Ảnh hưởng của chủ nghĩa hiện sinh đến đời sống xã hội và văn học.
Với mục đích muốn làm thay đổi quan niệm sống và lối sống con người hiện đại, ngôn ngữ phức tạp và luận chứng của chủ nghĩa hiện sinh hoàn toàn hướng vào tầng lớp trí thức có nhiệm vụ làm lay chuyển các định hướng duy khoa học và các ảo tưởng kỹ trị. Về phương diện này có thể nói chủ nghĩa hiện sinh đã đạt được những thành tựu nhất định, và mặc dù hiện nay nó hoàn toàn vô hiệu trước sự phát triển nhanh chóng của khoa học, song những tư tưởng cơ bản của chủ nghĩa hiện sinh đã đi vào tâm tính hiện đại. Điều đó trước hết có liên quan tới việc vạch ra tính giả dối của ý thức thỏa hiệp, tính kiên định của sự lựa chọn với tư cách là điều kiện để hình thành cá tính đích thực và khắc phục niềm tin thơ ngây của nhân loại vào tiến bộ khoa học – kỹ thuật.
Là một trào lưu chuyển tải tư tưởng bằng tác phẩm văn học, chủ nghĩa hiện sinh lan nhanh và ảnh hưởng sâu rộng đến giới trẻ phương Tây, tạo nên những phong trào rộng rãi trong cuộc sống phương Tây vào những năm 60 – 70 thế kỷ XX như “Hippy”, “Anti-State”, “Anti-Modern”, “Sexual Liberation”. Các phong trào này đã tạo nên một cuộc sống sôi động trong giới trẻ, góp phần khẳng định tiến bộ xã hội trong vấn đề bảo vệ nhân quyền, đề cao các quyền tự do, nhất là tự do ngôn luận.
Ở Việt Nam, một cách tự phát, chủ nghĩa hiện sinh đã manh nha trong “Cung oán ngâm khúc” của Nguyễn Gia Thiều khi ông miêu tả thân phận của những thiếu nữ được tuyển vào cung Vua phủ chúa chờ ngày ân ái. Thông qua đó, tác giả nói lên thân phận “bèo dạt mây trôi” của kiếp làm người nói chung:
“Thảo nào khi mới chôn nhau
Đã mang tiếng khóc ban đầu mà ra
Khóc vì nỗi thiết tha sự thế
Ai bày trò bãi bể nương dâu
Trắng răng đến thuở bạc đầu…
Trăm năm còn có gì đâu
Chẳng qua một nấm cổ khâu xanh rì”
Tiếp theo, Truyện Kiều của Nguyễn Du cũng là một thi phẩm phản ánh đời sống “hồng nhan bạc phận” của nàng Kiều với những tiếng kêu xé lòng đứt ruột:
“Trăm năm trong cõi người ta
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng…
Đau đớn thay phận đàn bà
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung”.
Mười lăm năm sống lưu lạc của nàng Kiều là một bản cáo trạng lên án chế độ phong kiến đương thời, một chế độ “nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô”, coi thường thân phận của người phụ nữ, xem họ thân phận họ như những hạt mưa rơi.
Từ phương Tây, chủ nghĩa hiện sinh theo gót chân quân xâm lược Pháp đến Việt Nam vào những năm đầu thế kỷ XX, hiện diện trên thi đàn như thơ say của Vũ Hoàng Chương, thơ mới, phản ánh tình yêu hiện đại của các thi sĩ tiền chiến, đặc biệt là thơ Xuân Diệu. Ở miền Nam, dưới thời tạm chiếm, chủ nghĩa hiện sinh đã trở thành mốt sống của thanh niên đô thị. Tư tưởng hiện sinh phản ánh trong hàng loạt các tác phẩm văn học, điển hình là các tác phẩm của Duyên Anh, Nguyễn Thị Hoàng, Thanh Tâm Tuyền, v.v… đã nói lên tinh thần lo âu, tuyệt vọng, nổi loạn, phản kháng của tầng lớp thanh niên “sống giữa hai làn đạn”.Trên một khía cạnh nào đó có thể nói chủ nghĩa hiện sinh ở miền nam Việt Nam trước giải phóng đã góp tiếng nói phản kháng sự xâm lược của Mỹ như phong trào “dậy mà đi” phản ánh sự dấn thân của tuổi trẻ trong công cuộc giải phóng đất nước.
Sau công cuộc đổi mới do Đảng Cộng Sản Việt Nam khởi xướng, với phương châm “cởi trói cho văn học nghệ thuật”, chủ nghĩa hiện sinh có cơ hội thể hiện nguyên hình trên diễn đàn văn học với các gương mặt tiêu biểu như: Nguyễn Quang Lập (“Một nửa đời đen – trắng”, “Đời cát”), Nguyễn Minh Châu (“Phiên chợ Giát”), Phạm Thị Hoài (“Thiên sứ”, “Mê lộ”, “Man nương”), Dương Thu Hương (“Bên kia bờ ảo vọng”, “Những thiên đường mù”), Bảo Ninh (“Nỗi buồn chiến tranh”), Nguyễn Huy Thiệp (“Phẩm tiết”, “Vàng lửa”, “Tướng về hưu”, “Thương nhớ đồng ơi”…), Chu Lai (“Ăn mày dĩ vãng”), Dương Hướng (“Bến không chồng”), Nguyễn Thị Ngọc Tư (“Cánh đồng bất tận”), Đỗ Hoàng Diệu (“Bóng đè”, “Vu quy”…), v.v… Các tác phẩm văn học này đã góp thêm tiếng nói đa dạng cho việc đổi mới của văn học nước nhà, phản ánh một góc buồn tủi, cô đơn của cuộc sống, phơi bày thế giới nội tâm giằng xé của con người trong một thời đại đầy lo âu, mâu thuẫn và biến động từng ngày của khoa học công nghệ. Thực ra chủ nghĩa hiện sinh trong văn học là sự nối tiếp của chủ nghĩa hiện thực phê phán nhưng với tinh thần tự nhiên, “vô tư”, thẳng thắn và cay nhiệt hơn, nếu không nói là đôi khi có ác ý muốn “hạ bệ những thần tượng”, đưa thần tượng (Idol) và những lý tưởng chính trị – xã hội trở về cuộc sống đời thường, đúng như nghĩa câu cách ngôn mà Karl Marx yêu thích “Không có gì thuộc về con người mà xa lạ đối với tôi”.