Tài liệu bồi dưỡng kiến thức Ngữ văn lớp 8 (Cả năm).

tai-lieu-boi-duong-kien-thuc-ngu-van-lop-8

Tài liệu bồi dưỡng kiến thức Ngữ văn lớp 8.

HỌC KỲ I.

TÔI ĐI HỌC
(Thanh Tịnh)

I. Tác giả, tác phẩm.

1. Tác giả Thanh Tịnh.

– Thanh Tịnh (1911 – 1988), là một nhà văn tiêu biểu của nền văn học Việt Nam thế kỷ XX.

– Phong cách nghệ thuật: Những sáng tác của Thanh Tịnh toát lên vẻ đẹp đằm thắm, tình cảm êm dịu, trong trẻo, êm dịu cùng phong cách lãng mạn đậm nét.

2. Truyện ngắn “Tôi đi học”.

– Xuất xứ: “Tôi đi học” là truyện ngắn in trong tập “Quê mẹ”, xuất bản năm 1941.

– Bố cục 3 phần:

+ Phần 1 (Từ đầu văn bản đến “…. lướt ngang trên ngọn núi”): Tâm trạng, cảm xúc của nhân vật “tôi” trên đường từ nhà tới trường.

+ Phần 2 (Từ tiếp cho đến “xa nhà hay xa mẹ tôi chút nào hết”): Tâm trạng cảm xúc của nhân vật khi đứng trước sân trường.

+ Phần 3 (Còn lại): Dòng tâm trạng, cảm xúc của nhân vật tôi khi bước vào lớp học và bắt đầu tiết học mới.

– Nội dung: Trong cuộc đời mỗi chúng ta, kỉ niệm trong sáng của tuổi học trò, nhất là buổi tựu trường đầu tiên thường được ghi nhớ mãi. Thanh Tịnh đã diễn tả tinh tế cảm xúc này bằng nghệ thuật tự sự, xen miêu tả và biểu cảm với những rung động tinh tế qua dòng cảm nghĩ trong trẻo của nhân vật “tôi” về những kỉ niệm ngày đầu tiên đi học.

Xem văn bản: Cảm nhận truyện ngắn “Tôi đi học” của nhà văn Thanh Tịnh.

II. Phân tích tác phẩm.

1. Những hình ảnh gợi nhớ về ngày đầu tiên đi học.

– Những biến chuyển của cảnh vật sang thu: Cuối thu, thời điểm tựu trường. cảnh thiên nhiên với lá rụng nhiều, mây bàng bạc khiến lòng người nhẹ nhàng mà bồi hồi nhớ lại.

– Hình ảnh những em bé núp dưới nón mẹ lần đầu tiên đến trường,…

→ Những hình ảnh thân quen gợi nhớ về ngày đi học đầu tiên với bao cảm xúc ngọt ngào, đằm thắm.

2. Tâm trạng của nhân vật “tôi” trong ngày khai trường đầu tiên.

a. Khi cùng mẹ đi trên đường đến trường:

– Thiên nhiên: Cảnh vật, con đường vốn rất quen nhưng lần này cảm thấy khác lạ.

– Con người: hình ảnh mấy em nhỏ bỡ ngỡ, rụt rè trong lần đầu tiên tới trường.

– Bản thân: Tự cảm thấy có sự thay đổi lớn trong lòng mình, cảm thấy trang trọng, đứng đắn hơn. Bỡ ngỡ, lúng túng

Từ ngữ gợi tả, nghệ thuật so sánh, chọn lọc chi tiết tiêu biểu, cụ thể: tâm trạng bỡ ngỡ của “tôi” trong bổi tựu trường đầu tiên.

* Bình luận:

– Tác giả nhớ rất rõ từng chi tiết trong khung cảnh trên con đường đến trường, sương thu và gió lạnh với con đường dài và hẹp dường như trở nên khác lạ trong đôi mắt trẻ thơ bởi một điều vô cùng đơn giản: “Hôm nay tôi đi học”.

– Những suy nghĩ, hành động, từng cảm nhận về chính bản thân mình, từ bộ quần áo đến những hành trang mang theo đều cho thấy sự thay đổi, khôn lớn trong cậu bé nhưng đâu đó vẫn còn nét hồn nhiên, ngây thơ của một đứa trẻ lên 5.

b. Khi đứng giữa sân trường và nghe gọi tên vào lớp học:

– Không khí của ngày hội tựu trường: náo nức, vui vẻ nhưng cũng rất trang trọng.

– Cảm thấy nhỏ bé so với trường, lo sợ vẩn vơ.

– Hồi hộp, lo lắng chờ nghe gọi tên mình.

– Khi sắp vào lớp học thì lo sợ, bật khóc.

Diễn tả sinh động tâm trạng của nhân vật “tôi” với từng cung bậc, cảm xúc, có nhiều trạng thái cảm xúc đối lập, tâm trạng phức tạp.

* Bình luận:

– Cảm nhận của cậu học trò về ngôi trường đã có sự thay đổi rõ rệt, cậu vừa ngỡ ngàng, vừa cảm thấy nhỏ bé, lo sợ trước một ngồi trường đầy uy nghi, trang trọng trước mắt.

– Cả cậu bé và những người bạn xung quanh đều “như con chim con đứng bên bờ tổ, nhìn quãng trời rộng muốn bay, nhưng còn ngập ngừng e sợ”. Hình ảnh so sánh thể hiện sự hồn nhiên, ngây thơ trong tâm hồn cậu bé và tâm trạng lo sợ, hoang mang trong bước đi đầu tiên của cuộc đời.

– Những suy nghĩ, cảm nhận của cậu bé trước tất cả sự thay đổi, trước bạn bè, trước thầy cô vừa thể hiện sự hồn nhiên, ngây thơ, vừa bộc lộ tâm trạng bối rối, cảm xúc vừa háo hức vừa có chút bơ vơ, lạc lõng bởi đây là lần đầu tiên cậu xa mẹ.

c. Khi ngồi trong lớp học:

– Cảm thấy vừa xa lạ, vừa gần gũi với mọi vật, với người bạn ngồi bên…

+ Làm quen, tìm hiểu phòng học, bàn ghế, bạn bè …

– Thấy quyến luyến, thân thuộc với tất cả mọi thứ xung quanh.

Tâm trạng, cảm giác của nhân vật “tôi” khi ngồi trong lớp học, đón nhận giờ học đầu tiên hợp tự nhiên, sinh động, hấp dẫn.

* Bình luận:

– Lớp học là một thế giới khác biệt, cách biệt với thế giới ở bên ngoài khung cửa. Ngồi trong lớp, cậu bé thấy xốn xang những cảm giác lạ và quen đan xen, trái ngược nhau bởi đó là giây phút sang trang của một tâm hồn trẻ dại, tạm biệt thế giới ấu thơ chỉ biết nô đùa, nghịch ngợm để bước vào thế giới tuổi học trò nghiêm chỉnh đầy khó khăn mà biết bao hấp dẫn. Diễn biến tâm trạng nhân vật “tôi” để lại nhiều cảm xúc trong lòng người đọc, không chỉ bởi sự hồn nhiên, ngây thơ mà còn bởi nó khiến mỗi chúng ta nhớ về tuổi thơ của chính bản thân mình.

3. Hình ảnh những người lớn.

– Ông đốc: hình ảnh một người thầy, một người lãnh đạo rất hiểu tâm lý trẻ, hiền từ, bao dung …

– Thầy giáo trẻ vui vẻ, giàu lòng yêu thương.

→ Thể hiện rõ trách nhiệm, tấm lòng của gia đình, nhà trường đối với thế hệ trẻ, đồng thời tạo môi trường giáo dục thân thiện, là nguồn nuôi dưỡng tâm hồn các em.

– Truyện kết thúc tự nhiên, khép lại bài văn nhưng mở ra một bầu trời mới, một khoảng không gian mới, tình cảm mới.

III. Tổng kết.

1. Nội dung.

– Tác phẩm là dòng hồi tưởng của nhân vật “tôi” trong những ngày đầu đến trường. Những kỉ niệm trong sáng của tuổi học trò nhất là buổi tựu trường đầu tiên thường được ghi nhớ mãi.

2. Nghệ thuật.

– Tự sự xen lẫn miêu tả và biểu cảm.

– Miêu tả tinh tế, chân thực diễn biến tâm trạng của ngày đầu tiên đi học.

– Sử dụng ngôn ngữ giàu yếu tố biểu cảm, hình ảnh so sánh độc đáo, ghi lại dòng hồi tưởng, liên tưởng của nhân vật “ Tôi”

– Giọng điệu trữ tình trong sáng.

– Đoạn trích ngắn gọn nhưng để lại trong lòng người bao niềm bồi hồi, xú động khi nhớ về ngày đầu tiên đi học của mình.

3. Liên hệ văn học.

Bài thơ “Đi học” (Hoàng Minh Chính).

Bài thơ Cô giáo lớp em (Nguyễn Xuân Sanh)

4. Liên hệ bản thân:

– Suy nghĩ về những cảm xúc của bản thân trong ngày khai trường đầu tiên.

– Tình cảm bạn bè gắn kết, thân thương.


TRONG LÒNG MẸ
(Trích hồi kí “Những ngày thơ ấu” – Nguyên Hồng)

I. Tác giả, tác phẩm.

1. Tác giả Nguyên Hồng.

Nguyên Hồng (1918- 1982), quê quán tỉnh Nam Định, là nhà văn tiêu biểu của nền văn học Việt Nam thế kỷ XX. Ông được mệnh danh là nhà văn của những người cùng khổ.

Phong cách nghệ thuật: Văn nguyên Hồng có giọng điệu trữ tình vừa bồng bột thiết tha, vừa sôi nổi mãnh liệt. Sáng tác của ông biểu hiện của niềm tin và ánh sáng, luôn đi tìm vẻ đẹp của con người trong khổ đau, khám phá chất thơ của đời sống cần lao

2. Đoạn trích “Trong lòng mẹ”.

– Xuất xứ: Trong lòng mẹ là chương thứ IV của tác phẩm Những ngày thơ ấu (gồm 9 chương), tập hồi kí về tuổi thơ ít niềm vui, nhiều cay đắng của tác giả.

– Bố cục 2 phần:

+ Phần 1 (Từ đầu → “người ta hỏi đến chứ”): Cuộc đối thoại giữa bà cô và bé Hồng.

+ Phần 2 (Còn lại): Niềm hạnh phúc của bé Hồng khi gặp mẹ.

– Nội dung: Đoạn trích “Trong lòng mẹ” trích hồi kí “Những ngày thơ ấu” của Nguyên Hồng đã kể lại một cách chân thực và cảm động những cay đắng và tủi cực cùng tình yêu thương cháy bỏng của nhà văn thời thơ ấu đối với người mẹ bất hạnh, đáng thương của mình.

