Qua khổ thơ 5 và 6 bài thơ Ánh trăng, cảm nhận vẻ đẹp hình ảnh vầng trăng và cảm xúc của nhà thơ Nguyễn Duy

qua-kho-tho-5-6-bai-tho-anh-trang-cam-nhan-ve-dep-hinh-anh-vang-trang-va-cam-xuc-cua-nha-tho-nguyen-duy

Qua khổ thơ 5 và 6 bài thơ “Ánh trăn”g, cảm nhận vẻ đẹp hình ảnh vầng trăng và cảm xúc của nhà thơ Nguyễn Duy

  • Mở bài:

Bài thơ Ánh trăng của Nguyễn Duy mang dáng dấp một câu chuyện nhỏ, một lời tâm tình kể theo trình tự thời gian. Dòng cảm hứng trữ tình của nhà thơ chảy theo mạch tự sự đó. Ở quãng thời gian giữa quá khứ và thực tại đã có một sự biến đổi, một sự thực đáng chú ý: bắt đầu từ hồi ức về “hồi nhỏ”, ‘hồi chiến tranh” sống gần gũi, gắn bó với thiên nhiên, với vầng trăng: “không bao giờ quên cái vầng trăng tình nghĩa”. Tiếp đó là sự đổi thay của hoàn cảnh hiện tại: “Từ hồi về thành phổ”, con người sống với những tiện nghi hiện đại mà quên đi vầng trăng: “vầng trăng đi qua ngõ như người dưng qua đường”.

  • Thân bài:

Trước hết, ánh trăng của Nguyễn Duy là hình ảnh đẹp của thiên nhiên với tất cả những gì là thi vị, gần gũi, hồn nhiên, tươi mát. Ánh trăng gần với tuổi ấu thơ của tác giả. Vầng trăng ấy hồn nhiên như cuộc sống, như đất trời. Cuộc sống hoà bình “ánh điện của gương, buyn đinh” đã khiến cho nhà thơ nhìn ánh trăng như một “người dưng qua đường”. Con người từng một thời chiến đấu, từng ngang dọc trên nhiều chiến trường đã có lúc như lãng quên quá khứ

Tưởng chừng như tất cả là lẽ thường tình nếu không có sự cố ấy xảy đến. Trong dòng diễn biến theo thời gian, sự việc bất thường ở khổ thơ thứ tư: “thình lình đèn điện tắt” chính là bước ngoặt để tác giả bộc lộ cảm xúc, thể hiện chủ đề tác phẩm. Vầng trăng tròn ở ngoài kia, trên kia đối lập với “phòng buyn-đinh tối om”. Chính vì xuất hiện đột ngột trong bối cảnh ấy, vầng trăng bất ngờ mà tự nhiên đã gợi ra bao kỷ niệm nghĩa tình. Phải đột ngột như thế. Phải bất ngờ như thế, vầng trăng mới làm thức dậy trong tâm trí con người bao cảm xúc:

“Ngửa mặt lên nhìn mặt
có cái gì rưng rưng
như là đồng là bể
như là sông là rừng”                                                       •

Nhà thơ lặng lẽ đối diện với vầng trăng trong tư thế lặng im có phần thành kính: “ngửa mặt lên nhìn mặt”. Từ “mặt” cuối câu thơ là từ nhiều nghĩa, tạo nên sự đa dạng nghĩa của ý thơ. Đối diện với trăng, nhà thơ làm thức tỉnh tình cảm, lương tâm con người: như nhìn thấy cả mặt trong đó và tư vấn lương tâm, hổ then, ân hận về sự thay đổi của mình.

Cuộc đối thoại không lời trong khoảnh khắc ấy đã làm nhà thơ “rưng rưng” xúc động vì quá khứ vất vả, gian lao nhưng tràn ngập niềm vui cùng với trăng, với thiên nhiên bấy lâu tưởng đã lãng quên bỗng ùa về trong nỗi nhớ khiến nhà thơ nghẹn ngào… Vầng trăng trong bài thơ còn có ý nghĩa biểu tượng: biểu tượng cho quá khứ nghĩa tình, biểu tượng cho vẻ đẹp bình dị và vĩnh hằng của đời sống. Vầng trăng đâu chỉ làm ùa dậy trong tâm trí những hình ảnh của thiên nhiên, của quê hương đất nước, mà còn đánh thức trong tâm trí con người bao kỷ niệm hồn nhiên của thời tuổi nhỏ, bao kỷ niệm nghĩa tình của một thời gian lao chiến đấu.

Cuộc sống hiện tại như ngừng lại để con người soi vào quá khứ, vào một thời họ đã lãng quên. Con người có cơ hội soi vào chính mình, nhận lấy lỗi lầm. Có quá khứ xa và gần, có đất nước và quê hương, thiên nhiên và cuộc sống, lao động và chiến đấu, có tâp thể và cá nhân.

Trăng còn gợi lên hình ảnh của hiện tại, sự giàu đẹp, nỗi gian lao, vất vả còn phải phấn đấu, niềm tin và hy vọng, sự hùng vĩ của thiên nhiên đất nước và sức mạnh của con người trong cuộc sống thông qua một loạt các điệp từ “như là” cùng nhịp thơ dồn dập, các hình ảnh liệt kê: “như là đồng là bể”, “như là sông là rừng”. Tất cả làm cho người đọc thực sự xúc động và hoà chung cảm xúc với trữ tình của bài thơ.

