Cảm nhận ý nghĩa cái giật mình trong bài thơ Ánh trăng

y-nghia-cai-giat-minh-trong-bai-tho-anh-trang

Cảm nhận ý nghĩa cái giật mình trong bài thơ Ánh trăng

  • Mở bài:

Bài thơ Ánh trăng là một trong những tác phẩm nổi bậc của Nguyễn Duy giai đoạn sau chiến tranh. Thông qua hình tượng nghệ thuật “Ánh trăng” và cảm xúc của nhà thơ, bài thơ đã diễn tả những suy ngẫm sâu sắc về thái độ của con người đối với quá khứ gian lao, tình nghĩa. Cái giật mình ở cuối bài thơ là tiếng vọng của lương tâm, sự thức tỉnh linh hồn con người trước quá khứ nghĩa tình, thủy chung.

  • Thân bài:

Trăng vốn gắn bó với con người từ lúc bé thơ ở đồng quê, cho đến khi lên rừng chiến đấu. Thế nhưng, “từ hồi lên thành phố”, con người đã vô tình lãng quên. Sự cố mất điện tạo ra duyên cớ để con người hội ngộ với người bạn năm xưa. Khi “vội bật tung của sổ”, con người bất ngờ đối mặt với vầng trăng, một cố nhân năm nào. Ngay lúc “ngửa mặt lên nhìn mặt”, sau chuỗi dài cảm xúc, bất giác nhà thơ nhận ra những đổi thay của mình, thảng thốt giật mìn” hối hận, tiếc nuối khi thấy mình đã bội bạc, vô tình với quá khứ:

“Trăng cứ tròn vành vạnh
kể chi người vô tình
ánh trăng im phăng phắc
đủ cho ta giật mình” .

Hình ảnh “trăng cứ tròn vành vạnh” là tượng trưng cho quá khứ nghĩa tình, thủy chung, đầy đặn, bao dung và nhân hậu. Hình ảnh “ánh trăng im phăng phắc” mang ý nghĩa nghiêm khắc nhắc nhở, là sự trách móc trong lặng im. Chính cái “im phăng phắc” của vầng trăng đã đánh thức lương tâm con người, làm xáo động tâm hồn người lính năm xưa. Tác giả giật mình để tự nhắc nhở mình hãy biết sống tình nghĩa, thuỷ chung, uống nước nhớ nguồn của dân tộc.

Có thể thấy, cái giật mình trong đoạn thơ là cảm giác và phản xạ tâm lý có thật của một người biết suy nghĩ, chợt nhận ra sự vô tình, bạc bẽo, sự nông nổi trong cách sống của mình. Cái “giật mình” ấy chính là của sự ăn năn, tự trách, tự thấy phải đổi thay trong cách sống. Cái “giật mình” cũng là sự tự nhắc nhở bản thân không bao giờ được làm người phản bội quá khứ, phản bội thiên nhiên, sùng bái hiện tại mà coi rẻ thiên nhiên. “Giật mình” để thức tỉnh, bừng tỉnh, nhìn lại những hạn chế của chính bản thân mình, từ đó vươn lên hoàn thiện nhân cách.

Như vậy, con người “giật mình” trước ánh trăng chính là sự bừng tỉnh của nhân cách, sự thức tỉnh của lương tri, lương năng và lương tâm; là sự trở về với lương tâm trong sạch, tốt đẹp và thuần khiết nhất. Đó là lời ân hận, ăn năn day dứt, làm đẹp tâm hồn và nhân cách con người. Cái “giật mình” của nhân vật còn có sức lan toả cảm xúc, có thể làm người đọc “giật mình” nhận ra những điều ý nghĩa khác trong cuộc sống.

  • Kết bài:

Bài thơ là một lời tự nhắc nhở của tác giả về những năm tháng gian lao của cuộc đời người lính gắn bó với thiên nhiên, đất nước bình dị, hiền hậu, đồng thời củng cố ở người đọc thái độ sống “uống nước nhớ nguồn”, ân nghĩa thủy chung cùng quá khứ.