* Tóm tắt: Bé Hồng sinh ra là kết quả của cuộc hôn nhân miễn cưỡng giữa người bố nghiện ngập và người mẹ trẻ trung luôn khao khát có được tình yêu thương nhưng đành ngậm ngùi chôn vùi tuổi xuân bên người chồng nghiện ngập. Khi bố Hồng mất, người mẹ bỏ hai anh em Hồng lại để đi tha hương cầu thực, anh em Hồng luôn sông trong sự ghẻ lạnh của nhà nội. Nhất là bà cô, luôn gieo rắc vào đầu Hồng những rấp tâm tanh bẩn để Hồng ghét bỏ mẹ của mình. Nhưng Hồng không những không ghét mẹ mà còn thông cảm và yêu mẹ nhiều hơn, em căm thù những hủ tục đã đày đọa mẹ mình. Chiều hôm đó khi vừa tán học, em thoáng thấy bóng dáng mẹ, em liền gọi theo với hi vọng và giọng bối rối. Khi mẹ em quay đầu lại, Hồng sà vào lòng mẹ, trong lòng mẹ, Hồng chẳng còn mảy may đến những lời nói thâm độc của bà cô mà chỉ cảm nhận được tình mẫu tử thiêng liêng, chan chứa.

Xem văn bảnCảm nhận hình ảnh nhân vật bé Hồng qua đoạn trích “Trong lòng mẹ” (trích “Những ngày thơ ấu” của Nguyên Hồng)

II. Phân tích văn bản.

1. Nhân vật bé Hồng.

a. Cảnh ngộ đáng thương và nỗi buồn của bé Hồng:

– Bố mới mất, mẹ phải bỏ đi tha hương cầu thực.

– Bé Hồng phải sống giữa sự ghẻ lạnh, cay nghiệt của họ hàng.

– Người cô luôn tìm cách gieo vào đầu Hồng những suy nghĩ không tốt để Hồng ghét bỏ, ruồng rẫy người mẹ của mình.

→ Sống trong nỗi cô đơn và luôn khát khao tình mẹ.

b. Tình thương yêu mãnh liệt đối với mẹ:

– Lúc nào cũng nghĩ đến mẹ và thông cảm với mẹ: khi cô hỏi ngọt nhạt. Hồng đau đớn cúi đầu không đáp; từ chối cô, luôn nghĩ đến mẹ.

– Không dao động, không suy giảm tình cảm kính yêu dành cho mẹ.

– Vô cùng đau đớn, phẫn uất khi nghe lời gièm pha, nhục mạ mẹ: khi cô mỉa mai mẹ. Mỗi lời nói của bà cô như sát muối vào lòng, đau đớn, tủi nhục, xúc động vì thương mẹ.

– Ghét những hủ tục phong kiến: khi nghe cô kể về mẹ. Hồng dồn dập oán hờn, kìm nén nỗi xót xa, căn ghét cổ tục phong kiến.

* Bình luận:

– Trong cuộc đối thoại của Hồng và bà cô, nhà văn tập trung khác họa đậm nét nỗi đớn đau, tủi nhục của bé Hồng và sự cay nghiệt, tàn nhẫn của bà cô. Bà cô tìm mọi cách để nói xấu mẹ em, gieo rắc vào đầu em những suy nghĩ xấu xa, tiêu cực để em ruồng rẫy, ghét bỏ mẹ. Bà ấy cố bịa đặt ra hoàn cảnh sống của mẹ em ở nơi xa và bịa đặt chuyện mẹ em có em bé để khiến em đau lòng. Khi thấy Hồng cúi đầu, buồn bã và chực khóc thì tìm cách hạ giọng và tiếp tục nhồi nhét những ý nghĩ cay độc. Qua ngòi bút của tác giả, bà cô hiện lên là một con người xấu xa, ác độc ngay với cả đứa cháu ruột của mình.

– Đối mặt với “cuộc tấn công tâm lí” của bà cô, chú bé Hồng tổ ra bất lực, thấy chua chát, đắng cay nhưng vẫn giữ một niềm tin và tình yêu thương to lớn đối với mẹ. Bé Hồng vốn đã sống khổ cực, xa mẹ và em, chịu đựng nhiều khổ đau và tủi nhục. Khi bà cô xoáy sâu vào nỗ đau, sự thiếu thốn tình mẫu tử, em im lặng không nói gì. Khi bà cô nhồi nhét vào đầu em những suy nghĩ xấu xa rằng mẹ đã ruồng rẫy em và có con ở Thanh Hóa, trong lòng em căm phẫn những lời nói đó, luôn một mực giữ lòng tin yêu ở mẹ mình. Sự tức giận lên đến tột cùng, em căm hơn những hủ tục lạc hậu và miệng đời cay nghiệt đã đày đọa mẹ mình, em ước nó như hòn đá, cục thủy tinh, mẩu gỗ để cắn, nhai, nghiến đến kì nát thì thôi. Qua đó ta thấy ở Hồng có một tình yêu thương mẹ vô bờ bến, khao khát muốn bảo vệ mẹ trước mọi điều xấu xa.

c. Cảm giác vui sướng, hạnh phúc của bé Hồng khi được ở trong lòng mẹ:

– Thoáng thấy bóng dáng quen thuộc, Hồng đã vội chạy đuổi theo xe với cử chỉ vội vã, lập cập; bối rối gọi “Mợ ơi!”.

– Chân ríu lại, lên xe ngồi cạnh mẹ, nhận được sự âu yếm vỗ về của người mẹ thì òa lên khóc nức nở → niềm dỗi hờn mà hạnh phúc, tức tưởi mà mãn nguyện.

– Gặp mẹ, với Hồng “khác nào ảo ảnh dòng nước trong suốt chảy dưới bóng râm đã hiện ra trước con mắt gần rạn nứt của người bộ hành ngã gục giữa sa mạc”.

Niềm xúc động mạnh mẽ của Hồng khi đột ngột gặp lại mẹ.

– Cảm nhận mẹ vẫn tươi như ngày nào, giác ấm ấp mơn man khắp da thịt, niềm ngây ngất sung sướng khi ở trong lòng mẹ và ước ao mình nhỏ lại.

Cảm nhận của bé Hồng về tình mẫu tử thiêng liêng, sâu nặng khi gặp mẹ.

* Bình luận:

– Trong lòng bé Hồng luôn khao khát mẹ về và được gặp mẹ, khi thấy người ngồi trong xe kéo giống mẹ đã gọi và chạy theo. Hình ảnh mẹ luôn hiện hữu trong lòng em. Hành động bột phát khiến bé Hồng cảm giác xấu hổ với đám bạn nếu đó không phải mẹ mình nhưng trên hết là sự tủi thân vì luôn mong ngóng mẹ.

– Khi biết người ngồi trên xe là mẹ mình, bé Hồng chạy đến, òa khóc nức nở, vỡ òa cảm xúc. Hồng cố thu mình trong lòng mẹ để cảm nhận tình yêu thương, hơi ấm. Hồng nhận ra mẹ không tiều tụy như lời người cô kể mà vẫn tươi đẹp như thuở sung túc. Những lời nói cay độc của người cô văng vẳng bên tai nhưng nhanh chóng tan biến chỉ còn lại tình yêu thương và cảm xúc hạnh phúc. Tình mẫu tử thiêng liêng là động lực giúp Hồng vượt qua tất cả những nỗi đau.

2. Nhân vật người cô.

– Đối xử với bé Hồng không thật lòng:

+ Bên ngoài tỏ ra dịu dàng, thân mật: “cười”, nói giọng ngọt ngào, xưng hô “mày tao”.

+ Lời nói mỉa mai mẹ bé Hồng, làm tổn thương tình cảm mẹ con nhằm gieo rắc hoài nghi để bé Hồng khinh miệt, ruồng rẫy mẹ

– Là người cay nghiệt thâm độc, luôn gây ra nỗi đau cho người khác.

* Bình luận:

– Bà cô với dã tâm độc ác muốn chia rẽ tình cảm mẹ con, muốn đứa cháu “khinh miệt và ruồng rẫy mẹ” bằng những cử chỉ ngọt ngào nhưng rất kịch, hành động quan tâm giả dối, lời nói cay độc, nhẫn tâm, ý nghĩ xấu xa, nham hiểm. Bà cô của bé Hồng tuy giàu có nhưng rất cay nghiệt, độc địa. Bà đã khoét sâu vào nỗi đau của đứa cháu đáng thương. Nắm rõ nỗi khát khao được gặp mẹ và tình yêu thương mẹ của bé Hồng, người cô đã cố xoáy sâu vào sự thiếu thốn tình mẫu tử của bé Hồng bằng câu hỏi nhẫn tâm “mày có muốn vào Thanh Hóa chơi với mẹ mày không” với mục đích là làm cho Hồng thêm đau khổ và ruồng rẫy mẹ mình.

– Người cô triển khai ý đồ ấy với một giọng nói, nét mặt cười rất kịch ẩn chứ ý nghĩ cay độc, thâm hiểm. Bà cố gieo rắc vào đầu đứa cháu hoài nghi để chia rẽ tình mẹ con. Giọng nói, cử chỉ tuy tỏ ra rất quan tâm của bà cô nưng thực chất là giả dối, sáo rỗng. Khi đứa cháu khóc bà cô vẫn cố tình khơi vào nỗi đau của cháu đến cùng chứ không buông bỏ. Rõ ràng, bà cô một phần nào đó đã đạt được mục đích của mình.

– Người cô là người đại diện cho xã hội bất công với những hủ tục và lề thói cổ hủ. Bà cay ghét mẹ của bé Hồng, luôn mỉa mai, chế giễu mẹ cậu nhằm chia rẽ tình cảm: “phát tài” (nói mỉa người mẹ nghèo khổ), “em bé” (gieo rắc hoài nghi để bé Hồng khinh miệt ruồng rẫy mẹ). Qua đó ta thấy rõ, bà cô cay nghiệt, nham hiểm, giả dối, sống tàn nhẫn, không có lòng vị tha, đại diện cho những thành kiến, những hủ tục đày đọa người phụ nữ trong xã hội cũ.

III. Tổng kết.

1. Nội dung:

– Đoạn trích “Trong lòng mẹ” thể hiện tình mẫu tử thiêng liêng và xúc động thông qua những rung động mãnh liệt của một tâm hồn trẻ thơ luôn khao khát tình yêu thương. Đến khi gặp mẹ, được nằm gọn trong lòng mẹ, Hồng có những cảm xúc rạo rực, nồng ấm, vui sướng mong đợi bấy lâu. Qua đó thể hiện tình cảm đáng thương của chú bé Hồng và lên án sự.

