Phân tích nghệ thuật khắc họa nhân vật của Nguyễn Du trong Truyện Kiều qua các đoạn trích Ngữ văn 9

phan-tich-nghe-thuat-khac-hoa-nhan-vat-cua-nguyen-du-trong-truyen-kieu-qua-cac-doan-trich-ngu-van-9

Phân tích nghệ thuật khắc họa nhân vật của Nguyễn Du trong Truyện Kiều qua các đoạn trích Ngữ văn 9

I. Khắc họa hình ảnh nhân vật qua ngoại hình.

1. Khắc họa nhân vật bằng bút pháp tương trưng, ước lệ.

Đây là một loại bút pháp khá quen thuộc của văn học cổ Việt Nam được thể hiện rõ ở những nhân vật chính diện. Trong “Truyện Kiều” ngoại hình nhân vật là những qui phạm, những hình ảnh, chữ nghĩa có sẵn, tiêu biểu là trong nghệ thuật miêu tả: Thuý Kiều, Thuý Vân, Kim Trọng, Từ Hải.

Trong đoạn trích “Chị em Thuý Kiều”, trước khi miêu tả vẻ đẹp của từng người, Nguyễn Du đem đến cho chúng ta những cảm nhận chung về vẻ đẹp của hai chị em. Đúng là những trang tuyệt sắc giai nhân:

“Đầu lòng hai ả tố nga,
Thuý Kiều là chị em là Thuý Vân.
Mai cốt cách tuyết tinh thần,
Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười”.

Bút pháp ở đây mang tính ước lệ, tượng trưng, tác giả mượn vẻ đẹp của tự nhiên để nói lên vẻ đẹp của con người, cả hai chị em đều có vóc dáng thanh tao, tâm hồn trong trắng như tuyết. Song mỗi người lại có một vẻ đẹp riêng và đều đạt đến độ hoàn mỹ “mười phân vẹn mười”.

Bức chân dung tuyệt sắc của Thúy Vân hiện lên qua lớp ngôn ngữ ước lệ kinh điển:

“Vân xem trang trọng khác vời,
Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang.
Hoa cười ngọc thốt đoan trang,
Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da.”

Không chỉ tươi tắn trẻ trung mà còn kiều diễm. Nguyễn Du lấy thiên nhiên làm tiêu chuẩn cho sắc đẹp của con người. ở đây, Thuý Vân được so sánh với trăng, hoa, mây, tuyết, ngọc – những biểu tượng của thiên nhiên. Thuý Vân khuôn mặt tròn trịa, đầy đặn, sáng đẹp như trăng rằm, tiếng nói trong như ngọc, mái tóc mượt mà óng ả hơn mây, da trắng hơn tuyết. Đó là vẻ đẹp của một cô gái phúc hậu, đoan trang, một vẻ đẹp khiến thiên nhiên phải nhún nhường, phải chịu thua bức chân dung đẹp và có hồn, vừa bộc lộ tính cách, vừa dự báo số phận nhân vật: một tương lai êm đềm, hạnh phúc sẽ đến với Thuý Vân, chỉ có thể có được ở con người mắt nhìn người sâu sắc và nghệ thuật miêu tả bậc thầy của Nguyễn Du.

Chân dung Thuý Kiều nổi bật trên nền chân dung Thuý Vân:

“Kiều càng sắc sảo mặn mà,
So về tài sắc lại là phần hơn.
Làn thu thuỷ nét xuân sơn,
Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh”.

Thuý Vân đã được miêu tả như một cô gái đẹp hoàn hảo. Thuý Kiều vượt lên trên cái đẹp hoàn hảo ấy để trở thành một cái đẹp tuyệt đỉnh. Vẫn bằng bút pháp ước lệ, tượng trưng, khi tả Thuý Kiều, Nguyễn Du chuyển sang chấm phá theo kiểu “điểm nhãn”, cốt nêu bật cái thần của vẻ đẹp Thuý Kiều, tập trung vào đôi mắt:

“Làn thu thuỷ nét xuân sơn,
Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh”.

Đôi mắt Kiều được ví như ” làn nước mùa thu”, làn nước mùa thu vừa trong sáng, vừa long lanh, vừa dợn sóng, lại được ẩn dưới nét lông mày thanh tú, mền mại như dẫy núi mùa xuân, càng thêm cái hài hoà kiều diễm. Quả là, Kiều có vẻ đẹp “sắc sảo mặn mà” nàng không chỉ là bậc mĩ nhân có thể khiến cho”thành nghiêng nước đổ ” nàng còn có sự sắc sảo về trí tuệ, mặn mà về tâm hồn. Nếu vẻ đẹp của Thuý Vân khiến cho thiên nhiên phải nhường nàng, thì vẻ đẹp của Thuý Kiều làm cho hoa cũng phải “ghen”, liễu cũng phải “hờn”.

