»» Nội dung bài viết:
Chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa.
1. Khái niệm chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa.
Phương pháp sáng tác của trào lưu văn học nghệ thuật ra đời và phát triển trong cuộc đấu tranh cho sự thiết lập và xây dựng xã hội chủ nghĩa của giai cấp vô sản và nhân dân lao dộng các nước trên thế giới.
Chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa lấy thế giới quan Mác – Lê-nin làm cơ sở triết học, và nguyên lí tính Đảng vô sản làm nguyên tắc chỉ đạo. Chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa chủ trương nhà văn, nhà nghệ sĩ miêu tả hiện thực một cách chân thực, lịch sử cụ thể trong quy trình phát triển biện chứng của nó.
Chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa coi việc đấu tranh nhằm khẳng định bằng nghệ thuật những cái mới, tích cực, tiên tiến, tốt dẹp trong cuộc sống là nhiệm vụ chủ yếu trong việc phản ánh thực tại, nhưng đồng thời không xem nhẹ việc mô tả những cái tiêu cực, lạc hậu, xấu xa nhằm mục đích xóa bỏ chúng.
2. Lịch sử hình thành.
Chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa là thuật ngữ được dùng với hai hàm nghĩa chính. Thứ nhất để gọi tên những nền văn học dân tộc (Quốc gia) tồn tại với tư cách là văn học chính thống dưới chính thể mà Đảng cộng sản là lực lượng duy nhất cầm quyền; cũng dùng để gọi tên những bộ phận (“dòng”, “khuynh hướng”,…) gắn với hệ ý thức chủ nghĩa cộng sản ở các nền văn học dân tộc khác. Thứ hai để gọi phương pháp sáng tác của những nền văn học hoặc bộ phận văn học nói trên.
Thuật ngữ xuất hiện lần đầu tiên trên báo chí Liên Xô (Literaturnaya gazeta, Moskva, 23.5.1932), trong quá trình giải thể các tổ chức, nhóm phái văn nghệ khác biệt và đối lập nhau, nhằm thống nhất lập ra một tổ chức nhà văn duy nhất trên toàn lãnh thổ Liên Xô, trực tiếp đặt dưới sự lãnh đạo của đảng cộng sản cầm quyền. Nhiều nhà văn (Gorki, Maiakovski, A. Tolstoi, Fadeev…) và nhà phê bình (A. Lunacharski, Voronski…) nêu ra một loạt định thức nhằm xác định khuynh hướng cơ bản của văn học Xô-viết như: “chủ nghĩa hiện thực vô sản”, “chủ nghĩa hiện thực có khuynh hướng”, “chủ nghĩa hiện thực lãng mạn”, “chủ nghĩa hiện thực xã hội”, v.v…
Trong diễn văn đọc tại đại hội I hội nhà văn Liên Xô (1934), Gorki dùng thuật ngữ này với hàm nghĩa như một phương pháp, một cương lĩnh sáng tác nhằm thực hiện tư tưởng nhân đạo cách mạng: “Chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa khẳng định tồn tại như là sự hoạt động, sự sáng tạo mà mục đích là liên tục phát triển những năng lực quý giá của cá nhân con người, vì thắng lợi của nó đối với các lực lượng của tự nhiên, vì sức khỏe và tuổi thọ, vì cái hạnh phúc lớn nhất là được sống trên trái đất”.
Về mặt chính trị – xã hội: Vào giữa thế kỉ XIX ở phương Tây, chủ nghĩa hiện thực đã phát triển đến giai đoạn cao nhất, đạt tới tính chất cổ điển. Tuy nhiên, chủ nghĩa tư bản chưa hết vai trò lịch sử và giai cấp công nhân dù đã bước lên vũ đài chính trị nhưng vẫn chưa đủ lớn mạnh để có ảnh hưởng quyết định tới toàn bộ xã hội. Phong trào công nhân phát triển mạnh mẽ, đặc biệt từ sau khi chủ nghĩa tư bản phát triển sang chủ nghĩa đế quốc, năm 1848 Tuyên ngôn Đảng cộng sản được công bố, đánh dấu chủ nghĩa Mác chính thức ra đời, giai cấp công nhân từ đấu tranh tự phát trở thành đấu tranh tự giác. Chủ nghĩa Mác được bảo vệ và phát triển thành chủ nghĩa Mác – Lê nin dù bị bọn tư sản, đế quốc khủng bố tàn bạo. Trong hoàn cảnh của thời đại mới, thời đại cách mạng vô sản và phong trào giải phóng dân tộc, chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa ra đời là một yêu cầu tất yếu.
Về mặt văn hóa: Sự ra đời của học thuyết lý luận chủ nghĩa xã hội khoa học, các tư tưởng của Mác – Lê nin đã tạo nên những tiền đề, cơ sở lí luận cho chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa.
3. Nhân vật trung tâm và cảm hứng chủ đạo.
Nhân vật trung tâm của chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa là những nhân vật chính diện tích cực, có nghĩa là những con người mới giác ngộ lí tưởng xã hội chủ nghĩa và làm chủ được vận mệnh cuộc đời mình. M.Gorki được coi là tác giả lớn nhất của nền văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa, từ tác phẩm Người mẹ lần đầu tiên người đọc bắt gặp hình mẫu nhân vật trên.
Chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa kế thừa nguyên tắc sáng tác của chủ nghĩa hiện thực phê phán, tạo ra những tính cách điển hình trong hoàn cảnh điển hình. Tính cách ấy phải là sự hài hòa cao độ giữa tính chung và nét riêng, luôn gắn bó trong hoàn cảnh. Tuy nhiên nếu chủ nghĩa hiện thực phê phán nhìn con người như nạn nhân đáng thương của hoàn cảnh thì chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa xây dựng hình tượng con người với tư thế người anh hùng mới. Tính cách nhân vật có sự phát triển và vận động theo hướng cách mạng. Chủ nghĩa hiện thực phê phán xây dựng tính cách con người trong sự phong phú, phức tạp, phát triển trong sự tác động của hoàn cảnh nhưng chưa phải là phát triển cách mạng. Còn tính cách nhân vật trong chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa đó là những con người có tinh thần phản kháng, đấu tranh với cái cũ, với cái xấu xa, lạc hậu. Tiêu biểu là tác phẩm “Người mẹ” (Gorki), với hình ảnh mẹ Nilốpna từ hoàn cảnh bất hạnh, đau khổ đã dũng cảm đương đầu với chế độ Nga hoàng. Khi bị mật thám bắt, bà không hề khiếp sợ, bà tung truyền đơn vào nhân dân hùng hồn vạch mặt bọn thống trị tàn ác trước sự đánh đập của bọn mật thám. Trong văn học Việt Nam cũng không thiếu những người phụ nữ can đảm đã giác ngộ cách mạng như mẹ Suốt, bà bầm trong thơ Tố Hữu, người mẹ Tà ôi trong thơ Nguyễn Khoa Điềm, chị Sứ, chị Út Tịch…
Nhân vật trung tâm là những con người giàu lí tưởng, vì vậy cảm hứng chủ đạo của văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa là cảm hứng ngợi ca, ngợi ca con người mới,cuộc sống mới. Nhưng ca ngợi phải có chừng mực và chân thật. Bên cạnh đó, khẳng định, ngợi ca gắn bó chặt chẽ với biện chứng với phê phán bởi cuộc sống mới, con người mới chỉ có thể hình thành và phát triển trong cuộc đấu tranh với những cái cũ, cái phản động, cái lạc hậu.
Tóm lại, chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa đã kế thừa những thành tựu của chủ nghĩa hiện thực phê phán đồng thời mang những nét độc đáo riêng phù hợp với tình hình mới và đáp ứng yêu cầu của thời đại đấu tranh cách mạng. Chủ nghĩa hiện thực đã lan tỏa sức ảnh hưởng lớn đến văn học Việt Nam. Điều này được minh chứng qua hàng loạt các sáng tác trường tồn cùng thời gian. Trong phạm vi của một chuyên đề, chúng tôi xin minh chứng các đặc trưng của chủ nghĩa hiện thực qua một số tác phẩm tiêu biểu thuộc trào lưu văn học hiện thực phê phán
Cần chú ý thêm thuật ngữ chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa khi thì được dùng với tư cách là một phương pháp sáng tác, khi thì được dùng như một khuynh hướng, một trào lưu văn học nghệ thuật. Do đó khi sử dụng cần chú ý phân biệt các cấp độ đó để có một sự vận dụng thuật ngữ thật thích đáng: trào lưu văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa là một thực tế, còn lí luận vô chủ nghĩa này thì có thể còn bàn luận.
4. Đặc trưng thi pháp.
Chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa là hiện tượng đặc thù trong văn hóa nghệ thuật nhân loại thế kỷ XX: đây là lần đầu tiên một số nguyên tắc về khuynh hướng nghệ thuật được đề lên như những chuẩn mực mang tính pháp quy, được coi là độc tôn trong toàn bộ đời sống của các nền văn học dân tộc. Chủ nghĩa hện thực xã hội chủ nghĩa là một trong những nhân tố bề sâu để cấu thành một thiết chế văn học đặc biệt, mang tính nhà nước hóa rõ rệt: trên lãnh thổ mỗi quốc gia xã hội chủ nghĩa chỉ có một tổ chức nhà văn duy nhất; cương lĩnh sáng tác được chính thống hóa, trở thành tiêu chuẩn và phương tiện quản lý văn học. Với chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa, các nền văn học dân tộc trở nên chính trị hóa rõ rệt, nội dung văn học được ưu tiên cho việc diễn đạt đường lối chính trị của đảng cộng sản cầm quyền.
Về nghệ thuật, khuynh hướng văn học này chỉ tiếp tục khai thác các phương thức “giống như thật” của chủ nghĩa hiện thực cổ điển thế kỷ XIX, do vậy hạn chế sự đóng góp của các nhà văn thuộc khuynh hướng này trong việc phát hiện, thử nghiệm các phương tiện nghệ thuật mới. Những cuộc tranh luận trong giới học thuật Xô-viết những năm 1970 xung quanh đề xuất coi chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa như “một hệ thống thẩm mỹ mở”, phần nhiều bị sa vào hướng trừu tượng, kinh viện. Bên cạnh trường hợp Sholokhov, một trong số những đại diện hiếm hoi của chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa được tặng giải Nobel về văn học (1965) với tác phẩm chính Sông Đông êm đềm mà về đặc điểm nghệ thuật được nhận xét là “thể hiện nội dung của thế kỷ XX bằng những phương tiện mượn của thế kỷ XIX” (C. Prevost), “xây dựng thế kỷ XXI trên phông màn của thế kỷ XIX” (P. Courtade), thì việc Maiakovski cách tân phương tiện của thơ ca, việc Brecht sáng tạo ra “sân khấu tự sự” – có thể là những đóng góp đáng kể nhất của chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa vào nghệ thuật thế kỷ XX.