2. Nghệ thuật.

– Miêu tả tinh tế, chân thật diễn biến tâm trạng của ngày đầu tiên đi học.

– Sử dụng ngôn ngữ giàu yếu tố biểu cảm, hình ảnh so sánh độc đáo ghi lại dòng liên tưởng, hồi tưởng của nhân vật tôi.

– Giọng điệu trữ tình, trong sáng. Lời văn nhẹ nhàng, tình cảm, giàu hình ảnh và chan chứa cảm xúc

– Mạch truyện, mạch cảm xúc tự nhiên, chân thực. Kết hợp lời văn kể chuyện với miêu tả, biểu cảm

– Khắc họa thành công hình tượng nhân vật bé Hồng thông qua lời nói, hành động, tâm trạng sinh động chân thật.

3. Liên hệ văn học.

“Mẹ tôi” (Ét-môn-đô-đơ A-mi-xi).

4. Bài học liên hệ bản thân:

– Suy nghĩ bản thân về tình mẫu tử thiêng liêng trong cuộc sống và liên hệ trách nhiệm của mình trong việc bảo vệ tình cảm thiêng liêng, chân thành, cao quý ấy.


TỨC NƯỚC VỠ BỜ
(Trích tiểu thuyết “Tắt đèn” – Ngô Tất Tố)

I. Tác giả, tác phẩm.

1. Tác giả Ngô Tất Tố.

Ngô Tất Tố (1893- 1954), quê quán huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh (nay thuộc Đông Anh, Hà Nội). Ông là một trong những nhà văn hiện thực tiêu biểu nhất của nền văn học Việt Nam thế kỉ XX.

– Phong cách nghệ thuật: Ngô Tất Tố là nhà văn xuất sắc của trào lưu văn học hiện thực phê phán  trước Cách mạng. Tác phẩm của ông mang đậm dấu ấn hiện thực. Ông thường viết cuộc sống ngừi nông dân trong xã hội phong kiến, ở đó luôn có sự bế tắc không lối thoát.

2. Đoạn trích “Tức nước vỡ bờ”.

– Xuất xứ: Đoạn trích “Tức nước vỡ bờ” trích từ chương XVIII của tiểu thuyết “Tắt đèn”, một  tác phẩm tiêu biểu nhất của Ngô Tất Tố.

– Bố cục 2 phần:

+ Phần 1 (Từ đầu đến “ăn có ngon miệng không”): Chị Dậu chăm sóc chồng.

+ Phần 2 (Còn lại): Chị Dậu chống lại cai lệ và người nhà lí trưởng.

– Nội dung: Bằng ngòi bút hiện thực sinh động, đoạn trích “Tức nước vỡ bờ” đã vạch rõ bộ mặt xấu xa, tàn bạo của xã hội thực dân phong kiến đương thời đẩy người nông dân vào tình cảnh vô cùng khốn khổ, bế tắc, khiến họ phải liều mạng cự lại. Đoạn trích còn cho thấy vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ nông dân, vừa giàu tình yêu thương vừa có sức sống tiềm tàng, mạnh mẽ.

* Tóm tắt: Chỉ vì đóng thiếu một suất sưu cho người em trai đã mất mà anh Dậu bị bọn cai lệ bắt trói, bị đánh đập đến ngất đi như một xác chết rồi được khiêng về nhà. Sáng sớm hôm sau, khi anh Dậu còn đang cố húp bát cháo thì tên cai lệ và người nhà lí trưởng sấn sổ định bắt trói anh. Chị Dậu đã hết lời van xin nhưng bọn chúng nhất quyết không buông tha, còn chửi mắng và bịch và ngực chị. Tức nước vỡ bờ, chị vùng lên đánh ngã tên cai lệ và người nhà lí trưởng.

Xem văn bản: Cảm nhận vẻ đẹp phẩm chất và sức sống tiềm tàng mạnh mẽ của nhân vật chị Dậu trong đoạn trích “Tức nước vỡ bờ”.

II. Phân tích đoạn trích.

1. Tình thế nguy ngập, khốn cùng của gia đình chị Dậu.

– Gia đình chị Dâu thuộc loại “nhất nhì trong hạng cùng đinh”. Đã bán một đứa con gái, một đàn chó và hai gánh khoai để nộp suất sưu. Nhà không còn của cải đáng giá. Mấy ngày cả nhà chưa ăn gì.

– Thiếu sưu của anh Sửu, người em của anh dậu đã chết từ năm ngoái, nhà không còn của cải đáng giá để nộp.

– Anh Dậu bị bệnh, bị đánh trói đến “thừa chết thiếu sống”. Buổi chiều, chúng đưa anh về như một cái xác chết. Chị Dậu và hành xóm xoa dầu mãi anh mới tỉnh

– Bọn tay sai liên tục đến đốc thúc nộp sưu.

→ Qua việc miêu tả tình thế của chị Dậu, nhà văn thấu hiểu, cảm thông sâu sắc của nhà văn với tình cảnh cơ cực, bế tắc của người nông dân.

2. Vẻ đẹp nhân vật chị Dậu.

Chị Dậu là người vợ luôn yêu thương, thương con tha thiết: chăm sóc anh Dậu khi anh Dậu bị đánh ngất, lo mấy đứa nhỏ bị đói đã mấy ngày.

Chị Dậu là người phụ nữ có sức sống tiềm tàng mạnh mẽ: Vì sự an toàn của chồng, chị đã nhẫn nhục van xin tên cai lệ và người nhà lý trưởng. Khi chúng đánh chị và sấn tới để trói anh Dậu, chị đã vùng lên đấu tranh, đánh ngã bọn này.

→ Chị Dậu là một phụ nữ lao động giàu lòng yêu thương, nhường nhịn mà cũng tiềm tàng tinh thần phản kháng mạnh mẽ.Qua đây, ta thấy sự phát hiện của tác giả về tâm hồn yêu thương, tinh thần phản kháng mãnh liệt của người nông dân vốn hiền lành, chất phác.

* Bình luận:

– Qua đọan trích, ta nhận thấy rõ, chị Dậu là một người vợ hết mực yêu thương chồng con. Để có tiền đóng sưu thuế, chị dứt ruột bán đi đứa con gái. Việc làm ấy khiến chị vô cùng đau đớn nhưng trong tình thế này, chị không biết phải làm gì hơn. Tưởng đã yên chuyện, nào ngờ đâu tai bay vạ gió, bọn chúng lại tiếp tục đến đòi tiền đóng sưu cho anh Sửu, em anh Dậu, người đãchết từ năm ngoái nhưng chưa gạch tên trong sổ bộ. Vì cớ đó, anh bị bắt lên đình, chị một mình chạy vạy khắp nơi để kiếm đủ tiền nộp cho chồng. Khi chồng bị đánh đến “thừa sống thiếu chết”, trở về nhà như một cái xác chết, chị vô cùng đau xót, gào khóc giữa đình làng, lo lắng sợ chồng không tỉnh lại. Chị dịu dàng đỡ chồng dậy để ăn bát cháo cho lại sức.

– Chị Dậu là người phụ nữ mạnh mẽ, dũng cảm, dám đứng lên chống lại áp bức của cường quyền. Khi bọn cai lệ đến nhà bắt chồng đi thì chị năn nỉ, thương xót sợ chồng bị đánh nên xuống nước van xin bọn chúng tha cho chồng. Ban đầu gọi “ông” xưng “cháu”, ra sức van xin, mềm mỏng để mong bọn chúng nhẹ tay với chồng. Thế nhưng ,tên cai lệ với thái độ ngang ngược, hống hách quyết không buông tha, bất chấp phải bắt cho bằng được anh Dậu. Những uất ức của chị bị đẩy lên đến đỉnh điểm khi bọn cai lệ đánh vào ngực chị. Lúc này, bao nhiêu dồn nén bấy lâu nay của chị bộc phát thành hành động rõ ràng. Chị đứng lên đánh trả tên cai lệ một cách quật cường dù biết hậu quả vô cùng khôn lường.

3. Nhân vật cai lệ.

– Thái độ: hống hách, ngang ngược, xem thường.

– Ngôn ngữ: hách dịch, xấc láo, kém văn hoá.

– Hành động: đi thúc sưu nhưng luôn đem theo “roi song, tay thước, dây thừng”, đánh trói người vô tội vạ. Đánh cả phụ nữ.

→ Nghệ thuật khắc họa nhân vật thông qua ngôn ngữ, hành động: Tên cai lệ nổi bật là tên côn đồ, tàn bạo. Qua việc miêu tả lối hành xử của cai lệ, nhà văn tố cáo bộ mặt tàn ác, bất nhân của xã hội thực dân nửa phong kiến đương thời.

III. Tổng kết.

1. Nội dung:

– Qua tình thế nguy kịch của gia đình chị Dậu và sức mạnh phản kháng của người phụ nữ nông dân, đoạn trích “Tức nước vỡ bờ” đã vạch trần bộ mặt tàn ác, bất nhân của xã hội phong kiến đương thời khi đề ra những thứ thuế vô lí cho người dân nông dân vô tội. Đồng thời ca ngợi vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ nông dân, vừa giàu tình yêu thương vừa có sức sống tiềm tàng mạnh mẽ.

2. Nghệ thuật:

– Nghệ thuật tạo tình huống truyện có tính kịch lôi cuốn.

– Nghệ thuật xây dựng nhân vật: miêu tả nhân vật chân thật, sinh động về ngoại hình, ngôn ngữ, hành động, tâm lí.

– Đoạn trích tiêu biểu cho ngòi bút hiện thực, ngôn ngữ kể chuyện vô cùng linh hoạt.

3. Liên hệ văn học:

– Nhân vật Lão Hạc trong truyện ngắn “Lão Hạc” của Nam Cao  (Tình cảnh khốn cùng của người nông dân Việt Nam).

– Nhân vật Mị trong truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” của Tô Hoài (Sức sống tiềm tàng mạnh mẽ của người phụ nữ)

4. Liên hệ bản thân:

– Cảm thông, thương cảm nỗi khổ đau cùng cực của người nông dân Việt Nam trước cách mạng tháng Tám.

– Trân trọng, đề cao những phẩm chất tốt đẹp, cao quý của con người Việt Nam.


LÃO HẠC
(Nam Cao)

I. Tác giả, tác phẩm.

1. Tác giả Nam Cao.

Nam Cao (1917- 1951) tên khai sinh là Trần Hữu Tri, quê làng Đại Hoàng, phủ Lí Nhân (nay là xã Hòa Hậu, huyện Lí Nhân), tỉnh Hà Nam.