Ca dao từng có câu:

“Một vừa hai phải ai ơi,
Tài tình chi lắm cho trời đất ghen”.

Nguyễn Du cũng linh cảm như vậy về số phận nàng Kiều và ông đã lồng sự linh cảm đó trong bút pháp tài hoa miêu tả nàng. Vẻ đẹp của nàng đã làm cho tạo hoá thiên nhiên phải ghen ghét đố kị nên số phận nàng sẽ có éo le, đau khổ, gian truân…

Nhân vật tiếp theo cũng được Nguyễn Du miêu tả với ước pháp ước lệ, tượng trưng là Kim Trọng được miêu tả với nét bút phác hoạ về các phương diện cần thiết khi nói đến một nhân vật thư sinh phong kiến: con tuấn mã; chú tiểu đồng, trang phục, danh tính, gia thế tài năng, học thức. Chàng xuất hiện :

“Đề huề lưng túi gió trăng,
Sau chân theo một vài thằng con con.
………..
Họ Kim tên Trọng vốn nhà trâm anh.
Nền phú hậu bậc tài danh,
Văn chương nết đất thông minh tính trời.
Phong tư tài mạo tót vời,
Vào trong phong nhã ra ngoài hào hoa.”

Nguyễn Du đã giành cho chàng những ngôn ngữ đẹp nhất, trang trọng nhất, những tình cảm ưu ái nhất khi nói về chàng. Chàng không những là người phong nhã, thanh lịch mà còn có một xuất thân quyền quý “nhà trâm anh”, “nền phú hậu”, một người có sự phú bẩm rộng rãi của tạo hoá, sự phong phú về tài hoa, trí tuệ “phong tư tài mạo” cũng như trong ứng xử tuyệt vời của chàng. Chàng được xây dựng như một người mẫu lý tưởng.

Và đây, nhân vật Từ Hải, một nhân vật xuất hiện trước mắt mọi người và Thuý Kiều với tầm vóc, dung mạo khác thường:

“Râu hùm, hàm én, mày ngài,
Vai năm tấc rộng thân mười thước cao”.

Ngôn ngữ miêu tả ngoại hình ở đây cũng không vượt ra ngoài tính chất công thức ước lệ với những chi tiết đã được quan niệm thẩm mỹ phong kiến quy định cho loại nhân vạt anh hùng. Nguyễn Du đã khắc hoạ nhân vật bằng những nét khoẻ mạnh, cao lớn, đường bệ lẫm liệt đã nói lên vẻ phi thường, vẻ hơn đời của Từ Hải.

“Đường đường một đấng anh hào,
Côn quyền hơn sức, lược thao gồm tài”

Vẻ đẹp của Từ Hải được Nguyễn Du miêu tả với những từ tôn xưng: Đấng anh hào; những từ có khí phách mạnh mẽ: Đường đường, hơn sức, gồm tài, đội trời, đạp đất, vẫy vùng…

Nói tóm lại, cũng là bút pháp ước lệ, tượng trưng, nhưng mỗi nhân vật lại có một nét khác biệt trong tính cách: Thuý Vân đoan trang phúc hậu; Thuý Kiều sắc sảo mặn mà, Kim Trọng hoà hoa phong nhã; Từ Hải gắn với tính cách phi thường của bậc anh hùng hảo hán. Tất cả những nhân vật chính diện này Nguyễn Du đều giành cho họ những tình cảm trân trọng, đẹp đẽ, ông dùng những từ ngữ đẹp nhất để ngợi ca họ

2. Khắc họa hình tượng nhân vật bằng bút pháp hiện thực.

Bút pháp này được sử dụng ở những nhân vật phản diện đó là những nét vẽ chân thực, sinh động có tính cá thể, tạo nên những diện mạo đặc sắc: Mã Giám Sinh, Sở Khanh, Tú Bà…Mã Giám Sinh là một nhân vật tiêu biểu được chọn giảng trong chương trình sách giao khoa ngữ văn 9.

Ở đoạn trích “Mã Giám Sinh mua Kiều” chân dung của y hiện lên thật nực cười:

“Quá niên trạc ngoại tứ tuần,
Mày râu nhẵn nhụi, áo quần bảnh bao”.

Câu thơ miêu tả khách quan mà vẫn không che dấu được cái ý ngầm mỉa mai bên trong. Cách phục sức dụng công cố làm ra vẻ phong lưu, lịch sự của tay con buôn đó phảng phất tính giả tạo và có phần trai lơ, đàng điếm. Miêu tả ngoại hình anh chàng họ Mã nhưng không thể xác định được chính xác về dung mạo như Kim Trọng, Từ Hải… tác giả chỉ chú trọng miêu tả phục sức bề ngoài già mà cố tô cho thành trẻ, là con buôn nhưng lại muốn mượn vẻ phong lưu của một công tử đi hỏi vợ.

