Tấm lòng người mẹ (Trích Những người khốn khổ – V. Huy-gô) (Ngữ văn 11, tập 1, Cánh Diều)

tam-long-nguoi-me-trich-nhung-nguoi-khon-kho-huy-go-ngu-van-11-tap-1-canh-dieu

Thực hành đọc hiểu:

Tấm lòng người mẹ
(Trích Những người khốn khổ – V. Huy-gô)

* Nội dung chínhĐoạn trích Tấm lòng người mẹ nói tình mẫu tử cao cả của người mẹ khốn khổ, bất chấp hi sinh mọi thứ để đánh đổi những điều tốt đẹp nhất dành cho đứa con gái tội nghiệp. Qua đó, ta thấy đoạn trích như một bức tranh hiện thực nói lên góc khuất của xã hội lúc bấy giờ về những mảnh đời éo le, đáng thương.

I. Trước khi đọc.

Đọc trước đoạn trích Tấm lòng người mẹ và tìm hiểu thêm thông tin về nhà văn Vích-to Huy-gô, tiểu thuyết Những người khốn khổ; lựa chọn và ghi chép một số thông tin giúp em đọc hiểu văn bản này.

Gợi ý:

* Tác giả Vích-to Huy-gô.

– Victor-Marie Hugo (26 tháng 2, 1802 – 22 tháng 5, 1885 tại Paris) là một nhà văn, thi sĩ, nhà viết kịch thuộc chủ nghĩa lãng mạn nổi tiếng của Pháp. Ông cũng đồng thời là một chính trị gia, một trí thức dấn thân tiêu biểu của thế kỷ XIX.

– Vích-to Huy-gô chiếm một vị trí trang trọng trong lịch sử văn học Pháp. Các tác phẩm của ông đa dạng về thể loại và trải rộng trên nhiều lĩnh vực khác nhau.

+ Với tư cách là nhà thơ trữ tình, Hugo đã xuất bản tập Odes et Ballades (1826), Les feuilles d’automne (1831) hay Les Contemplations (1856).

+ Nhưng ông cũng thể hiện vai trò của một nhà thơ dấn thân chống Napoléon III bằng tập thơ Les Châtiments (1853) và vai trò một nhà sử thi với tập La Légende des siècles (1859 và 1877). + Thành công vang dội của hai tác phẩm Nhà thờ Đức Bà Paris và Những người khốn khổ đã đưa Victor Hugo trở thành tiểu thuyết gia của công chúng.

+ Về kịch, ông đã trình bày thuyết kịch lãng mạn trong bài tựa của vở kịch Cromwell (1827) và minh họa rõ nét thể loại này ở hai vở kịch nổi tiếng Hernani (1830) và Ruy Blas (1838).

– Phong cách nghệ thuật: Mỹ học lãng mạn kết hợp với cảm quan hiện thực tạo nên sức lôi cuốn và thuyết phục của lí tưởng thẩm mỹ V. Huy-gô đối với cuộc đời. Đó là cái đẹp của tình thương yêu hòa đồng, của hạnh phúc bình đẳng và của sự tiến bộ vô tận của con người, và đó chính là giá trị bất hủ của ý nghĩa nhân văn trong tác phẩm của ông.

* Tiểu thuyết Những người khốn khổ.

Những người khốn khổ (Tiếng Pháp: Les Misérables) là tiểu thuyết của văn hào Pháp Victor Hugo, được xuất bản năm 1862. Tác phẩm được đánh giá là một trong những tiểu thuyết nổi tiếng nhất của nền văn học thế giới thế kỷ 19.

Những người khốn khổ là câu chuyện về xã hội nước Pháp trong khoảng hơn 20 năm đầu thế kỷ 19 kể từ thời điểm Napoléon I lên ngôi và vài thập niên sau đó. Nhân vật chính của tiểu thuyết là Jean Valjean, một cựu tù khổ sai tìm cách chuộc lại những lỗi lầm đã gây ra thời trai trẻ. Bộ tiểu thuyết không chỉ nói tới bản chất của cái tốt, cái xấu, của luật pháp, mà tác phẩm còn là cuốn bách khoa thư đồ sộ về lịch sử, kiến trúc của Paris, nền chính trị, triết lý, luật pháp, công lý, tín ngưỡng của nước Pháp nửa đầu thế kỷ 19.