Phong cách nghệ thuật: Ông là một nhà văn hiện thực xuất sắc viết về người nông dân nghèo đói bị vùi dập và những người trí thức nghèo sống mòn mỏi, bế tắc trong xã hội cũ.

2. Truyện ngắn “Lão Hạc”.

– Xuất xứ: “Lão Hạc” là một truyện ngắn xuất sắc của Nam Cao viết về người nông dân ở xã hội phong kiến cũ, đăng báo lần đầu năm 1943.

– Bố cục 3 phần:

+ Phần 1 (Từ đầu → “cũng xong”): Lão Hạc kể chuyện bán chó và nhờ ông giáo hai việc.

+ Phần 2 (Tiếp theo → “đáng buồn”): Cuộc sống của lão sau khi bán chó.

+ Phần 3 (Còn lại): Cái chết của lão Hạc.

– Nội dung: Qua đoạn trích tác giả đã thể hiện sự chân thực và cảm động về số phận đau thương của người nông dân trong xã hội phong kiến cũ và ca ngợi những phẩm chất cao quí của họ. Đồng thời cũng cho thấy sự yêu thương trân trọng của Nam Cao đối với những người nông dân như thế.

* Tóm tắt: Lão Hạc là một người nông dân cùng khổ. Vợ lão mất sớm, con trai của lão vì nghèo không có đủ tiền lấy vợ nên đã bỏ đi làm đồn điền cao su. Một mình lão phải tự lo liệu mưu sinh sống qua ngày cùng con chó (lão tên nó là câu Vàng). Sau trận ốm thập tử nhất sinh, nhà lão không còn gì nữa, lão đành phải bán cậu Vàng đi- con chó mà lão hết mực thương yêu như con trai mình. Lão mang hết số tiền bán chó và dành dụm được từ việc bán mảnh vườn gửi nhờ ông giáo. Mấy hôm sau lão kiếm được gì ăn nấy. Một hôm lão xin Binh Tư ít bả chó và nói dối là đánh bả con chó hay sang vườn để giết thịt ăn nhưng thực ra là để tự tử. Cái chết của lão Hạc dữ dội, vật vã, chẳng ai hiểu vì sao lão chết ngoại trừ ông giáo và Binh Tư.

Xem văn bản: Suy nghĩ về tính cách và số phận nhân vật lão Hạc trong truyện ngắn Lão Hạc của nhà văn Nam Cao

II. Phân tích tác phẩm.

1. Nhân vật lão Hạc.

a. Tình cảnh của Lão Hạc.

– Tình cảnh bi đát, khốn cùng: Một lão nông già yếu, cô đơn, không biết nương tựa vào ai.

– Tình cảm của lão Hạc đối với “cậu Vàng”: Rất thân thiết với cậu Vàng. Chăm sóc chu đáo và yêu thương như con của mình.

– Vì nghèo, lão dự định bán đi cậu Vàng – kỉ vật của anh con trai, người bạn thân thiết của bản thân mình – và chọn con đường kết thúc cuộc đời mình.

b. Diễn biến tâm trạng lão Hạc quanh việc bán cậu Vàng.

– Quyết định bán đi con chó Vàng là một việc làm rất khó khăn, một việc hệ trọng. Lão cứ đắn đo, do dự, suy tính mãi.

– Tâm trạng, biểu hiện khi bán chó:

+ Lão cười như mếu, đôi mắt ầng ậng nước.

+ Mặt lão đột nhiên co rúm lại, vết nhăn xô lại với nhau ép cho nước mắt chảy ra. Đầu ngoẹo về một bên, miệng móm mém mếu như con nít.

+ Lão hu hu khóc.

– Nghệ thuật: Sử dụng từ tượng hình, từ tượng thanh dày đặc, liên tiếp thể hiện sự đau khổ đang hối hận, xót xa, thương tiếc dâng trào.

→ Lão Hạc là một người nông dân sống có tình có nghĩa, thủy chung, rất mực trung thực. Qua đó thể hiện tấm lòng thương yêu con của một người cha nghèo khổ.

c. Cái chết thương tâm của lão Hạc.

– Lão sang nhà nhờ ông giáo 2 việc:

+ Thứ nhất là thay lão trông nom hộ mảnh vườn, khi nào con trai lão về thì giao lại cho nó.

+ Thứ hai, lão mang hết tiền giành dụm nhờ ông giáo và bà con chòm xóm làm ma cho nếu lão chết đi.

– Nguyên nhân: Lão ý thức sâu sắc, rõ ràng hoàn cảnh cùng đường, không có lối thoát của mình.

– Mục đích: Bảo toàn tài sản cho con và không muốn phiền hà đến bà con hàng xóm.

– Diễn biến: Vật vã trên giường, đầu tóc rũ rượi, quần áo xộc xệch, mắt long sòng sọc, lão tru tréo, bọt mép sùi ra…. người lão chốc chốc lại giật mạnh….vật vã đến hai giờ đồng hồ mới chết. Không ai biết vì sao lão chết trừ Binh Tư và ông Giáo.

→ Một cái chết khốc liệt và thương tâm.

– Nghệ thuật: Nhà văn sử dụng dày đặc và liên tiếp các từ tượng hình, tượng thanh nhằm làm nổi bật cái chết dữ dội, thê thảm đầy bất ngờ của lão Hạc.

Lão Hạc là người có ý thức cao về lẽ sống, trọng danh dự làm người hơn cả sự sống; một người cha hết lòng thương con, một người nông dân trung thực, thật thà, giàu lòng tự trọng.

2. Nhân vật ông giáo.

– Có cùng nỗi khổ của sự nghèo túng; có cùng nỗi đau phải bán đi những thứ mà mình yêu quí nhất.

– Thông cảm, thương xót cho hoàn cảnh của lão Hạc, tìm mọi cách an ủi, giúp đỡ lão.

– Ông là người hiểu đời hiểu người, có tấm lòng vị tha cao cả.

Ông giáo là người trí thức chân chính, trọng nhân cách, không mất đi lòng tin vào những điều tốt đẹp ở con người.

III. Tổng kết.

1. Nội dung.

– Tác phẩm phản ánh hiện thực số phận người nông dân trước cách mạng tháng Tám qua tình cảnh của lão Hạc: nghèo túng, không có lối thoát, phải chọn cái chết để bảo toàn tài sản cho con và không phiền hà hàng xóm. Qua đó thẻ hiện tấm lòng yêu thương, trân trọng đối với người nông dân trong xã hội của nhà văn Nam Cao.

– Qua đoạn trích, nhà văn thể hiện sự cảm thông, trân trọng, ngợi ca vẻ đẹp tiềm ẩn của người nông dân trong cảnh khốn cùng vẫn giàu lòng tự trọng.

2. Nghệ thuật.

– Sử dụng ngôi kể thứ nhất, người kể là nhân vật hiểu, chứng kiến toàn bộ câu chuyện và cảm thông với Lão Hạc.

– Nghệ thuật phân tích tâm lí già dặn, sắc sảo, cách kể chuyện chân thực, màu sắc trữ tình đan xen triết lí sâu sắc.

– Xây dựng được nhân vật điển hình có tính cá thể hóa cao.

3. Liên hệ văn học:

– Nhân vật chị Dậu trong đoạn trích “Tức nước vỡ bờ” (Tình cảnh khốn cùng của người nông dân Việt Nam).

– Bài thơ “Nói với con” (Y Phương)

4. Liê hệ bản thân:

– Thấu hiểu và cảm thông, chia sẻ đối với những số phận nghèo khổ, bất hạnh trong cuộc sống.

– Không vội vàng đánh giá người khác qua vẻ bề ngoài.


CÔ BÉ BÁN DIÊM
(An-dec-xen)

I. Tác giả, tác phẩm.

1. Tác giả An-đéc-xen.

– An- đéc- xen (1805- 1875) là nhà văn nổi tiếng người Đan Mạch. Ông chuyên viết thể loại truyện dành cho trẻ em, nhiều truyện ông biên soạn lại từ truyện cổ tích nhưng có nhiều truyện là của ông.

Phong cách nghệ thuật: Tác phẩm của An-đéc-xen có phong cách giản dị đan xen giữa mộng tưởng và hiện thực, những câu truyện ông viết hầu hết dành cho trẻ em.

2. Truyện ngắn “Cô bé bán diêm”.

– Hoàn cảnh sáng tác: tác phẩm được viết vào năm 1845, khi tên tuổi của tác giả lừng danh thế giới với trên 20 năm cầm bút.

– Bố cục 3 phần:

+ Đoạn 1 (Từ đầu đến “bàn tay em đã cứng đờ ra”): Hình ảnh cô bé bán diêm trong đêm giao thừa giá rét

+ Đoạn 2 (tiếp đéo đến “họ đã về chầu Thượng Đế”): Các lần quẹt diêm, mộng tưởng và hiện thực

+ Đoạn 3 (Còn lại): Cái chết thương tâm của cô bé bán diêm

– Nội dung: Lòng thương cảm trước số phận của trẻ thơ bất hạnh, hãy phấn đấu vì một tương lai cho tuổi thơ tốt đẹp tràn đầy hạnh phúc.

* Tóm tắt nội dung: Truyện kể về một cô bé bán diêm có hoàn cảnh rất nghèo khó. Mẹ mất, bà cũng sớm qua đời, cô bé sống với người bố nghiện ngập và tàn bạo trong một căn gác áp mái tồi tàn, bẩn thiểu và tối tăm. Vào đêm giao thừa, khi tất cả quây quần bên gia đình trong những ngôi nhà ấm áp, cô bé một mình đầu trần, chân không giày dưới trời rét mướt, tuyết phủ trắng xóa, em một mình đi bán diêm giữa đường phố vắng. Quá lạnh và đói, em nép mình trong một góc tường và bật lên những que diêm để sưởi ấm. Mỗi que diêm bật cháy lên làm hiện ra trước mắt cô những mộng tưởng ngọt ngào, đối lập hoàn toàn với thực tại đáng sợ. Sáng hôm sau, cô bé đã chết, đôi má hồng và đôi môi đang mỉm cười. Xung quanh cô vương vãi những que diêm đã đốt cháy, trong đó có một bao đã đốt hết nhẵn.

Xem văn bản: Cảm nhận ý nghĩa truyện ngắn “Cô bé bán diêm” của Andecxen

II. Phân tích tác phẩm.

1. Hoàn cảnh đáng thương của cô bé bán diêm.

– Mẹ mất, bà nội cũng sớm qua đời, cô bé phải sống với bố nghiện ngập và tàn bạo.