Những từ “nhẵn nhụi”, “bảnh bao” vốn đã không hàm ý đẹp lại có ở một kẻ ngoại tứ tuần, càng gợi một cái gì không lương thiện, có ý chế giễu, mỉa mai. Còn trong “Kim Vân Kiều truyện” Thanh Tâm Tài Nhân chỉ giới thiệu qua nhưng là một lời miêu tả khá ưu đãi với Mã Giám Sinh: “Mụ Hàm nói xong đi ra, hồi lâu đưa mấy người đến, trong bọn có một người đẹp đẽ, bước tới chào và ngắm nghía Thuý Kiều mãi”.

Như vậy, ta có thể thấy chỉ bằng vài nét chấm phá Nguyễn Du đã phác hoạ khái quát chân dung của một loại người xấu xa trong xã hội, dung mạo của một con buôn lưu manh chuyên nghiệp, bất nhẫn vì tiền.

II. Khắc họa hình tượng nhân vật qua cử chỉ, hành động.

So với thế giới nhân vật trong “Kim Vân Kiều truyện” hành động của các nhân vật trong “Truyện Kiều” chỉ được kể lại vắn tắt nhưng vẫn bộc lộ rõ bản chất từng nhân vật trong quá trình sáng tác Nguyễn Du đã lược bỏ những cử chỉ hành động không phù hợp với tính cách nhân vật đồng thời ông cũng sáng tạo thêm nhiều những chi tiết mới để soi sáng cho tính cách. ở phần này, tôi lựa chọn một số nhân vật với những cử chỉ, hành động tiêu biểu để thể hiện tính cách.

Mã Giám Sinh sau khi làm lễ “vấn danh” được mụ mối đưa vào “lầu trong” lúc này bản chất con người hắn mới dần dần được bộc lộ:

“Ghế trên ngồi tót sỗ sàng
Buồng trong mối đã giục nàng kíp ra”

Chỉ bằng cử chỉ “ngồi tót” Nguyễn Du đã phơi bày chân tướng vô học bản chất con buôn của Mã Giám Sinh. Tính cách giục giã, vội vàng theo kiểu kẻ có tiền. Đó là một cử chỉ vội vàng và khiếm nhã, không phù hợp với địa vị người đi hỏi vợ và không đúng với phẩm cách văn hoá của một Giám Sinh.

Cũng cùng bọn người xấu xa, lừa lọc, Sở Khanh đã trở thành một lỗi lo sợ cho những bạn gái nào đang độ tuổi yêu đương… chỉ bằng một hành động “lẻn”, một cử chỉ “lẩm nhẩm gật đầu”, Nguyễn Du đã lột trần bộ mặt đáng ghê sợ của Sở Khanh khi đánh lừa Kiều:

“Tường đông lay động bóng cành,
Rẽ song đã thấy Sở Khanh lẻn vào”
Rồi nghe Kiều ân cần kể lể, hắn:
“Lắng nghe lẩm nhẩm gật đầu,
Ta đây nào phải ai đâu mà rằng”.

Cử chỉ “lẩm nhẩm” của Sở Khanh có một cái gì đó rất ám muội, không được ngay thẳng nên nó không mang dáng vẻ của một con người tử tế. Đó là cử chỉ của những loại người lưu manh, xảo trá còn Hồ Tôn Hiến, một viên quan đại thần thì sao? Hắn được sai đi dẹp loạn đã tìm cách mua chuộc Kiều, lừa hại chết Từ Hải. Sau đó, hắn còn ép Kiều hầu hạ dưới màn, làm nhục Kiều:

“Nghe càng đắm, ngắm càng say,
Lạ cho mặt sắt cũng ngây vì tình”.

Đằng sau vẻ uy nghiêm của một viên quan đại thần, trước vẻ đẹp của Kiều, Hồ Tôn Hiến cũng phải “ngây vì tình”, hành động “ngây” đã bộc lộ rõ một hình ảnh si mê thấp hèn…

Ngoài những cử chỉ của những loại người trên trong “Truyện Kiều” chúng ta còn thấy có cử chỉ “xăm xăm” của Thuý Kiều, “thoăn thoắt” của Kim Trọng khi họ đến với nhau. Nhân dịp gia đình Kiều về quê mừng thọ đã cho rằng đây một thời cơ tốt để gặp Kiều:

“Thời chân chân thức sẵn bày,
Gót sen thoăn thoắt dạo ngang mái tường”.

Còn Kiều, vì tình yêu, vì khao khát hạnh phúc, được tâm sự với người yêu, nàng đã: “Xăm xăm băng lối vườn khuya một mình”.

Với cử chỉ “xăm xăm”, “thoăn thoắt”, Kiều và Kim Trọng đã bộc lộ rõ họ là những con người dám sống cho tình yêu, họ đã vượt ra khỏi lễ giáo phong kiến để hành động theo sự mách bảo của trái tim.