Khổ thơ cuối thể hiện những suy ngẫm sâu sắc và triết lý nhân sinh của nhà thơ qua hình tượng trăng. Trong cuộc gặp gỡ không hẹn trước này trăng và người như có sự đối lâp:

“Trăng cứ tròn vành vạnh
kể chi người vô tình
ánh trăng im phăng phắc
đủ cho ta giật mình”

Trăng đã trở thành biểu tượng cho sự bất biến, vĩnh hằng không thay đổi, “cứ tròn vành vạnh” biểu tương cho sự tròn đầy, thuỷ chung, nghĩa tình trọn vẹn của thiên nhiên, của quá khứ, dù cho con người đổi thay hay “vô tình” đi chăng nữa.

Ánh trăng còn được nhân hoá “im phăng phắc” không một lời trách cứ, gợi liên tưởng đến cái nhìn nghiêm khắc mà bao dung, độ lượng của người bạn thuỷ chung, tình nghĩa, nhắc nhở nhà thơ và mỗi chúng ta: con người có thể vô tình quên nhưng thiên nhiên, nghĩa tình quá khứ thì luôn thủy chung, son sắt đến muôn đời.

Tình cảm và tấm lòng của vầng trăng chính là tình cảm của những người đồng chí đồng đội, của đồng bào, của nhân dân ta đới với người lính. Sư im lăng ấy làm nhà thơ “giật mình” thức tỉnh nhận ra lỗi lầm. Cái “giật mình” của lương tâm, lương tri nhà thơ thật đáng trân trong. Nó thể hiện sự suy nghĩ, trăn trở tự đấu tranh với chính mình để sống tốt hơn. Giật mình để không chìm vào lãng quên. Giật mình để không đánh mất quá khứ. Con người giật mình trước ánh trăng lặng lẽ là sự thức tỉnh của nhân cách trở về với lương tâm trong sạch, tốt đẹp, cao quý.

Dòng thơ cuối dồn nén biết bao niềm tâm sự, là lời sám hối ăn năn dù không cất lên nhưng chính vì thế càng trở nên ám ảnh, day dứt. Qua đó, Nguyễn Duy muốn gửi đến mọi người lời nhắc nhở về lẽ sống, về đạo lý ân nghĩa thuỷ chung của dân tộc ta đến thé hẹ mai sau: dù cuộc sống có bao nhiêu thay đổi đi chăng nữa thì cũng đừng bao giờ lãng quên quá khứ đau thương nhưng nghĩa tình thủy chúng của dân tộc.

“Ánh trăng” của Nguyễn Duy gây nhiều xúc động bởi cách diễn tả bình dị như lời tâm sự, lời tự thú, nhắc nhở chân thành. Giọng thơ trầm tĩnh, sâu lắng, thì thàm như rót vào lòng người. Bài thơ có ý nghĩa sâu sắc, khái quát bởi lời nhắn nhủ không chỉ dành riêng cho những người lính chống Mỹ mà nó có ý nghĩa với tất cả mọi người, mọi thời – trong đó có thế hệ chúng ta.

“Ánh trăng” không chỉ thành công ở triết lý sâu xa của nhân vật trữ tình mà còn thành công ở nghệ thuật kết cấu, giọng điệu. Đó là sự kết hợp hài hoà, tự nhiên giữa tự sự và trữ tình. Sự việc trong tự sự dẫn mạch cho cảm xúc trữ tình, làm cho cảm xúc chân thành, tha thiết. Thể thơ 5 chữ phù hợp vói chất tự sự được thể hiện bằng giọng điệu tâm tình, thấm thìa. Cách trình bày các chữ đầu dòng thơ làm cho các sự việc diễn ra liền mạch về ý tưởng cũng như về hình ảnh thơ. Nhịp thơ khi trôi chảy, tự nhiên, nhịp nhàng theo Iời kể; khi ngân nga thiết tha cảm xúc; lúc lại trầm lắng đầy ắp suy tư. Kết cấu, giọng điệu thơ làm nổi bật chủ đề của tác phẩm tạo nên tính chân thực, chân thành sức truyền cảm sâu sắc cho tác phẩm, gây ấn tượng mạnh vói người đọc.

Chủ đề bài thơ có liên quan đến đạo lý, lẽ sống của dân tộc Việt Nam ta. Từ một câu chuyện riêng, bài thơ cất lên lời tự nhắc nhở thấm thìa về thái độ, tình cảm đối với những năm tháng quá khứ gian khổ mà nghĩa tình đối với thiên nhiên, đất nước bình dị. Bài thơ gợi lên những suy nghĩ về đạo lý, lẽ sống của người Việt Nam. Nó không chỉ là câu chuyện của riêng nhà thơ, riêng một người mà là của cả một thế hệ đã trải qua những năm dài chiến tranh gian khổ, mất mát, đã từng sống giữa thiên nhiên, sống giữa nhân dân tình nghĩa. Giờ đây sống trong cảnh hoà bình với những tiện nghi đầy đủ, hiện đại, người ta có thể thay đổi, đánh mất quá khứ, đánh mất nghĩa tình để rồi một lúc nào đó lại phải ân hận, ăn năn.

  • Kết bài:

Từ câu chuyện về ánh trăng, khổ thơ 5 và 6 bài thơ Ánh trăng nhẹ nhàng nhắc nhở chúng ta đừng bao giờ quên quá khứ, đừng bao giờ trở thành những kẻ vô tình, vô nghĩa, bạc bẽo, vô ơn. “Ánh trăng” nằm trong mạch cảm xúc “uống nước nhớ nguồn” gợi lên đạo lý sống thuỷ chung đã trở thành truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam.

1 Trackbacks / Pingbacks

  1. Phân tích bài thơ "Ánh trăng" của Nguyễn Duy - Thế Kỉ

Để lại một phản hồi

Thư điện tử của bạn sẽ không được hiện thị công khai.