– Nhà em rất nghèo, phải sống chui rúc tại một gác áp mái tồi tàn, tối tăm và bẩn thỉu.

– Bố em khó tính, em luôn phải nghe những lời mắng nhiếc, chửi rủa, chịu những trận đòn khủng khiếp và hằng ngày phải đi bán diêm để kiếm sống.

Em có hoàn cảnh rất đáng thương, nghèo khổ, cô dơn và đói rét.

2. Hình ảnh cô bé bán diêm trong đêm giao thừa (giáng sinh) giá rét.

– Thời gian bán diêm: Đêm giao thừa  tối tăm và giá rét.

– Không gian: Nơi đường phố vảng vẻ không một bóng người, tuyết rơi rét buốt. Mọi nhà đều sáng rực đèn, trong phố sực nức mùi ngỗng quay.

– Bản thân: Trời rét, tuyết rơi, giá lạnh thấu xương nhưng em chỉ mặc phong phanh với đôi chân trần. Những ngôi nhà xinh xắn có dây thường xuân bao quanh ở trên phố, ánh điện ấm áp còn em thì trong một xó tối tăm.

Những mộng tưởng của cô bé bán diêm cũng là mộng tưởng chung của bất kì đứa trẻ nào cùng cảnh ngộ: muốn ấm no, hạnh phúc bên gia đình. Những hình ảnh tương phản làm nổi bật lên sự thiếu thốn khổ cực của em cả về mặt vật chất lẫn tinh thần. Qua đó lay động sự cảm thương nơi người đọc.

* Bình luận:

– Mở đầu tác phẩm là hoàn cảnh của cô bé bán diêm: nhà nghèo, mồ côi mẹ, chân đất, bụng đói. Dưới trời rét mướt của đêm giao thừa, cô vẫn phải lang thang đi bán diêm kiếm tiền. Tác giả xây dựng nên 2 hoàn cảnh đối lập nhau: Một bên là khung cảnh đêm giao thừa: nhà nhà sáng rực ánh đèn, nức mùi thơm của thức ăn. Một bên là hình ảnh cô bé “ngồi nép trong góc tường”, “mỗi lúc em càng thấy rét buốt hơn”, “đôi bàn tay cứng đờ ra” . Đến cả ngôi nhà tồi tàn của cô hiện tại cũng không thể chắn nổi từng đợt gió rét cắt da cắt thịt.

– Sự đối lập ấy đã nhấn mạnh hoàn cảnh đáng thương, khổ sở của cô bé khi vừa phải chịu cái rét, vừa phải chịu cái đói, đau buốt chân tay. Nhưng bên cạnh đó, chúng ta cũng thấy được phần nào sự vô cảm, thờ ơ của xã hội khi không có ai đưa tay ra giúp đỡ em khỏi đêm rét buốt đó.

3. Các lần quẹt diêm, mộng tưởng và thực tại

– Cô bé bán diêm có năm lần quẹt diêm trong đó có 4 lần quẹt một que và lần cuối cùng là quẹt hết những que diêm còn lại.

– Thực tế của em ở trong hoàn cảnh đau khổ nhưng mộng tưởng thì lại vô cùng tươi đẹp

+ Lần quẹt diêm thứ nhất: Em mộng tưởng ra ngôi nhà có lò sưởi → Thể hiện mong ước được sưởi ấm vì em đang rất lạnh rét.

+ Lần quẹt diêm thứ hai: Em mộng tưởng thấy căn phòng với bàn ăn, có ngỗng quay → Thể hiện mong ước được ăn trong ngôi nhà thân thuộc với đầy đủ mọi thứ vì em đang rất đói khát.

+ Lần quẹt diêm thứ ba: Em mộng tưởng thấy cây thông Nô-en và nến sáng lung linh → Thể hiện mong ước được vui đón giáng sinh trong ngôi nhà của mình vì em đã từng có những tháng ngày vui vẻ như thế.

+ Lần quẹt diêm thứ tư: Em thấy bà nội mỉm cười với em → Thể hiện mong ước được yêu thương, che chở, sống trong không khí gia đình đầm ấm và ở mãi bên bà.

+ Những lần quẹt diêm au đó: Em quẹt hết những que diêm còn lại vì em muốn níu giữ hình ảnh của bà em lại, bà cầm tay em rồi hai bà cháu vụt bay – họ về chầu thượng đế.

Thực tại và mộng tưởng xen kẽ nối tiếp nhau lặp lại và có những biến đổi thể hiện sự mong ước nhưng vô vọng của cô bé.Nhưng ngay cả cái chết cũng được miêu tả một cách thật bay bổng và nhân văn.

* Bình luận:

– Giữa cái giá rét, cô bé lấy hết can đảm quyết định quẹt diêm để sưởi ấm cho chính mình. Mỗi lần quẹt diêm là một ước mơ giản dị, chân thành và đầy ngây thơ của cô bé:

+ Que diêm thứ nhất bùng cháy rực rỡ, ánh sáng hắt vào bức tường, cô mơ thấy một lò sưởi to, ấm áp. Cô bé ước được sưởi ấm, thoát khỏi cái giá rét đang hành hạ.

+ Que diêm thứ hai tiếp tục cháy lên, cô mơ thấy một bàn ăn thịnh soạn với những món ăn hoành tráng. Cô bé ước được ăn no, thoát khỏi cái đói, cái nghèo cùng cực.

+ Que diêm thứ ba nối tiếp rực rỡ hơn, cô nhìn thấy cây thông Nô-en thật to và đầy màu sắc. Cô bé ước được đón lễ giáng sinh như bao người khác.

+ Que diêm thứ tư, cô bé nhìn thấy hình ảnh người bà hiền hậu hiện ra. Cô bé ước được đoàn tụ với người bà thân yêu của mình, được sống trong tình yêu thương như trước đây.

– Mỗi lần quẹt diêm là một khung cảnh trong mơ hiện ra trước mặt cô bé, nhưng những giấc mộng đó chỉ kéo dài trong vài giây và sau khi diêm tắt, mọi thứ lại trở về với tối tăm, rét mướt, đói khổ. Sự đan xen giữa mộng tưởng và hiện thực như một nhát dao cứa vào lòng người đọc khi cảm nhận được nỗi bất hạnh, sự cô đơn, lạc lõng của cô gái bé nhỏ giữa xã hội.

– Ở lần quẹt diêm thứ 4, cô đã nhất quyết níu tay người bà và cầu xin bà cho cô đi cùng. Đây được coi là chi tiết cảm động nhất. Nó không chỉ thể hiện tình yêu, lòng quý trọng, nhớ thương của cô với người bà quá cố, mà còn là sự níu kéo lại những phút giây hạnh phúc mỏng manh duy nhất của cuộc đời, cũng là ước muốn được giải thoát khỏi khổ đau trong tâm hồn non nớt ấy.

3. Cái chết thương tâm của cô bé bán diêm.

– Cô bé đã chết trong giá rét nhưng đôi má hồng và đôi môi đang mỉm cười. Cô bé đã thực sự tìm thấy hạnh phúc của mình.

– Giữa đường phố, mọi người đi qua không một ai giúp đỡ em → Một xã hội lạnh lùng vô cảm, thơ ơ với nỗi bât hạnh của người nghèo.

→ Tác giả đã dành cho em tất cả niềm cảm thương sâu sắc nhất thể hiện tính nhân văn của tác phẩm.

* Bình luận:

– Cuối cùng, Chúa cũng xót thương cho số phận bất hạnh của cô bé và đưa cô về với người bà của mình nơi Thiên đường. Hình ảnh cô bé chết với đôi má hồng và đôi môi đang mỉm cười như xoáy sâu vào lòng người đọc một nỗi bàng hoàng, xúc động và một câu hỏi về sự vô tâm, vô cảm của xã hội xung quanh.

III. Tổng kết.

1. Nội dung.

– Bằng ngòi bút đẫm chất hiện thực và nhân văn tác giả đã đưa người đọc đến sự rung cảm nhất định là niềm cảm thông trước số phận bất hạnh của cô bé bán diêm cũng như thấy được sự thờ ơ của xã hội trước những số phận khó khăn.

2. Nghệ thuật:

– Nghệ thuật kể hấp dẫn người đọc với các tình tiết hợp lí, logic, sự đan xen giữa hiện thực với mộng tưởng làm tăng thêm hiệu quả nghệ thuật và thành công cho truyện.

– Nghệ thuật khắc họa tâm trạng nhân vật và diễn biến tâm lí nhân vật tinh tế, sâu sắc.

3. Liên hệ văn học:

– Nhân vật bé Hồng trong đoạn trích “Trong lòng mẹ”.

4. Bài học nhận thức:

– Mỗi chúng ta nên sống một cách rộng lượng, biết yêu thương và san sẻ, biết giúp đỡ người khác để xã hội ngày một tươi đẹp.


ĐÁNH NHAU VỚI CỐI XAY GIÓ
(Trích “Đôn Ki-hô-tê” của Xéc-van-tét)

I. Tác giải, tác phẩm.

1. Tác giả Xéc-van-tét.

– Xéc- van- tét (1547- 1616) là nhà văn nổi tiếng người Tây Ban Nha. Ông được xem là người khai sinh ra tiểu thuyết hiện đại, đặc biệt là loại tiểu thuyết phiêu lưu. Ông sáng tạo ra kiểu nhân vật lưỡng diện: vừa điên rồ, vừa sáng suốt, dùng tiếng cười và thủ pháp lạ hóa điêu luyện trong việc bóc trần những thói hư, tật xấu của con người và xã hội.

Phong cách nghệ thuật: Văn phong của Xéc-van-tét giàu chất hiện thực, ngợi ca phần trong trẻo tốt lành, phẩm hạnh của tầng lớp bình dân.

2. Đoạn trích “Đánh nhau với cối xay gió”.

– Xuất xứ: trích từ chương 8, 9 của tiểu thuyết kinh điển “Đôn Ki-hô-tê”.

– Bố cục 3 phần.

+ Phần 1 (từ đầu đến “bọn khổng lồ”): thấy và nhận định về những chhiếc cối xay gió

+ Phần 2 (tiếp đến “con Rô-xi-nan-tê cũng bị toạc nửa vai”): Thái độ và hành động của mỗi người.

+ Phần 3 (Còn lại): Quan niệm và cách sử sự của mỗi người khi bị đau đớn, chung quanh chuyện ăn; chuyện ngủ

– Nội dung: Qua văn bản tác giả chế giễu tàn dư của lí tưởng hiệp sĩ phong kiến lỗi thời, qua tính cách của hai nhân vật bộc lộ khi đối mặt với cối xay gió. Sự tương phản giữa Đôn Ki-hô-tê và Xan-chô Pan- xa đã tạo nên một cặp nhân vật bất hủ. Qua đó tác giả còn muốn báo trước sự xuất hiện của thời đại phục hưng với những con người mới, những tính cách mới nghị lực mới và sáng ngời chủ nghĩa nhân văn.