Tóm lại, những từ “tót”, “lẻn”, “lẩm nhẩm”,”xăm xăm”, “thoăn thoắt”, là những từ rất chính xác, rất đắt chỉ có ở Nguyễn Du, chứ không có ở “Kim Vân Kiều truyện”. Nhờ thế nhân vật trong “Truyện Kiều” hiện lên cụ thể, sinh động hơn nhiều so với nhân vật của Thanh Tâm Tài Nhân.

Với Nguyễn Du, miêu tả nhân vật qua nội tâm, khám phá các trạng thái tâm lý của một con người đã trở thành một yếu tố đặc biệt quan trọng để xây dựng tính cách và đã có thành tựu rực rỡ.

III. Khắc họa nội tâm nhân vật qua ngôn ngữ tự sự.

Ở đoạn “Mã Giám Sinh mua Kiều” trong cảnh mua bán Thuý Kiều là hiện thân của con người lương thiện bị chà đạp của tài sắc bị dập vùi thảm thương. Nguyễn Du càng căm ghét tên buôn người Mã Giám Sinh bao nhiêu thì càng cảm thương sâu sắc trước nỗi đau xót nhục nhã ê chề của cô gái tài hoa bấy nhiêu, Kiều là một trang quốc sắc thiên hương, vậy mà bị đem ra mua bán như món hàng ngoài chợ. Nguyễn Du kể mà như nhập vào nhân vật, cũng đau sót với nhân vật:

“Nỗi mình thêm tức nỗi nhà,
Thềm hoa một bước lệ hoa mấy hàng.
Ngại ngùng dín gió e sương,
Ngừng hoa bóng thẹn trông gương mặt dầy.
Mối càng vén tóc bắt tay,
Nét buồn như cúc, điệu gầy như mai”.

Sáu dòng thơ mô tả nỗi uất ức, xót xa, tủi nhục của một trang tuyệt sắc giai nhân trước sự mua bán trơ trẽn của bọn buôn người. Từ đầu đến cuối, Kiều không hề nói một lời, chỉ có nỗi buồn hiện ra qua từng bước chân, nét mặt. Rõ ràng sự câm lặng, những giọt nước mắt lặng lẽ của Thuý Kiều, trong Truyện Kiều của Nguyễn Du hoàn toàn phù hợp với hoàn cảnh và tâm trạng bi kịch, với tính cách của nàng.

Đoạn “Thúc Sinh từ biệt Thuý Kiều”, bút pháp miêu tả nội tâm nhân vật của Nguyễn Du lại hiện lên rõ nét:

“Người lên ngựa kẻ chia bào,
Rừng phong thu đã nhuốm màu quan san.
Dặm hồng bụi cuốn chinh an,
Trông người đã khuất đã mấy ngàn dây xanh.
Người về chiếc bóng năm canh,
Kẻ đi muôn dặm một mình xa xôi.
Vầng trăng ai xẻ làm đôi,
Nửa in gối chiếc nửa soi dặm trường”.

Đoạn thơ nói lên sự chia biệt giữa Thúc Sinh và Thuý Kiều. Đây là một cuộc chia cách đầy lưu luyến giữa một đôi trẻ. Họ đã từng có những tháng ngày bên nhau đầy hạnh phúc mặn nồng. Mặc dù, Thúc Sinh không phải là mối tình đầu lãng mạn cao đẹp như với chàng Kim, nhưng ở bên Thúc Sinh, Kiều có một cuộc sống êm ấm, trong sạch, hoà thuận cả hai cùng không muốn rời nhau nhưng họ vẫn phải xa nhau. Lần này Thúc Sinh từ biệt Thuý Kiều để về nói cho Hoạn Thư biết việc mình đã lấy Kiều làm lẽ. Kiều linh cảm cuộc chia tay lành này lành ít giữ nhiều. Vì thế mà “người lên ngựa” đã đi rồi, chỉ còn lại mình Kiều với nỗi buồn chia cách. Thiên nhiên quanh nàng cũng trở nên mênh mông dàn trải, hiu hắt: một mầu quan san (mầu của chia ly, cách biệt), một ngàn dâu vô tận, một vầng trăng đơn chiếc, không trọn vẹn…cũng nói về cảnh chia ly, trong “Chinh phụ ngâm” của Đặng Trần Côn cũng có hình ảnh tương tự:

“Cùng trông lại mà cùng chẳng thấy,
Thấy xanh xanh biếc mấy ngàn dâu.
Ngàn dâu xanh ngát một mầu,
Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai…”

Trong thơ của Nguyễn Du Kiều hiện lên với những tâm sự rất chân thành sâu sắc, điều đó chứng tỏ Nguyễn Du đã phải nhập thân vào nhân vật mới viết được những dòng xúc động như thế.

