí nhận thức sâu sắc về nỗi cô đơn của mình Phản ứng của bà cô thị Nở dẫn đến thái độ của thị đối với Chí đã đẩy Chí vào tâm trạng tuyệt vọng của con người khao khát lương thiện nhưng đã bị chặn đứng lại một cách phũ phàng. Nhà văn đã hoá thân vào nhân vật để thể hiện nỗi đau, sự tuyệt vọng đến cực điểm của nhân vật. Đang hạnh phúc, đang khao khát, đang chờ đợi nhưng sự trở lại của thị Nở thật phũ phàng với Chí. Thay cho hạnh phúc và tình người ấm áp mà Chí đang chờ đợi là những lời sỉ vả. Chí hoàn toàn sụp đổ : “Hắn nghĩ ngợi một tí rồi hình như hiểu, hắn bỗng nhiên ngẩn người. Thoáng một cái, hắn lại như hít thấy hơi cháo hành”. Nhà văn đã diễn đạt thật chính xác và tội nghiệp tâm trạng bi kịch của Chí, một bi kịch cay đắng và đau xót nhất, khi con người nhận ra mình đã không còn một cơ hội nào nữa để được là một con người bình thường. Bi kịch tuyệt vọng đến cực điểm của một người nhận ra rằng mình đã không còn gì để hi vọng nữa, “Hắn cứ ngồi ngẩn mặt, không nói gì… Hắn sửng sốt, đứng lên gọi lại… Hắn đuổi theo thị, nắm lấy tay. Thị gạt ra, lại giúi thêm cho một cái. Hắn lăn khoèo xuống sân…”. Có lẽ trong văn học, kể cả những kiệt tác, không có nhiều những tình tiết như thế này. Bao nhiêu tình thương, sự cảm thông với Chí và sự căm giận đối với bọn người như bá Kiến đã dồn cả ở đoạn văn này. Tài năng và tấm lòng đối với người nông dân của Nam Cao đã kết tinh và thể hiện sâu sắc nhất ở đoạn miêu tả phản ứng của Chí Phèo trước sự từ chối dữ dội của thị Nở.

Nhập thân vào nhân vật và cảm nhận nỗi đau đớn tuyệt vọng của một con người, nhà văn đã thể hiện được nỗi đau nhàn loại. Nhà văn đã miêu tả một lần uống rượu đặc biệt nhất trong cuộc đời Chí. Chí lại lôi rượu ra uống nhưng càng uống hắn lại càng tỉnh : “hơi rượu không sặc sụa, hắn cứ thoang thoảng thấy hơi cháo hành”. Đó là hương vị của tình yêu, của niềm hạnh phúc, niềm hạnh phúc ấy lần đầu tiên Chí được hưởng cho nên nó khó phai mờ trong tâm trí của anh. Sự tỉnh táo khiến cho Chí thấy tiếc hạnh phúc mà mình đã có và nhận ra sự thực cay đắng, chua chát trong lời bà cô thị Nở. Anh tuyệt vọng khi nhận ra hạnh phúc không bao giờ đến với anh, dù đó là hạnh phúc nhỏ nhoi nhất (được làm vợ chồng với người đàn bà xấu xí, dở hơi lại có mả hủi), vì sự thù ghét của xã hội. Anh hiểu được ý nghĩa sâu sắc trong lời của bà cô thị Nở : “Đàn ông đã chết hết cả rồi hay sao, mà lại đâm đầu đi lấy một thằng không cha. Ai lại đi lấy thằng chỉ có một nghề là rạch mặt ăn vạ”.

Trong cơn đau đớn và tuyệt vọng ấy, hắn định đi đến nhà thị Nở nhưng đôi chân lại đưa Chí đến nhà bá Kiến. Không phải vì Chí say rượu, mặc dù nhà văn đã giải thích: “Những thằng điên và những thằng say rượu không bao giờ làm những cái mà lúc ra đi chúng định làm”. Đó chính là lúc Chí tỉnh táo. Anh đã hiểu và tìm đúng kẻ đã cướp đi của anh tất cả. Câu hỏi “Ai cho tao lương thiện ?” chính là lời nói xuất phát của một quá trình suy nghĩ chín chắn của Chí và cũng là chi tiết thể hiện nỗi đau lớn nhất của một người tuyệt vọng. Chọn cách giải quyết cho số phận của mình là giết bá Kiến và tự sát chứng tỏ anh hoàn toàn tỉnh táo. Đây là lời tố cáo quyết liệt của nhà văn đối với xã hội có những kẻ cầm quyền như bá Kiến. Bọn người thâm hiểm, tham lam và tàn độc ấy đã cướp đi của con người bản chất lương thiện. Cướp đi của người khác bất cứ thứ gì cũng là tội ác, nhưng cướp đi của con người hạnh phúc, ước mơ, bản chất lương thiện là tội ác dã man nhất, nó dã man hon cả tội giết người. Đó là một kiểu giết người không dao, một kiểu hành hạ con người tàn độc nhất.