II. Trong khi đọc.

Câu 1. Truyện sử dụng ngôi kể nào?

Trả lời:

– Ngôi thứ 3: Người kể chuyện đứng ngoài, không xuất hiện.

Câu 2. Câu đầu và câu cuối phần 1 nói lên điều gì về Phăng – tin?

Trả lời:

– Câu đầu và câu cuối phần 1 nói lên Phăng – tin là một cô gái nghèo và đang sống trong cảnh nợ nần.

Câu 3. Phần 2 kể về sự việc gì?

Trả lời:

– Phần (2) kể về việc vợ chồng Tê-nác-đi-ê âm mưu lừa rằng Cô-dét trần truồng, rách rưới giữa tiết trời buốt giá nhằm lấy mười phơ-răng từ nàng Phăng-tin. Sau khi biết tin, vì thương xót con, nàng đã bán đi mái tóc vàng óng ả của mình để kiếm tiền mua váy len cho con.

Câu 4. Sự việc nào được kể trong phần 3?

Trả lời:

– Phần (3) nói về việc một lần nữa nàng Phăng-tin lại nhận được bức thư lừa tiền của vợ chồng Tê-nác-đi-ê nói rằng Cô-dét lâm bệnh sốt ban, họ cần bốn mươi phơ-răng để mua thuốc chữa trị. Đúng lúc này, anh chàng nhổ răng dạo muốn mua hai chiếc răng của nàng với giá hai đồng vàng (bốn mươi phơ-răng). Lúc đầu, nàng nghĩ thật ngớ ngẩn, nhưng sau cuộc nói chuyện với bà Mác-gơ-rít, nàng đã thay đổi ý định và đã bán đi hai chiếc răng với hi vọng có thể cứu sống được con gái mình.

Câu 5. Chi tiết hai đồng vàng có ý nghĩa gì với Phăng-tin?

Trả lời:

– Ý nghĩa: chị bán răng đi có thể được hai đồng vàng và hai đồng ấy có thể cứu giúp, chữa bệnh cho con gái của mình.

Câu 6. Việc Phăng-tin đọc lại bức thư một lần nữa nói lên điều gì?

Trả lời:

– Việc Phăng-tin đọc lại bức thư một lần nữa cho thấy sự đau khổ, tuyệt vọng của cô khi nghĩ về đứa con gái bé bỏng của mình.

Câu 7.  Phần 4 cho thấy điều gì về cuộc sống của Phăng – tin sau khi bán tóc, bán răng?

Trả lời:

– Phần 4 cho thấy cuộc sống của Phăng – tin sau khi bán tóc, bán răng càng lúc càng khó khăn. Chị không cần biết xấu hổ là gì nữa, cũng không thiết làm dáng nữa. Cuộc sống tủi khổ, cùng nỗi lo cho con khiến chị phải đi làm gái điếm.

Câu 8. Hình dung tâm trạng của Phăng-tin sau khi đọc thư nhà Tê-nác-đi-ê.

Trả lời:

– Tâm trạng đau khổ, giày vò bản thân mình, bất lực không thể làm gì được, nhưng cũng không thể làm ngơ trước tình hình của đứa con.

III. Sau khi đọc.

Câu 1. Nội dung chính của đoạn trích Tấm lòng người mẹ là gì?

Trả lời:

– Nội dung chính của đoạn trích Tấm lòng người mẹ là kể về tình mẫu tử thiêng liêng của người mẹ Phăng – tin, cô bất chấp tất cả để mong cho con mình được no đủ, hạnh phúc.

Câu 2.  Xác định và phân tích tình huống truyện, các chi tiết nói về không gian, thời gian trong văn bản. Tình huống và những chi tiết đó có ý nghĩa như thế nào?

Trả lời:

– Tình huống truyện: Phăng-tin, một cô gái đang hấp hối sau khi bị đuổi việc khỏi công xưởng, chủ nợ đòi tiền hối thúc liên tục và bị vợ chồng Tê-nác-đi-ê giày vỏ khi luôn viết thư thôi thúc, đòi tiền để nuôi con gái nàng, Cô-dét. Truyện được đẩy đến cao trào dần dần bắt đầu từ việc nàng bán tóc, sau đó bán răng và túng quẫn quá nàng đã quyết định đi bán dâm để gửi tiền về nuôi đứa con gái tội nghiệp.