Bài tham khảo:

Phân tích bài thơ “Ánh trăng” của Nguyễn Duy

  • Mở bài:

Trăng là hình ảnh giản dị mà quen thuộc, trong sáng và trữ tình. Trăng đã trở thành đề tài thường xuyên xuất hiện trên những trang thơ của các thi sĩ qua bao thời đại. Nếu như “Tĩnh dạ tứ” cũa Lí Bạch tả cảnh đêm trăng sáng tuyệt đẹp gợi lên nỗi niềm nhớ quê hương, “ Vọng nguyệt” của Hồ Chí Minh thể hiện tâm hồn lạc quan, phong thái ung dung và lòng yêu thiên nhiên tha thiết của Bác thì đến với bài thớ “Ánh trăng” của Nguyễn Duy, chúng ta bắt gặp hình ảnh vầng trăng mang ý nghĩa triết lí sâu sắc. Đó chính là đạo lí “uống nước nhớ nguồn”.

  • Thân bài

Những sáng tác thơ của Nguyễn Duy sâu lắng và thấm đẫm cái hồn của ca dao, dân ca Việt Nam . Thơ ông không cố tìm ra cái mới mà lại khai thác, đi sâu vào cái nghĩa tình muôn đời của người Việt. “Ánh trăng” là một bài thơ như vậy.Trăng đối với nhà thơ có ý nghĩa đặc biệt: đó là vầng trăng tri kỉ, vầng trăng tình nghĩa và vầng trăng thức tỉnh. Nó như một hồi chuông cảng tỉnh cho mỗi con người có lối sống quên đi quá khứ.

1. Hình ảnh vầng trăng trong quá khứ: Tác giả đã mở đầu bài thơ với hình ảnh trăng trong kí ức tuổi thơ của nhà thơ và trong chiến tranh (khổ 1, 2):

“Hồi nhỏ sống với đồng
với sông rồi với biển
hồi chiến tranh ở rừng
vầng trăng thành tri kỷ

Trần trụi với thiên nhiên
hồn nhiên như cây cỏ
ngỡ không bao giờ quên
cái vầng trăng tình nghĩa “

Hình ảnh vầng trăng đang được trải rộng ra trong cái không gian êm đềm và trong sáng của thuổi thơ. Hai câu thơ với vỏn vẹn mười chữ nhưng dường như đã diễn tả một cách khái quát về sự vận động cả cuộc sống con người. Mỗi con người sinh ra và lớn lên có nhiều thứ để gắn bó và liên kết. Cánh đồng, sông và bể là nhưng nơi chốn cất giữ bao kỉ niệm của một thời ấu thơ mà khó có thể quên được. Cũng chính nới đó, ta bắt gặp hình ảnh vầng trăng.

Với cách gieo vần lưng “đồng”, “sông” và điệp từ “ với” đã diễn tả tuổi thơ được đi nhiều, tiếp xúc nhiều và được hưởng hạnh phúc ngắm những cảnh đẹp của thiên nhiên .Tuổi thơ như thế không phải ai cũng có được.

Khi lớn lên, vầng trăng đã theo tác giả vào chiến trường trăng luôn sát cách bên người lính, cùng họ trải nghiệm sương gió, vượt qua những đau thương và khốc liệt của bom đạn kẻ thù. Người lính hành quân dưới ánh trăng dát vàng con đường, ngủ dưới ánh trăng, và cũng dưới ánh trăng sáng đù, tâm sự của những người lính lại mở ra để vơi đi bớt nỗi cô đơn, nỗi nhớ nhà. Trăng đã thật sự trở thành “tri kỉ” của người lính trong nhưng năm tháng máu lửa.

Khổ thơ thứ hai như một lời nhắc nhở về những năm tháng đã qua của cuộc đời người lính gắn bó với thiên nhiên, đất nước hiền hậu, bình dị. Vầng trăng đù, người bạn tri kỉ đó, ngỡ như sẽ không bao giờ quên được:

“Trần trụi với thiên nhiên
hồn nhiên như cây cỏ
ngỡ không bao giờ quên
cái vầng trăng tình nghĩa”

Vần lưng một lần nữa lại xuất hiện: “trần trụi”, “hồn nhiên”, “thiên nhiên” làm cho âm điệu câu thơ thêm liền mạch, dường như nguồn cảm xúc cũa tác giả vẫn đang tràn đầy. Chính cái hình ảnh so sánh ẩn dụ đã tô đâm lên cái chất trần trụi, cái chất hồn nhiên của người lính trong những năm tháng ở rừng. Cái vầng trăng mộc mạc và giản dị đó là tâm hồn của những người nhà quê, của đồng, của sông. của bể và của những người lính hồn nhiên, chân chất ấy.