Cái chết tức tưởi và tuyệt vọng của Chí khi anh đứng trước cánh cửa khoá quá chặt của ngôi nhà lương thiện là điểm nút của tấn bi kịch cuộc đời người nông dân vốn có bấn chất lương thiện. Khát khao được xây dựng hạnh phúc với thị Nở, được có một gia đình, được thức tỉnh sau bao năm làm quỷ dữ chỉ nhờ một bát cháo hành và bàn tay chăm sóc vụng về của một người đàn bà dở hơi chứng tỏ con người ấy vẫn hoàn toàn là một con người. Qua chi tiết này, nhà văn đã khẳng định lương thiện vốn là rễ phẩm chất Người trong nhũng người nông dân. Những mưu mô xảo quyệt và quyền lực của bọn thống trị độc ác chỉ khiến cho cái ác đẩy nó ra phía sau chứ không thể huỷ diệt nó, bởi suy cho cùng, hạnh phúc là khao khát và ước mơ của mọi con người dù họ là ai và thuộc tầng lớp nào. Trong các sáng tác của mình, nhà văn Nam Cao luôn thể hiện một cách nhiệt thành chân lí ấy. Trong nhiều tác phẩm, dù để nhân vật bị tha hoá đến mức nào, nhà văn cũng không để họ hoàn toàn đánh mất mình, vẫn để họ nhận ra bi kịch và nhớ lại mình, dù họ là bất cứ ai, trí thức hay nông dân (lão Hạc, Hộ, Điền, Thứ, anh cu Lộ,.. .) Đây chính là điều làm nên giá trị nhân bản cho sáng tác của Nam Cao, là nơi thể hiện niềm tin của nhà văn đối với phẩm chất lương thiện của con người.

Phản ánh hiện thực để tố cáo tội ác và đòi quyền sống cho con người là mục đích nhân văn mà tác phẩm của Nam Cao luôn hướng đến. Vì thế nhà văn đã không chỉ lặp lại nhiều lần kiểu nhân vật bị tha hoá mà còn xây dựng những điển hình nghệ thuật. Qua nhân vật Chí Phèo, nhà văn khái quát lên số phận bi kịch bị tha hoá của người lương thiện. Việc Chí Phèo tự vẫn sau khi giết bá Kiến chứng tỏ anh đã bị đẩy đến con đường cùng. Nhưng chắc chắn vẫn sẽ có Chí Phèo khác bởi mới chỉ một bá Kiến chết đi, còn nhiều bá Kiến khác lớn lên và lại nhiều Chí Phèo được sinh ra. Bởi thế mới có chi tiết kết thúc tác phẩm nghe tin Chí Phèo chết thị Nở “nhớ lại những lúc ăn nằm với hắn… nhìn nhanh xuống bụng..Và đột nhiên thị thấy thoáng hiện ra một cái lò gạch cũ bỏ không, xa nhà cửa, và vắng người lại qua. Thị Nở đã nghĩ đến điểm bắt đầu cho một vòng đời oan nghiệt. Rõ ràng, Nam Cao muốn khẳng định hiện tượng Chí Phèo chưa thể chấm dứt. Khi nào xã hội còn tàn ác, còn áp bức bất công thì sẽ còn những con người khốn khổ bị đẩy vào con đường lưu manh, tội lỗi. Sự vô lương tâm của kẻ cầm quyền và những định kiến xã hội sẽ giết chết bất cứ ai, dù người đó sống trong xã hội nào. Điều mà Nam Cao nói ở Chí Phèo vẫn có một giá trị rất lâu dài.

Với giọng văn sắc lạnh và tỉnh táo, nhà văn đã phản ánh thật chính xác và chân thực hiện thực xã hội nông thôn Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám. Ân đằng sau vẻ sắc lạnh và tỉnh táo ấy là một tấm lòng nhân hậu, một tâm hồn nhạy cảm luôn tràn đầy tình yêu thương đối vối con người. Nhìn thấy những bi kịch của cuộc đời nhưng nhà văn không bi quan mà luôn tin tưởng vào bản chất tốt đẹp của con người.

  • Kết bài:

Tác phẩm của Nam Cao có giá trị hiện thực vững bền. Nhà văn không đi sâu phản ánh sự khổ cực vì đói nghèo của người nông dân, mà đi sâu khai thác những dằn vặt về tinh thần của con người. Đây là bi kịch của cả nhân loại. Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến những bi kịch tinh thần. Bi kịch tinh thần của các nhân vật trong truyện ngắn của Nam Cao là bi kịch bị tha hoá, và nguyên nhân sâu xa nhất của những bi kịch ấy là sự áp bức của giai cấp thống trị trong xã hội. Vì vậy tác phẩm của Nam Cao luôn có giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo sâu sắc. Nhắc đến sáng tác của Nam Cao trước Cách mạng tháng Tám là nhắc đến những bi kịch tinh thần được thể hiện rất sâu sắc và tinh vi. Những điều được chứng kiến, những trải nghiệm, những dằn vặt của chính bản thân và tấm lòng thiết tha tình đời là điều cốt lõi nhất làm nên những truyện ngắn có giá trị nhân văn đặc sắc như Chí Phèo.

Phân tích nhân vật Chí Phèo trong truyện ngắn cùng tên của Nam Cao.

Hãy bình luận đầu tiên

Để lại một phản hồi

Thư điện tử của bạn sẽ không được hiện thị công khai.