Xem văn bản: Cảm nhận đoạn trích “Đánh nhau với cối xay gió” (trích Đôn ki-hô-tê của Xec-van-tec)

II. Phân tích đoạn trích.

1. Nhân vật hiệp sĩ Đôn Ki-hô-tê.

a. Hoàn cảnh xuất thân, hình ảnh khát vọng và mục đích chiến đấu của Đôn Ki-hô-tê:

– Xuất thân: Tầng lớp quý tộc nghèo, sa sút.

– Hình dáng: Đôn-ki-hô-tê gầy gò và cao lêu nghêu, cưỡi con ngựa gầy còm, ốm yếu.

– Khát vọng: Vì quá say mê truyện hiệp sĩ nên Đôn Ki-hô-tê muốn trở thành một hiệp sĩ giang hồ trứ danh.

– Mục đích: Trừ gian diệt ác, cứu khốn phò nguy, giúp người lương thiện → Mục đích ấy tuy tốt đẹp nhưng đã bị đầu óc hoang tưởng kia làm cho sai lệch và trở nên hão huyền.

– Tính cách: Lương thiện, hiệp nghĩa, dũng cảm nhưng mê muội, mù quáng, thiếu thực tế.

b. Đôn Ki-hô-tê và trận chiế với những chiếc cối xay gió:

– Để trở thành hiệp sĩ chân chính, lão chuẩn bị mọi thứ:

+ Phong ngựa còm là chiến mã Rô-xi-nan-tê.

+ Tự phong người phụ nữ nông dân mà lão thầm thương trộm nhớ là công nương Đuyn-xi-nê-a.

+ Bản thân tự xừng là hiệp sĩ tài ba.

+ Tìm kiếm trong nhà kho một vài dụng cụ han gỉ đánh bóng lại

+ Thuê anh nông dana Xan-chô Pan-xa làm giám mã …..

– Trận ác chiến với những chiếc cối xay gió:

+ Lão nhầm tưởng những chiếc cối xây giớ là những gã khổng lồ gớm giếc, tàn ác. trách nhiệm của lão (một hiệp sĩ) là phải diệt trừ chúng cho bằng được.

+ Giám mã Xan-chô Pan-xa ngăn cản nhưng lão không nghe.

+ Lão lấy khiên che kín thân, tay lăm lăm ngọn giáo, thúc con Rô-xi-nan-tê xông thẳng tới, đâm mũi giáo vào cánh quạt… dù lực lượng không cân sức vẫn cứ một mình đương đầu không sợ nguy hiểm, không màng đến tính mạng.

+ Kết quả: cả người và ngựa đều bị thương. Khi bị thương nhưng không hề rên rỉ, coi khinh cái tầm thường, không lấy việc ăn uống tầm thường làm thích thú

– Trong tình yêu vô cùnng say đắm, luôn nghĩ về nàng Đuyn-xi-nê-a. Đôn-ki-hô-tê có khát vọng dũng cảm và lí tưởng cao đẹp nhưng lại rất hoang tưởng.

* Bình luận:

– Đôn Ki-hô-tê không nhữn hoang tưởng mà còn là người bảo thủ đến cùng cực. Lão cho rằng cối xay gió, là kẻ thù, là những kẻ khổng lồ cần tiêu diệt. Lão không nghe lời can gián giải thích của Xan-chô (vì cho rằng anh là kẻ hèn nhát) mà cứ thế xông vào cối xay gió, vừa phát ra những lời đe dọa như một hiệp sĩ. Dù mắc chứng hoang tưởng nặng nhưng ta cũng nhận thấy được tinh thần thiện chiến, dũng cảm, lòng tự tin của Đôn Ki-hô-tê, chắc hẳn rằng ông ta đã có một ước mơ thật đẹp về việc thực thi công bằng.

– Đôn Ki-hô-tê đã phải gánh chịu hậu quả vô cùng đau đớn: “ngọn giáo gãy tan tành, kéo theo cả ngựa và người văng ra xa” nhưng cũng không tỉnh ngộ. Cú ngã trời giáng khiến ông ta không thể nào động đậy được, thế nhưng nghe Xan-chô Pan-xa xót xa, trách cứ, ông ta lại lập tức phản biện bằng lý lẽ của một hiệp sĩ rằng “chuyện chinh chiến thường biến hóa khôn lường chứ không như những chuyện khác”. Điều đó minh chứng rằng Đôn Ki-hô-tê vẫn chưa hề tỉnh ngộ, vẫn đang chìm trong ảo tưởng và lối suy nghĩ kỳ dị của mình, không lối thoát.

→ Đôn Ki-hô-tê là người có suy nghĩ hoang tưởng, hoang đường, dẫn tới những hành động điên rồ, ngược lại bác nông dân Xan-chô Pan-xa lại là người có nhận thức thực tế và tỉnh táo. 

2. Nhân vật giám mã Xan-chô Pan-xa.

– Xuất thân: Có xuất thân là nông dân.

– Hình dáng: Người béo lùn, thô lỗ, cục mịch, cưỡi con lừa thấp và lùn như lão.

– Mục đích: Nhận làm giám mã vì hi vọng được làm đốc cai trị vài hòn đảo. Lão là người nông dân thích danh vọng hão huyền

– Việc làm:

+ Luôn mang theo bầu rượu và túi có hai ngăn đựng đầy thức ăn.

+ Xan-chô Pan-xa tỉnh táo đã can ngăn Đôn-ki-hô-tê khi có ý định đánh nhau với cối xay gió.

– Tính cách:

+ Hơi đau là rên rỉ.

+ Vô cùng quan tâm đến những nhu cầu vật chất hằng ngày như ăn, ngủ.

+ Luôn tỉnh táo và thực tế.

+ Tính xấu: sợ hãi, hèn nhát và thực dụng.

→ Xan-chô-pan-xa là nhân vật tồn tại cả những mặt tốt, xấu, hay, dở. Lão rất thực tế, tỉnh táo nhưng nhân vật này thực dụng, hèn nhát, tham lam.

III. Tổng kết.

1. Nội dung:

– Thông qua câu chuyện về sự thất bại của Đôn Ki-hô-tê khi đánh nhau với cối xay gió, nhà văn chế giễu lí tưởng hiệp sĩ phiêu lưu, hão huyền; phê phán thói thực dụng thiển cận của con người trong đời sống xã hội. Qua đó tác giả còn muốn báo trước sự xuất hiện của thời đại phục hưng với những con người mới, những tính cách mới nghị lực mới và sáng ngời chủ nghĩa nhân văn.

2. Nghệ thuật:

– Xây dựng nhân vật vừa so sánh vừa tương phản lẫn nhau làm nổi bật tính cách riêng của mỗi người.

– Nghệ thuật kể chuyện tô đậm sự tương phản giữa hai hình tượng nhân vật.

– Có giọng điệu phê phán, hài hước.

3. Liên hệ văn học:

4. Liên hệ bản thân:

– Cần sống có ước mơ, lí tưởng cao đẹp, hướng tới chính nghĩa nhưng không nên xa rời thực tế với những ý nghĩ hãohuyền.

– Yêu thích đọc sách nhưng nên biết lựa chọn sách tốt để đọc và học tập.

– Cần biết sống cho cả hiện tại, không nên chỉ sống trong hoài niệm cùng những lí tưởng viển vông.

– Sống thực tế, tỉnh táo nhưng không nên có cái nhìn quá thực dụng, ích kỉ.


CHIẾC LÁ CUỐI CÙNG
(O.Henri)

I. Tác giả, tác phẩm.

1. Tác giả O.Hen-ri.

– O.Hen-ri (1862-1910) là nhà văn nổi tiếng người Mĩ.

Phong cách nghệ thuật: Tác phẩm của O.Henry luôn nổi bật với những thủ pháp nghệ thuật đặc biệt từ kết cấu truyện đến xây dựng hình tượng nhân vật, điều đó làm truyện ngắn của ông ấn tượng và khác biệt hơn cả so với các nhà văn Mỹ đương thời. Cách tiếp cận của O. Henry mang phong cách cổ điển với giọng điệu triết lí và hướng đến những kết thúc có hậu.  Những sáng tác của ông nhẹ nhàng nhưng toát lên tinh thần nhân đạo cao cả

2. Truyện ngắn “Chiếc lá cuối cùng”.

– Xuất xứ: “Chiếc lá cuối cùng” là một trong số 600 truyện ngắn của nhà văn Ô Hen-ri. Đoạn trích nằm ở phần cuối truyện.

– Bố cục 3 phần:

+ Phần 1 (từ đầu đến “mái hiên thấp kiểu Hà Lan”): Tâm trạng tuyệt vọng của Xiu

+ Phần 2 (tiếp đến “bồi dưỡng và chăm nom”): Sự hồi sinh của Giôn-xi

+ Phần 3 (còn lại): Sự hi sinh cao cả của cụ Bơ-men để cứu Giôn-xi

– Nội dung: Truyện ngắn chứa đựng giá trị nhân văn sâu sắc, câu chuyện nói về tình bạn, tình yêu thương giữa những con người với nhau. Qua đó nhà văn mang tới một bức thông điệp: Hãy luôn thắp sáng ngọn lửa của khát khao hi vọng hãy luôn yeu thương, mang nghệ thuật phjc vụ con người, nghệ thuật chan chính lâu bền nhất là nghệ thuật hướng tới con người và vì con người.

* Tóm tắt nội dung: Chuyện kể về cuộc đấu tranh chống lại bệnh tật, giành lấy sự sống từ tay thần chết của nữ họa sĩ Giôn-si. Xiu và Giôn-si là hai họa sĩ trẻ nghèo khó những giàu khát vọng. Họ ở trong một dãy trọ tồi tàn vùng ngoại ô thành phố Oasihton. Hai người luôn mơ ước được đi khắp nơi, vẽ hết những cảnh đẹp trên mặt đất. Trong cùng dãy trọ còn có cụ Bơ-men, một lão họa sĩ cô đơn, hơn 40 năm khao khát vẽ được một kiệt tác nhưng chưa làm được. Bệnh tật, nghèo túng, hằng ngày lão nhận ngồi làm mẫu cho hai họa sĩ trẻ. Giôn-si bệnh rất nặng. Căn bệnh lao phổi khiến cô kiệt sức, tuyệt vọng và phó mặc sự sống cho số mệnh. Một ngày mưa bão, nằm bên cửa sổ, Giôn-si thầm nghĩ rằng đến khi chiếc lá thường xuân cuối cùng đang gượng bám trên bức tường phía đối diện rụng xuống thì cô cũng lìa đời. Thương bạn, Xiu dành hết tâm sức và tiền bạc để chăm sóc Giôn-si và thầm cầu mong thượng đế cho Giôn-si khỏi bệnh. Biết tâm sự của Giôn-si, trong đêm mưa bão khủng khiếp, cụ Bơ-men đã liều mình mang đèn ra ngoài trời vẽ chiếc lá thường xuân lên tường ngay tại chỗ lá thường xuân cuối cùng đã rụng xuống vì mưa gió. Sau đó, cụ bị nhiễm lạnh và qua đời. Còn Giôn-si, khi nhìn thấy chiếc lá nhỏ đã kiên cường vượt qua đêm mưa bão, cô hối hận vì những suy nghĩ ngu ngốc của mình. Không ngờ, chính niềm tin đó khiến sức khỏe cô hồi phục, căn bệnh được đẩy lùi.