2. Hình ảnh vầng trăng bất ngờ xuất hiện trong hiện tại (khổ 3):

“Từ hồi về thành phố
quen ánh điện cửa gương
vầng trăng đi qua ngõ
như người dưng qua đường

Thời gian trôi qua cuốn theo mọi thứ như một cơn lốc, người lính năm xưa nay cũng làm quen dần với những thứ xa hoa nơi “ánh điện, cửa gương”. Và rồi trong chính sự xa hoa đó, người lính đã quên đi người bạn tri kỉ của mình, người bạn mà tưởng chừng chẳng thể quên được, “người tri kỉ ấy” đi qua ngõ nhà mình nhưng mình lại xem như không quen không biết.

Phép nhân hoá vầng trăng trong câu thơ thật sự có cái gì đó làm rung động lòng người đoc bởi vì vầng trăng ấy chính là một con người. Cũng chính phép nhân hoá đó làm cho người đọc cảm thương cho một “người bạn” bị chính người bạn thân một thời của mình lãng quên. Sự ồn ã của phố phường, những công việc mưu sinh và những nhu cầu vật chất thường nhật khác đã lôi kéo con người ra khỏi những giá trị tinh thần ấy, một phần vô tâm của con người đã lấn át lí trí của người lính, khiến họ trở thành kẻ quay lưng với quá khứ. Con người khi được sống đầy đủ về mặt vật chất thì thường hay quên đi những giá trị tinh thần, quên đi cái nền tảng cơ bản của cuộc sống, đó chình là tình cảm con người.

3. Hình ảnh vầng trăng khi gặp lại con người (khổ thơ 4 + 5)

“Ngửa mặt lên nhìn mặt
có cái gì rưng rưng
như là đồng là bể
như là sông là rừng

Thình lình đèn điện tắt
phòng buyn-đinh tối om
vội bật tung cửa sổ
đột ngột vầng trăng tròn

Tường như con người và trăng sẽ mãi mãi không bao giờ nhìn nhận nhau nữa. Nhưng rồi một tình huống bất ngờ xảy ra buộc ngươi lính phải đối mặt: (Thình lình….trăng tròn). Khi đèn điện tắt, cũng là khi không còn được sống trong cái xa hoa, đầy đủ về vật chất, người lính bỗng phải đối diện với cái thực tại tối tăm. Trong cái “thình lình”, “đột ngột” ấy, người lính vôi bật tung cửa sổ và bất ngờ nhận ra người bạn tri kỉ năm xưa của mình . “Người bạn ấy” không bao giờ bỏ rơi con người, không bao giờ oán giận hay trách móc con người vì họ đã quên đi mình:

“Ngửa mặt lên nhìn mặt
có cái gì rưng rưng”

Hai từ “mặt” trong cùng một dòng thơ: mặt trăng và mặt người đang cùng nhau trò chuyện . Người lính cảm thấy có cái gì “rưng rưng” tự trong tận đáy lòng và dường như nước mắt đang muốn trào ra vì xúc động trước lòng vị tha của người bạn “tri kỉ”. Người lính cảm thấy như đang xem một thước phim quay chậm về tuổi thơ của mình Bao kỉ niệm đẹp của một đời người ùa về chan hòa với thiên nhiên, với vầng trăng xưa, với đồng, với bể, với sông với rừng.

Tác giả sử dụng cấu trúc câu thơ song hành, biện pháp tu từ so sánh, điệp từ ”là” cho ta thấy ngòi bút của Nguyễn Duy thật tài hoa. Đoạn thơ hay ở bộc bạch chân thành, tính biểu cảm cao, ngôn ngữ và hình ảnh đi vào lòng người, khắc sâu điều nhà thơ muốn nói với chúng ta nhẹ nhàng mà thấm thía.