– Chi tiết về không gian: trong một căn gác xép sát mái nhà, chỉ cài bằng một cái then con, một cái xó mà gác mái chếch lên mặt sàn, ra vào đụng độ, “kẻ nghèo khổ chui vào buồng mình ở cũng như đi sâu vào số mệnh, càng vào càng phải cúi rạp lưng xuống”

– Chi tiết về thời gian: buổi chiều, ban tối, trời chưa sáng.

– Ý nghĩa của tình huống truyện và những chi tiết đó: giúp lột tả được tâm trạng đau khổ, bị dồn đến mức đường cùng của người mẹ, chỉ cần nghĩ đến hình ảnh đứa con “thơ ngây yêu dấu”, chị có thể hi sinh tất cả. Những chi tiết như chị cắt đi mái tóc để có tiền mua áo cho con, hay nhổ răng để có tiền cho con chữa bệnh, hay trở về làm gái bán hoa để kiếm tiền đưa cho vợ chồng Tê – nác – đi – ê đều làm nổi bật lên tình mẫu tử thiêng liêng, cao quý. Một người mẹ có thể hy sinh rất nhiều thứ để đứa con mình được sống hạnh phúc hơn.

Câu 3. Trong đoạn trích, Phăng – tin rơi vào hoàn cảnh nào? Nàng đã làm những gì? Những việc làm đó nói lên điều gì ở con người nàng?

Trả lời:

– Hoàn cảnh: Trong đoạn trích, Phăng-tin rơi vào hoàn cảnh nghiệt ngã, khốn khổ. Chị gánh trên vai số nợ lớn đang cố gắng nỗ lực sống, làm việc kiếm tiền để gửi về quê cho gia đình chủ trọ đang chăm sóc con của mình. Hết lần này đến lần khác chị bị dồn ép và phải trả giá bằng nhiều thứ chỉ để có tiền gửi về nuôi và chữa bệnh cho con. Thế nhưng chị không biết đứa con của mình phải sống khổ cực ra sao và số tiền mình liều mạng có được đều vào túi hai vợ chồng tham lam.

– Hành động: Chị đã cắt đi mái tóc để có tiền mua áo cho con, nhổ răng để có tiền cho con chữa bệnh, làm gái bán hoa để kiếm tiền đưa cho vợ chồng Tê – nác – đi – ê.

→ Thể hiện chị là một người mẹ vĩ đại, một người mẹ hết mực yêu thương con của mình, dù có phải đánh đổi bao nhiêu thứ vẫn chỉ mong con mình được sống tốt và khỏe mạnh hơn.

Câu 4. Đoạn trích thể hiện quan điểm, tư tưởng nào của tác giả? Hãy lí giải cụ thể.

Trả lời:

– Đoạn trích Tấm lòng người mẹ thể hiện quan điểm nhức nhối, bất bình trước khung cảnh xã hội phong kiến Pháp xưa đầy rẫy những oan trái, bất công, đầy đọa những con người vô tội. Qua đó, tác giả gửi gắm khát vọng về cuộc sống hòa bình, công bằng, văn minh trong xã hội.

Câu 5. So sánh nhân vật Chí Phèo (trong Chí Phèo) của Nam Cao và nhân vật Phăng-tin (trong Những người khốn khổ) của Huy-gô để thấy sự giống nhau và khác nhau trong việc viết về những con người khốn khổ, tủi nhục của hai tác giả này.

Trả lời:

– Giống nhau:

+ Cả hai đều thuộc tầng lớp đáy của xã hội, mang trong mình nỗi thống khổ, số phận đầy bất hạnh.

+ Cuộc sống trong xã hội ấy đã đẩy những người họ đến mức đường cùng, gặp nhiều oan trái, dẫn đến tha hóa con người. Hai con người này đều vì gánh chịu những định kiến không có nhân tính từ miệng đời mà mặc kệ dòng đời đưa đẩy. Nhưng sâu thẳm trong trái tim chúng ta đâu chỉ toàn sỏi đá, trái tim vẫn le lói ngọn lửa của yêu thương, tình người. Nếu Chí Phèo có bát cháo hành của Thị Nở để bùng cháy lên ngọn lửa khao khát thành người lương thiện, thì Phăng – tin cũng vậy. Hình ảnh đứa con ngây thơ, trong sáng luôn là ngọn lửa sáng chói trong tâm hồn cô, cho cô niềm tin khát vọng cuộc sống.