Xem văn bản: Cảm nhận tâm trạng của nhân vật Giôn-xi trong truyện ngắn &”Chiếc lá cuối cùng” của O.Henri.

II. Phân tích tác phẩm.

1. Nhân vật Giôn-xi.

– Giôn-xi là một họa sĩ nghèo, giàu khát vọng nhưng lại mắc bệnh sưng phổi hiểm nghèo, đối mặt với cái chết.

– Khi bị bệnh, cô đã vô cùng tuyệt vọng:

+ Mở to cặp mắt thẫn thờ và thều thào ra lệnh →  Những từ láy tượng hình tượng thanh thể hiện sự yếu ớt, cạn kiệt của Giôn-xi.

+ Suy nghĩ rằng khi chiếc lá cuối cùng rụng thì cô sẽ chết.

→ Tinh thần suy sụp, mất hết niềm tin, nghị lực, tâm trạng buông xuôi, tuyệt vọng.

– Thái độ của Giôn-xi khi nhìn thấy chiếc lá cuối cùng không rụng:

+ Tự thấy mình là hư.

+ Muốn ăn cháo, uống nước, muốn soi gương và muốn vẽ.

→ Tâm trạng hoàn toàn thay đổi, cô thoát khỏi cái chết, có tình yêu cuộc sống, yêu nghệ thuật.

– Sự dai dẳng của chiếc lá chính là nguồn gốc hồi sinh tâm trạng của Giôn-xi.

→ Con người cần phải có niềm tin, nghị lực để chiến thắng bệnh tật và vượt lên chính mình.

2. Nhân vật Xiu.

– Xiu là một cô gái có tấm lòng nhân hậu, đức hi sinh, có sự đồng cảm sâu sắc và yêu thương bạn như người thân ruột thịt:

+ Khi Giôn-xi bị bệnh: Lo lắng, luôn động viên, chăm sóc Giôn-xi → Tình cảm chân thành của Xiu với cô bạn yếu đuối trọ cùng.

+ Xiu sợ khi chỉ còn 1 chiếc là thường xuân cuối cùng còn bám lại trên tường. Khi Giôn-xi bảo kéo màn, “cô làm theo cô làm theo một cách chán nản”

– Xiu kể về cái chết của cụ Bơ-men bằng một giọng cảm động và chân thành còn có cả sự biết ơn khôn xiết.

→ Thể hiện sự kính trọng, thương nhớ, khâm phục cụ Bơ-men.

3. Nhân vật cụ Bơ-men.

– Là một họa sĩ già, nghèo, chưa có thành đạt trên con đường nghệ thuật, mơ ước vẽ được kiệt tác.

– Quan tâm, yêu quí các đồng nghiệp trẻ.

– Là người có đức hi sinh thầm lặng cao cả, quên mình vì người khác.

– Tạo ra kiệt tác chiếc lá cuối cùng để cứu lấy Giôn-xi: Khi biết tâm trạng chán nản của Giôn-xi, cụ lẳng lặng vẽ chiếc lá trên tường trong đêm gió tuyết để nhen lên niềm tin, niềm hi vọng và nghị lực sống cho Giôn-xi.

→ Chiếc lá cuối cùng mà cụ Bơ men được tạo ra từ nghệ thuật chân chính, hướng đến con người và vì con người.

III. Tổng kết.

1. Nội dung:

– Truyện ca ngợi tình yêu thương cao cả giữa những con người nghèo khổ. Tôn vinh giá trị, sức mạnh của nghệ thuật chân chính mang đến niềm vui và hạnh phúc cho con người. Câu chuyện khép lại nhưng để lại dư âm mãi trong lòng người đọc về tình yêu thương nhân loại cảm động và chân thành

2. Nghệ thuật:

– Cốt truyện dàn dựng chu đáo, tình tiết sắp xếp khéo léo, hấp dẫn.

– Nghệ thuật đảo ngược tình huống truyện hai lần đã tạo ra hứng thú với người đọc.

– Câu chuyện khép lại nhưng để lại dư âm mãi trong lòng người đọc về tình yêu thương nhân loại cảm động và chân thành.

3. Liên hệ văn học:

4. Liên hệ bản thân:

– Cần phải có nghị lực sống, biết suy nghĩ,hành động theo ý chí tích cực,làm đẹp cho bản thân,cuộc sống xã hội.

– Phải có lòng yêu thương,biết quan tâm,chia sẻ giúp đỡ nhau.Biết cống hiến hết mình,hi sinh bản thân vì những điều tốt,vì mọi người xung quanh.


HAI CÂY PHONG
(trích “Người thầy đầu tiên” của Ai-ma-tốp)

I. Tác giả, tác phẩm.

1. Tác giả Ai-ma-tốp.

– Ai-ma-tốp (1928- 2008) là nhà văn Cư-rơ-gư-stan, một nước cộng hòa ở vùng Trung Á, thuộc Liên Xô trước đây.

Phong cách nghệ thuật: Các truyện ngắn của Ai-ma-tốp chủ yếu viết về cuộc sống khắc nghiệt nhưng cũng đầy chất lãng mạn của người dân vùng đồi núi Cư-rơ-gư-xtan, tình yêu, tình bạn, tinh thần dũng cảm vượt qua những thử thách hi sinh thời chiến tranh.

2. Tác phẩm “Hai cây phong”.

– Xuất xứ: Văn bản là phần đầu của truyện “Người thầy đầu tiên”, được sáng tác năm 1957.

– Bố cục 4 phần:

+ Phần 1 (Từ đầu đến “ai cũng nhìn rõ”): Giới thiệu về làng Ku-ku-rêu và hai cây phong.

+ Phần 2 (tiếp đến “chiếc gương thần xanh”): Cảm nhận của nhân vật tôi về hai cây phong trong trong mỗi lần về thăm quê.

+ Phần 3 (tiếp đến “biêng biếc kia”): Hai cây phong trong kí ức và tuổi thơ của tác giả.

+ Phần 4 (còn lại): Nhân vật “tôi” nhớ tới người trống hai cây phong và gắn liền với thầy Đuy-sen.

– Nội dung: Đoạn trích miêu tả hai cây phong với ngòi bút sắc bén đậm chất hội hoajvaf đong đầy cảm xúc. Qua đó truyền cho chúng ta tình yêu quê hương da diết và niềm xúc động đặc biệt vì hai cây phong gắn với câu chuyện về người thầy- người đã vun trồng những ước mơ cho những đứa học trò của mình.

* Tóm tắt nội dung: Đoạn trích là những cảm nhận sâu sắc và tinh tế của nhân vật “tôi” về hai cây phong ở làng Ku-ku-rêu. Sau những năm tháng xa làng, nhân vật tôi vẫn nhớ như in hình ảnh hai cây phong trên đồi cao hùng vĩ như những ngọn hải đăng trên núi. Hai cây phong gắn bó thân thiết với bọn nhỏ ở trong làng. Chúng cảm nhận hai cây phong như biểu tượng của tiếng nói riêng, như tâm hồn riêng của làng. Bọn trẻ thường trèo lên cây để phá tổ chim, lắng nghe âm thanh vi vút của cành lá và phóng tầm mắt nhìn ngắm thế giới xung quanh từ trên cao. Hai cây phong trở thành biểu tượng của quê hương và khát vọng vươn xa của mỗi đứa trẻ.

Xem văn bản: Cảm nhận vẻ đẹp hình ảnh hai cây phong trong đoạn trích “Hai cây phong” (Ai-ma-tóp)

II. Phân tích tác phẩm.

1. Hình ảnh hai cây phong.

– Hai cây phong nằm ở trên đồi như ngon hải đăng trên núi. Ai đến làng cũng đều thấy chúng trước tiên. Nó là dấu hiệu để nhận ra làng.

Phép so sánh chỉ giá trị tín nhiệm của hai cây phong. Khẳng định giá trị không thể thiếu đối với những người đi xa, thể hiện niềm tự hào về hai cây phong

– Hai cây phong ấy cũng có tiếng nói riêng, tâm hồn riêng: tiếng rì rào nhiều cung bậc khác nhau.

– Hai cây phong gắn bó với sự sống, với con người: nơi giúp bọn trẻ thấy một “thế giới đẹp đẽ vô ngần của không gian bao la và ánh sáng”, nhìn ra vẻ đẹp mới và khơi gợi khát vọng khám phá miền đất lạ.

– Hai cây phong là nhân chứng cho hành động và tình cảm của thầy Đuy-sen.

– Cảnh trèo lên hai cây phong cho ta thấy đây là nơi hội tụ niềm vui, mở rộng chân trời hiểu biết, nơi khắc ghi những biến cố của làng

Bằng cách kể, miêu tả, nhân hóa so sánh cho thấy sức sống mãnh liệt của hai cây phong, biểu tượng cho con người thảo nguyên. Bức tranh thiên nhiên được ngắm nhìn từ trên coa đầy quyến rũ, bí ẩn vì nó gợi lên những vùng đất, con sông bí ẩn, mà lũ trẻ chưa từng biết đến… Hai cây phong không chỉ mở rộng tầm mắt mà còn nâng cánh ước mơ cho những em bé làng Ku-ku-rêu hướng tới chân trời xa xôi, tươi sáng.

2. Hình ảnh con người.

– Nhân vật “tôi” có tình cảm đặc biệt, yêu mến hai cây phong.

– Có một nỗi nhớ mãnh liệt với hai cây phong.

– Có trí tưởng tượng rất phong phú, tâm hồn nhạy cảm, yêu thiên nhiên và làng quê.

→ Con người đã khắc họa lên một bức tranh thiên nhiên đậm chất hội họa được khám phá từ điểm nhìn trên hai cây phong- là những kỉ niệm tuổi thơ cho tình yêu yêu quê hương của những đứa trẻ.