4. Sự thức tỉnh lương tâm của con người:

“Trăng cứ tròn vành vạnh
kể chi người vô tình
ánh trăng im phăng phắc
đủ cho ta giật mình “

Khổ thơ cuối cùng mang tính hàm súc độc đáo và đạt tới chiều sâu tư tưởng và triết lí. “Trăng tròn vành vạnh” là vẻ đẹp của trăng vẫn viên mãn, tròn đầy và không hề bị suy suyển dù cho trải qua biết bao thăng trầm. Trăng chỉ im lặng phăng phắc, trăng không nói gì cả, trăng chỉ nhìn, nhưng cái nhìn đó đủ khiến cho con người giật mình. Ánh trăng như một tấm gương để cho con người soi mình qua đó, để con người nhận ra mình để thức tỉnh lương tri. Con người có thể chối bỏ, có thể lãng quên bất cứ điều gì trong tâm hồn anh ta . Nhưng dù gì đi nữa thì những giá trị văn hoá tinh thần của dân tộc cũng luôn vậy bọc và che chở cho con người.

  • Kết bài:

“Ánh trăng” đã đi vào lòng người đọc bao thế hệ như một lời nhắc nhở đối với mỗi người: Nếu ai đã lỡ quên đi, đã lỡ đánh mất những giá trị tinh thần qúy giá thì hãy thức tỉnh và tìm lại những giá trị đó. còn ai chưa biết coi trọng những giá trị ấy thì hãy nâng niu những kí ức quý giá của mình ngay từ bây giờ, đừng để quá muộn. Bài thơ không chỉ hay về mắt nội dung mà còn có những nét đột phá trong nghệ thuật. Thể thơ năm chữ được vận dụng sáng tạo, các chữ đầu dòng thơ không viết hoa thể hiện những cảm xúc liền mạch của nhà thơ. Nhịp thơ biến ảo rất nhanh, giọng điệu tâm tình dã gấy ấn tượng mạnh trong lòng người đọc. Bài thơ ”Ánh trăng” với những đặc sắc riêng biệt về nghệ thuật và nội dung đã hoàn thành tốt nhiệm vụ đó. Bài thơ hàm chứa trong đó bao nhiêu triết lý về cuộc sống và cả sự thức tình đến toàn xã hội của chúng ta.

11 Trackbacks / Pingbacks

  1. So sánh cái giật mình của Thúy Kiều trong đoạn trích Nỗi thương mình (trích Truyện Kiều của Nguyễn Du) và của Nguyễn Duy trong bài thơ Ánh trăng - Theki.vn
  2. Ôn tập luyện thi bài thơ Ánh trăng (Nguyễn Duy) - Luyện thi tuyển sinh 10 - Theki.vn
  3. Cảm nhận cảm xúc của nhân vật trữ tình trong tình huống bất ngờ gặp lại vầng trăng trong bài thơ Ánh trăng - Theki.vn
  4. Cảm nhận lời nhắn nhủ chân tình của nhà thơ Nguyễn Duy qua bài thơ Ánh trăng - Theki.vn
  5. Từ ý nghĩa bài thơ Ánh Trăng của Nguyễn Duy, suy nghĩ về đạo lý Uống nước nhớ nguồn của dân tộc - Theki.vn
  6. Qua bài thơ Ánh trăng của Nguyễn Duy, hãy làm sáng tỏ nhận định: Tác phẩm vừa là kết tinh tâm hồn người sáng tác, vừa là sợi dây truyền cho mọi người sự sống mà nghệ sĩ mang trong lòng - Theki.vn
  7. Qua bài thơ Ánh trăng của Nguyễn Duy, em có suy nghĩ gì về trách nhiệm của bản thân đối với đất nước - Theki.vn
  8. Hình ảnh vầng trăng trong quá khứ qua bài thơ Ánh trăng của Nguyễn Duy - Theki.vn
  9. Ý nghĩa cái giật mình nhân văn trong bài thơ Ánh trăng của Nguyễn Duy - Theki.vn
  10. Phân tích lời nhắc nhở về thái độ sống uống nước nhớ nguồn, thủy chung với quá khứ nghĩa tình qua bài thơ Ánh Trăng của Nguyễn Duy - Theki.vn
  11. Thông điệp từ bài thơ Ánh trăng của Nguyễn Duy làm mỗi chúng ta không khỏi giật mình - Theki.vn

Để lại một phản hồi

Thư điện tử của bạn sẽ không được hiện thị công khai.