Đoạn miêu tả tiếng đàn của Kiều khi bị Hồ Tôn Hiến làm nhục sau khi lừa Kiều, xúi giục Từ Hải ra hàng và chàng đã bị chết đứng:

“Một cung gió thẩm mưa sầu,
Bốn dây nhỏ máu năm đầu ngón tay”.

Nguyễn Du đã dùng tiếng đàn bi thảm “gió thảm mưa sầu”, “nhỏ máu” để cụ thể hoá tâm trạng và vận mệnh của Kiều. Trong các lần gẩy đàn của Kiều, không lần nào tiếng đàn bi thiết, đau thương như lần này. Tiếng đàn bật máu, tiếng đàn mang cái chết của Từ Hải và cái chết trong tâm hồn Kiều. Một cõi lòng đã dập tắt mọi niềm hạnh phúc, ước mơ. Chúng ta thấy dường như Nguyễn Du cũng đang tan nát cõi lòng, cũng đang nhỏ máu tâm hồn cùng nàng Kiều.

Qua những đoạn thơ trên, Thuý Kiều hiện lên với tất cả trạng thái phức hợp: Có nỗi buồn tủi, xót xa, đau đớn, ê chề, hổ thẹn, nhớ nhung với những rung động rất đời, rất thực.

Như vậy, có thể nói với bút pháp miêu tả bậc thầy, Nguyễn Du đã xây dựng lên chân dung Thuý Kiều không chỉ tuyệt thế giai nhân mà còn có thế giới nội tâm phong phú, sinh động, khiến nàng trở nên gần gũi với đời thực hơn – điều này chỉ có ở Nguyễn Du chứ không thể có trong Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân – Trung Quốc.

IV. Khắc họa nội tâm nhân vật qua ngôn ngữ độc thoại.

Ở đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” Nguyễn Du thành công khi sử dụng loại ngôn ngữ độc thoại nội tâm để khám phá chiều sâu tư tưởng, tình cảm con người, hiểu được tâm trạng nỗi niềm của Kiều khi ở lầu Ngưng Bích:

“Tưởng người dưới Nguyệt chén đồng,
Tin sương luống những rầy trông mai chờ”.

Người đầu tiên xuất hiện trong nỗi nhớ của Kiều là chàng Kim, nàng tưởng nhớ hình ảnh hai người uống rượu thề nguyện dưới đêm trăng mới hôm nào, trước đó:

“Vầng trăng vằng vặc giữa trời,
Đinh ninh hai miệng một lời song song”.

Và Kiều thấy thương Kim Trọng vẫn chưa biết Kiều đã không giữ trọn lời thề, vẫn đêm ngày trông chờ nàng một cách uổng công. Từ nhớ chàng Kim, nàng lại thấy thương mình:

“Bên trời góc bể bơ vơ,
Tấm son gột rửa bao giờ cho phai?”.

Nàng thấm thía với tình cảnh bơ vơ, trơ trọi của mình nơi “bên trời góc bể” và nuối tiếc mối tình đầu trong trắng, “tấm son” ở đây là tấm lòng chung thuỷ sắc son của Thuý Kiều đối với Kim Trọng. Bao giờ có thể quên được mối tình đó. Cũng có thể hiểu tấm lòng trong trắng của Thuý Kiều bị dập vùi, hoen ố, biết bao giờ mới có thể gột rửa được?

Như vậy, ta có thể thấy Kiều đã nhớ Kim Trọng với một tâm trạng đau đớn, xót xa, nàng quả là một người tình chung thuỷ. Trong dòng suy nghĩ miên man, nàng hết nhớ người yêu lại nhớ đến cha mẹ:

“Xót người tựa cửa hôm mai,
Quạt nồng ấm lạnh những ai đó giờ?
Sân lai cánh mấy nắng mưa,
Có khi gốc tử đã vừa người ôm”.

Kiều đã hình dung ra cảnh tượng sớm hôm cha mẹ tựa cửa ngóng trông tin tức của nàng. Nàng lại day dứt không nguôi là giờ đây ai là người phụng dưỡng cha mẹ đang ngày một già yếu.

Chỉ bốn câu thơ độc thoại nội tâm, Nguyễn Du đã khắc hoạ được tấm lòng hiếu thảo của Thuý Kiều đối với cha mẹ. Suốt quãng đời mười lăm năm đoạn trường lưu lạc, Nguyễn Du đã nhiều lần để Kiều độc thoại để từ đó bộc lộ chính mình. Có lúc, nàng đau đớn, dằn vặt, xót xa sau những đêm bướm lả ong lơi và cuộc say đầy tháng:

“Khi tỉnh rượu, lúc tàn canh,
Giật mình mình lại thương mình xót xa”.