+ Sau những hành động và việc làm ấy, cả hai đều khát khao, mong muốn có được một cuộc sống hạnh phúc, bình đẳng.

– Khác nhau:

+ Phăng – tin: Cuộc sống ngày một khó khăn hơn để rồi đỉnh điểm khiến cô chính thức sa ngã, không lối thoát, cô lựa chọn con đường làm “gái điếm”.

+ Chí Phèo: Cuộc sống khiến Chí Phèo tha hóa cả nhân hình, nhân tính. Cuối cùng, Chí Phèo lựa chọn cái chết để giải thoát cho bản thân.

Câu 6. Nội dung đoạn trích cho em hiểu được những gì về bối cảnh xã hội – văn hóa Pháp thời bấy giờ?

Trả lời:

– Nội dung đoạn trích cho em hiểu được bối cảnh xã hội – văn hóa Pháp thời bấy giờ đầy những vấn đề nhức nhối, đầy rẫy những oan trái, bất công, đầy đọa những con người vô tội. Thông qua tác phẩm, tác giả muốn phê phán, lên án mạnh mẽ những bất công, oan trái, những đau khổ mà con người đang phải chịu đựng.

Tóm tắt nội dung tiểu thuyết Những người khốn khổ.

Nhân vật trung tâm của tác phẩm là Găng Văn-giăng (Jean Valjean), một người thợ xén cây đã bị tù khổ sai vì ăn cắp một chiếc bánh mì cho bảy đứa cháu nhỏ bị đói. Ra tù, anh bị xã hội xua đuổi. Được đức Giám mục Mi-ri-en (Myriel) cảm hóa, Văn-giăng coi tình thương là lẽ sống của mình. Sau đó, ông đổi tên à Ma-đơ-len (Madeleine), trở thành một thị trưởng và chủ nhà máy giàu có. Ông làm nhiều việc thiện, trong đó có việc muốn cứu vớt Phăng-tin (Fantine) – cô thợ nghèo – người đã có con với Tô-lô-mi-ét (Tholomyes) nhưng bị hắn ruồng bỏ. Phăng-tin rơi vào hoàn cảnh túng quẫn, phải làm gái bán dâm,…Khi muốn quay về quê để tìm việc làm, do muốn giấu giếm đoạn đời sa ngã của mình, nàng đã nhờ gia đình Tê-nác-đi-ê (Thenardier) – chủ quán trọ – nuôi họ con gái là Cô-dét (Cosette) và trả tiền mỗi tháng. Nhưng nàng đã “gửi trứng cho ác”, phải bán tất cả để nuôi con. Khi lâm bệnh nặng, Phăng-tin đã nhờ Giăng Van-giăng tìm và chăm sóc Cô-dét. Tuy nhiên, gã thanh tra Gia-ve (Javert) đã truy ra gốc tích của Ma-đơ-len, khiến ông lại rơi vào cảnh tù tội và Phăng-tin chết mà không được gặp lại Cô-dét.

Sau đó, Giăng Van-giăng vượt ngục và nhiều lần thay tên đổi họ. Có lần Giăng Van-giăng đã lên chiến lũy khi nhân dân Pa-ri (Paris) nổi dậy chống chính quyền của giai cấp đại tư sản. Ở đó, ông tìm Ma-ri-uýt (Marius), người yêu của Cô-dét, gặp chú bé Ga-vơ-rốt (Gavroche), một biểu tượng trong sáng, đẹp đẽ của cuộc cách mạng non trẻ. Cũng tại đây, ông đã gặp lại Gia-ve. Theo lệnh của quân cách mạng, Giăng Van-giăng mang Gia-ve đi xử bắn, song lại lẳng lặng tha cho hắn. Rồi Gia-ve trở lại bắt ông, khi thấy Giăng Van-giăng xin đưa Ma-ri-uýt về nhà rồi sẽ nộp mạng sau, lần đầu tiên Gia-ve cảm thấy bị mất phương hướng và đã nhảy xuống sông Xen (Seine) tự tử. Giăng Van-giăng lẳng lặng vun đắp cho hạnh phúc của Cô-dét. Sau khi lứa đôi đã sum họp, ông lánh mình, sống trong đơn côi.

Xem thêm:

Hãy bình luận đầu tiên

Để lại một phản hồi

Thư điện tử của bạn sẽ không được hiện thị công khai.