Có khi nàng băn khoăn, trăn trở, hãi hùng về cuộc sống, về tương lai, về thân phận luôn ám ảnh day dứt nàng:

“Một mình lưỡng lự canh chày,
Đường xa nghĩ nỗi sau này mà kinh”.

Rồi khi nàng khuyên Từ Hải ra hàng, ngôn ngữ độc thoại đã bộc lộ rõ những nét tâm lý rất thực của một cô gái nửa đời nếm trải đủ mùi đắng cay:

“Nghĩ mình mặt nước cánh bèo,
Đã nhiều lưu lạc lại nhiều gian truân.
Bằng tay chịu tiếng vương thần,
Thênh thênh đường cái thanh vân hẹp gì!
Công tư vẹn cả hai bề,
Dần dà rồi cũng liệu về cố hương.
Cũng ngồi mệnh phụ đường đường,
Nở nang mày mặt rỡ ràng mẹ cha…”.

Qua đoạn thơ, ta thấy tâm lý của Kiều hiện lên rất thực: nàng biết khi Từ Hải ra hàng thì phải chịu thiệt thòi, phải mang tiếng vương thần, song bên cạnh đó là cả một tương lai tươi sáng, rực rỡ đã nói lên nhiều điều lợi, dù sao Kiều chỉ là một nạn nhân mà nguyện vọng duy nhất là được sống yên ổn, lương thiện và trong sạch.

Có thể nói với những yếu tố ngôn ngữ độc thoại như trên, nàng Kiều hiện lên như một người trần tục với tất cả những tình cảm, suy nghĩ, lo toan rất thực, rất đời thường, nàng trở nên gần gũi với người đọc hơn. Đạt được điều đó phải chăng đó chính là trình độ bậc thầy của Nguyễn Du trong việc khám phá thế giới nội tâm con người, đặc biệt là những người phụ nữ.

V. Khắc hoạ tính cách nhân vật qua ngôn ngữ đối thoại.

Để nhân vật của mình được hiện lên đầy đủ, toàn diện, Nguyễn Du đã miêu tả họ với cái nhìn nhiều chiều, có khi là miêu tả ngoại hình, có khi miêu tả nội tâm, có khi lại thông qua ngôn ngữ đối thoại của họ để thấy được tính cách sống động của mỗi nhân vật.

Ở đoạn trích “Thuý Kiều báo ân, báo oán” ngôn ngữ đối thoại được thể hiện rõ ràng hơn cả. Có hai cuộc đối thoại: đối thoại giữa Kiều với Thúc Sinh và đối thoại giữa Kiều với Hoạn Thư và giữa Hoạn Thư với Kiều.

Kiều được Từ Hải – người anh hùng cứu ra khỏi lầu xanh, giúp nàng báo ân, trả oán. Đưa nàng từ thân phận của một kỹ nữ chốn lầu xanh nhơ bẩn lên thân phận của một mệnh phụ phu nhân, bước lên địa vị một quan toà cầm cán cân công lý. Trong phiên toà nàng cho gọi những người đã từng có ân, có oán với nàng đến.

Người đầu tiên được Kiều mời đến là Thúc Sinh, thấy hình ảnh tội nghiệp của Thúc Sinh nàng đã cất lên tiếng hàm ơn:

“Nàng rằng: Nghĩa nặng nghìn non,
Lâm Tri người cũ chàng còn nhớ không?
Sâm Thương chẳng vẹn chữ tòng,
Tại ai há dám phụ lòng cố nhân?”.

Rõ ràng là Kiều vẫn rất nhớ tấm lòng và sự giúp đỡ mà Thúc Sinh đã giành cho nàng trong cơn hoạn nạn. Nàng gọi đó là “nghĩa nặng nghìn non”. Nghĩa là nàng vẫn nhớ tới công ơn của Thúc Sinh đã đưa Kiều ra khỏi lầu xanh, cứu nàng thoát khỏi cuộc đời ô nhục đem lại cuộc sống gia đình êm ấm.

Đối thoại với Thúc Sinh, Kiều nói bằng một ngôn ngữ rất trang trọng: “nghĩa nặng nghìn non”, “chẳng vẹn chữ tòng”…hầu hết là những từ Hán Việt, lại dùng cả điển cố… Cách nói đó phù hợp với chàng thư sinh họ Thúc và biểu lộ được tấm lòng biết ơn chân thành của Kiều.

Thuý Kiều cũng nói với Thúc Sinh rằng: Kẻ gây ra sự chia cách giữa hai người không phải do chàng mà là do vợ chàng. Nói với Thúc Sinh về Hoạn Thư, Kiều không sao nguôi được sự oán giận với những khổ đau mà Hoạn Thư đã gây ra cho nàng, vết thương đó còn đang quá xót xa trong lòng nàng, cho nên nàng không thể không cả giận:

“Vợ chàng quỷ quái tinh ma,
Phen này kẻ cắp bà già gặp nhau.
Kiến bò miệng chén chưa lâu
Mưu sâu cũng trả nghĩa sâu cho vừa”.

Nếu nói với Thúc Sinh, Kiều nói bằng một ngôn ngữ trang trọng, thì nói về Hoạn Thư, Kiều lại nói bằng một ngôn ngữ hết sức nôm na bình dị, Kiều sử dụng những thành ngữ quen thuộc, đó là lời ăn tiếng nói của nhân dân.

Qua ngôn ngữ đối thoại của Kiều với Thúc Sinh, ta thấy tính cách của nàng đã bộc lộ khá rõ ràng, nàng xử đúng người đúng tội, báo nhân đối với người đáng báo ân, đồng thời thấy được nàng là một người sống có tình có nghĩa, có trước có sau. Sau khi trả ơn Thúc Sinh, bà quản gia nhà họ Hoạn và sư Giác Duyên, Thuý Kiều mới bước vào cuộc báo thù:

“Dưới cờ gươm tuốt nắp ra,
Chính danh thủ phạm tên là Hoạn Thư”.

Thuý Kiều thoắt trông thấy Hoạn Thư đã cất tiếng chào mỉa mai: “Tiểu thư cũng có bây giờ đến đây!” Kiều dùng cách xưng hô như hồi còn làm hoa nô cho nhà họ Hoạn trong hoàn cảnh thứ bậc đã đổi ngôi.

Tiếp theo lời chào mỉa mai là những lời mắng nhiếc, xỉ vả thì những lời mắng nhiếc xỉ vả ấy của Kiều là đích đáng lắm:

“Đàn bà dễ có mấy tay,
Đời xưa mấy mặt đời này mấy gan!
Dễ dàng là thói hồng nhan,
Càng cay nghiệt lắm càng oan trái nhiều”.
Với một kẻ như Hoạn Thư:
“Bề ngoài thơn thớt nói cười,
Bề trong nham hiểm giết người không dao”.

Trước những lời nói mỉa mai, đay nghiến đó của Kiều, Hoạn Thư đã xử trí vô cùng khôn ngoan và khéo léo. Lúc đầu, “Hoạn Thư hồn lạc phách xiêu”, nhưng sau đó “Hoạn Thư đã liệu đều kêu ca”. Trước hết Hoạn Thư gỡ tội cho mình bằng cách dựa vào tâm lý thường tình của người phụ nữ:

“Rằng: tôi chút phận đàn bà,
Ghen tuông thì cũng người ta thường tình”.

Hoạn Thư nói rằng tội của tôi là tội ghen tuông, mà tội ấy thì ở người đàn bà nào mà chẳng có. Vậy là, đã đánh thức được ở Kiều lòng thông cảm với người cùng giới. Quả thực, ngay từ đầu Hoạn Thư đã tỏ ra thông minh giảo hoạt.

Tiếp theo, Hoạn Thư lại gợi chút “ân tình” ngày xưa: một là, đã cho Kiều xuống Quan Âm các “giữ chùa chép kinh”, không bắt làm thị tì nữa; hai là, khi Kiều bỏ trốn mang theo chuông vàng khánh bạc, Hoạn Thư cũng không cho người đuổi bắt. Cách nói rất khéo chỉ gợi sự thật và chuyện cũ ra, chỉ người trong cuộc mới biết.

“Nghĩ cho” là nhớ lại cho, suy nghĩ lại cho:

“Nghĩ cho khi gác viết kinh,
Với khi khỏi cửa dứt tình chẳng theo”.

Đối với Kiều, Hoạn Thư đã từng nói với Thúc Sinh: “Rằng: tài lên trọng mà tình lên thương”. Tuy “chồng chung chưa dễ ai chiều cho ai”, nhưng trong thâm tâm, Hoạn Thư rất “kính yêu” Thuý Kiều. Cuối cùng Hoạn Thư tự nhận tội của mình và xin Kiều rộng lòng tha thứ:

“Trót lòng gây việc chông gai,
Còn nhờ lượng bể thương bài nào chăng?”

Lời gỡ tội của Hoạn Thư vừa có lí, vừa có tình. Lời cầu xin đúng mực, chân thành, Kiều đã phải thừa nhận cái thông minh, giảo hoạt của Hoạn Thư và ban một lời khen:

“Khen cho: thật đã nên rằng,
Khôn ngoan đến mức nói năng phải lời”.

Không thể là người “nhỏ nhen” Kiều đã tha tội cho Hoạn Thư:

“Đã lòng tri quá thì nên,
Truyền quân lệnh xuống trướng tiền tha ngay”.

Sự việc diễn ra quá bất ngờ, ngoài sức tưởng tượng của nhiều người. Vốn là một người phụ nữ trung hậu, đã từng nếm trải bao cay đắng và ngang trái trong cuộc đời, vả lại Kiều cũng tự biết rằng mình đã xâm phạm đến hạnh phúc của người khác. Tha tội cho Hoạn Thư, Kiều tỏ ra vô cùng cao thượng.

Như vậy, với màn báo ân báo oán ta thấy hết được những sáng tạo của ngòi bút thiên tài Nguyễn Du. Cảnh pháp trường thời trung cổ được miêu tả ước lệ mà không kém phần uy nghiêm. Lời thoại rất gọn mà sắc đã làm nổi bật tâm lý, tính cách nhân vật Thúc Sinh lành mà nhát sợ; Hoạn Thư thì khôn ngoan, sắc sảo; Kiều rất trung hậu, cao thượng, bao dung.

Nguyễn Du đã sáng tạo lên những lời thoại biến hoá đã nói lên chuyện ân oán, cái lẽ đời xưa nay, ca ngợi sự thuỷ chung tình nghĩa, lên án bọn bạc ác tinh ma. Cảnh báo ân, báo oán là một tình tiết rất đậm làm nổi bật tinh thần nhân đạo của “Truyện Kiều”.

Bằng quá trình lao động nghệ thuật công phu và đầy sáng tạo, với cái nhìn sắc sảo khách quan về cuộc sống, Nguyễn Du đã xây dựng được những nét tính cách đa dạng, hoàn chỉnh và rõ nét. Nhân vật trong “Truyện Kiều” là nhân vật của cuộc đời hiểu theo ý nghĩa xã hội sâu sắc, đúng đắn. Đó không phải là những con người “nhất thành bất biến” đơn giản một chiều chịu sự chi phối của một quan niệm chủ quan. Bên cạnh cái “cốt lõi” của mỗi con người, ta bắt gặp những biến thiên phong phú của những tính cách đa dạng. Qua tìm hiểu “Truyện Kiều” chúng ta có thể thấy nghệ thuật xây dựng nhân vật của Nguyễn Du rất phong phú, đa dạng, đạt đến trình độ điêu luyện hiếm có.


Dàn ý:

a. Miêu tả ngoại hình:

– Miêu tả ngoại hình độc đáo : sự dụng ước lệ, ẩn dụ, tượng trưng, so sánh…; dùng từ “đắt”.

– Qua nét vẽ ngoại hình hé lộ phẩm chất, tính cách và cả số phận nhân vật.

(Qua các đoạn trích: “Chị em Thúy Kiều”, “Mã Giám Sinh mua Kiều”, “Kiều gặp Kim Trọng”, “Kiều gặp Từ Hải”…).

b. Miêu tả hành động, cử chỉ, ngôn ngữ nhân vật.

– Miêu tả cụ thể hành động, lời nói của nhân vật (Mã Giám Sinh mua Kiều)

– Dùng ngôn ngữ độc thoại nội tâm (Kiều ở lầu Ngưng Bích).

– Dùng ngôn ngữ đối thoại ( Thúy Kiều báo ân báo oán).

– Khắc họa tính cách.

– Đặt nhân vật vào những cảnh ngộ đặc biệt, dự báo về số phận.

c. Nghệ thuật miêu tả nội tâm, phân tích tâm lí.

– Miêu tả tâm lí nhân vật tinh tế (“Mã Giám Sinh mua Kiều”, “Kiều ở lầu Ngưng Bích”, Kiều báo ân báo oán).

– Trực tiếp (Mã Giám Sinh mua Kiều).

– Gián tiếp – bằng bút pháp tả cảnh ngụ tình (Kiều ở lầu Ngưng Bích).

– Khắc họa tính cách, số phận nhân vật

d. Xây dựng nhân vật theo hai tuyến với bút pháp riêng.

* Tuyến nhân vật chính diện (Thúy Kiếu, Thúy Vân, Kim Trọng, Từ Hải).

–  Xây dựng theo lối tưởng tượng hóa

–  Miêu tả bằng bút pháp ước lệ tượng trưng.

–  Ngôn ngữ chọn lọc trau chuốt.

–  Với nhân vật chính diện Nguyễn Du dành cho họ những tình cảm yêu mến trân trọng và cảm thông chia sẻ sâu sắc (thể hiện qua việc lựa chọn chi tiết hình ảnh miêu tả và sử dụng ngôn ngữ).

* Tuyến nhân vật phản diện (Mã Giám Sinh, Tú Bà, Sở Khanh, Hoạn Thư , Hồ Tôn Hiến).

–  Được khắc họa theo lối hiện thực, bằng những bút pháp cụ thể, lịch sử.

–  Ngôn ngữ miêu tả trực diện.

–  Nguyễn Du ngầm tỏ thái độ khinh bỉ, căm phẫn sâu sắc.

Hãy bình luận đầu tiên

Để lại một phản hồi

Thư điện tử của bạn sẽ không được hiện thị công khai.