– Hai cây phong gắn với câu chuyện về thầy Đuyn-sen đã vun trồng ước mơ hi vọng cho những người học trò nghèo: Thầy đã trồng hai cây phong với hi vọng các thế hệ trẻ được học hành, có khát vọng lớn và trở thành người hữu ích.

III. Tổng kết.

1. Nội dung.

– Hình ảnh hai cây phong là biểu tượng của tình yêu quê hương sâu nặng gắn liền với những kỉ niệm đẹp đẽ về tuổi thơ của người họa sĩ làng Ku-ku- rêu.

2. Nghệ thuật:

– Cách lựa chọn ngôi kể tạo nên hai mạch kể lồng ghép độc đáo, sự kết hợp giữa miêu tả, biểu cảm với ngòi bút đậm chất hội họa, truyền sự rung cảm đến người đọc, những liên tưởng tác bạo đầy chất thơ.

– Nghệ thuật nhân hóa với những liên tưởng tác bạo đầy chất thơ tại nên sức hấp dẫn cho văn bản.

– Các biện pháp so sánh, nhân hóa với nhiều liên tưởng, tưởng tượng phong phú.

3. Liên hệ văn học.

4. Liên hệ bản thân:

– Tình yêu thiên nhiên.

– Tình yêu quê hương và trách nhiệm đối với quê hương.

– Ước mơ, khát vọng vươn cao, vươn xa.


THÔNG TIN VỀ NGÀY TRÁI ĐẤT NĂM 2000.

I. Tác giả, tác phẩm.

1. Tác giả.

– Theo tài liệu của Sở Khoa học- Công nghệ Hà Nội.

2. Tác phẩm.

– Xuất xứ: “Thông tin về ngày Trái đất năm 2000” là văn bản được soạn thảo dựa trên bức thông điệp của 13 cơ quan nhà nước và tổ chức phi chính phủ phát đi ngày 22 tháng 4 năm 2000, nhân lần đầu tiên Việt Nam tham gia ngày Trái đất.

– Bố cục 3 phần:

+ Phần 1 (Từ đầu đến “chủ đề Một ngày không sử dụng boa ni lông”): Thông báo về Ngày Trái Đất năm 2000.

+ Phần 2 (tiếp đến “Ô nhiễm nghiêm trọng đối với môi trường”): Phân tích tác hại của việc sử dụng bao bì ni lông và nêu ra giải pháp

+ Phần 3 (còn lại): Lời kêu gọi mọi người hãy hành động bảo vệ Trái đất.

– Nội dung: Văn bản đã thuyết minh, phân tích đầy sức thuyết phục về tác hại của việc sử dụng bao bì ni lông, về lợi ích của việc giảm bớt chất thải ni lông và đề ra những giải pháp, hành động có thể cải thiện môi trường sống, để bảo vệ Trái đất.

Xem van bản: Nghị luận: Tác hại của bao bì ni lông và cách giải quyết.

II. Phân tích văn bản.

1. Thông báo về sự ra đời của Ngày Trái Đất năm 2000.

– Một số sự kiện được thông báo.

+ Ngày 22- 4 hằng năm được gọi là Ngày Trái Đất.

+ Có 141 nước tham gia.

+ Năm 2000 Việt Nam tham gia với chủ đề: Một ngày không sử dụng bao bì nil lông.

– Thông qua những con số, ngày tháng cụ thể, đi từ thông tin khái quát đến cụ thể, lời thông báo trực tiếp ngắn gọn dễ hiểu dễ nhớ.

→ Thế giới rất quan tâm đến vấn đề bảo vệ môi trường Trái Đất.

2. Tác hại của bao bì ni lông và một số giải pháp hạn chế sử dụng bao bì ni lông.

a. Những tác hại của bao bì ni lông.

Với môi trường:

+ Trực tiếp gây hại cho môi trường vì đặc tính không phân huỷ của nó, chúng có thể tồn tại từ 20 năm đến 5000 năm

+ Lẫn vào đất dẫn đến cản trở quá trình sinh trưởng các loài thực vật, cỏ dẫn đến xói mòn.

+ Vứt xuống cống làm tắc đường dẫn nước thải, lây truyền dịch bệnh.

+ Trôi ra biển làm chết các sinh vật khi chúng nuốt phải

– Với con người:

+ Ô nhiễm thực phẩm, gây bệnh cho não, phổi…

+ Khí độc thải ra gây ngộ độc, giảm khả năng miễn dịch, ung thư, dị tật…

→ Liệt kê, phân tích trên cơ sở thực tế và khoa học. Dùng bao bì ni lông bừa bãi làm ô nhiễm môi trường, phát sinh nhiều bệnh hiểm nghèo.

b. Những biện pháp hạn chế dùng bao bì ni lông.

– Khẳng định các biện pháp như: chôn lấp, đốt, tái chế đều không triệt để

– Giải pháp:

+ Thay đổi thói quen sử dựng, giặt bao bì ni lông để dùng lại

+ Không sử dụng bao bì ni lông khi không cần thiết

+ Sử dụng các túi đựng bằng giấy, bằng lá, nhất là khi đựng thực phẩm

+ Tuyên truyền cho mọi người thấy được tác hại của bao bì ni lông. Hạn chế tối đa việc dùng bao bì ni lông.

Các giải pháp đưa ra hợp lí, có tính khả thi cao.

3. Lời kêu gọi về việc bảo vệ môi trường sống.

– Mọi người hãy quan tâm đến trái đất hơn

– Hãy bảo vệ trái đât trước nguy cơ ô nhiễm môi trường

– Hãy cùng nhau hành động một ngày không sử dụng bao bì ni lông.

→ Lời kêu gọi giản dị nhưng khẩn thiết với mỗi chúng ta.

III. Tổng kết.

1. Nội dung.

– Văn bản Thông tin về ngày Trái Đất năm 2000 đưa đến cho mỗi chúng ta sự nhìn nhận và hành xử đúng đắn hơn với môi trường sống của mình bằng cách chỉ ra những  tác hại của việc sử dụng bao bì ni lông, về lợi ích của việc giảm bớt chất thải ni lông và đề ra những giải pháp, hành động có thể cải thiện môi trường sống, để bảo vệ Trái đất.

2. Nghệ thuật.

– Lập luận hợp lí, rõ ràng, logic, lời kêu gọi mang tính nhấn mạnh tác động sâu vào nhận thức cũng như hành động của mỗi người

– Sử dụng phương pháp liệt kê, phân tích dùng số liệu cụ thể.

– Giải thích đơn giản, khách quan, rõ ràng.

– Ngôn ngữ chính xác, rõ ràng, chân thành trên cơ sở khoa học, khách quan.

3. Liên hệ thực tế:

– Vấn đề ô nhiễm môi trường hiện nay.

4. Liên hệ bản thân:

– Có thái độ, ý thức tích cực trong việc bảo vệ môi trường qua việc sử dụng bao bì và xử lí rác thải, sống có trách nhiệm với cộng đồng xã hội.

– Hạn chế sử dụng bao bì ni lông.


ÔN DỊCH, THUỐC LÁ
(Từ thuốc lá đến ma túy – Bệnh nghiện của Nguyễn Khắc Viện)

I. Tác giả, tác phẩm.

1. Tác giả Nguyễn Khắc Viện.

– Nguyễn Khắc Viện (1913 – 1997) là bác sĩ nhi khoa, một nhà nghiên cứu văn hóa và tâm lí – y học. Ông thường xuyên viết những tác phẩm giới thiệu về Việt Nam, phê phán chủ nghĩa thực dân.

2. Văn bản “Ôn dịch, thuốc lá”.

– Xuất xứ: “Ôn dịch, thuốc lá” là bài viết của tác giả Nguyễn Khắc Viện trích trong Từ thuốc lá đến ma túy- Bệnh nghiện (NXB Giáo dục, Hà Nội, 1992)

– Bố cục 3 phần.

+ Phần 1: (Từ đầu đến “nặng hơn cả AIDS”): nêu lên vấn đề và sự nghiêm trọng của vấn đề: nạn nghiện thuốc lá

+ Phần 2: (Từ tiếp đến “con đường phạm pháp”): Tác hại của thuốc lá

+ Phần 3: Còn lại: Lời kêu gọi chống thuốc lá

– Nội dung: Với những phân tích thấu đáo, tác giả đã chỉ ra nhiều tác hại của thuốc lá đối với sức khỏe và tính mạng mỗi người. Nghiện thuốc lá còn ghê gớm hơn cả ôn dịch, muốn chống lại nó chúng ta phải quyết tâm bảo và có những biện pháp triệt để hơn là phòng chống ôn dịch.

Xem văn bản: Suy nghĩ về những tác hại của khói thuốc lá qua bài “Ôn dịch, thuốc lá” của giáo sư Nguyễn Khắc Viện

II. Phân tích văn bản.

1. Thông báo về nạn dịch thuốc lá.

– Những ôn dịch mới xuất hiện vào đầu thế kỉ: dịch hạch, thổ tả, AIDS, thuốc lá. Ôn dịch thuốc lá đe doạ sức khoẻ và tính mạng của loài người còn nặng hơn cả AIDS.

– Sử dụng từ ngữ thông dụng của ngành y tế, phép so sánh. Thông báo ngắn gọn, chính xác nạn dịch thuốc lá và nhấn mạnh hiểm hoạ của nạn dịch này

2. Tác hại của khói thuốc lá.

a. Ảnh hưởng tới sức khoẻ con người.

– Dẫn lời Trần Hưng Đạo bàn về việc đánh giặc khi nói về sự nguy hiểm của thuốc lá: So sánh thuốc lá tấn công loài người như giặc ngoại xâm đánh phá.

– Hút thuốc lá có hại cho cơ thể, cho sức khoẻ người hút một cách từ từ, chắc chắn.

– Khói thuốc lá chứa nhiều chất độc thấm vào cơ thể người hút:

+ Chất hắc ín: gây ho hen, viêm phế quản

+ Ô -xit các-bon: hạn chế sự tiếp nhận ô xi.

+ Ni- cô- tin: gay huyết áp cao, nhồi máu, dễ dẫn đến tử vong.

– Khói thuốc lá còn đầu độc những người xung quanh: nhiễm độc, viêm phế quản, ung thư…

– Bác bỏ quan điểm sai lầm: “Tôi hút, tôi bị bệnh, mặc tôi!” thông qua nêu ra tác hại của thuốc lá đối với cộng đồng

– Thừa nhận quyền tự do, trong đó có tự do hút thuốc, nhưng cũng căn cứ vào quyền của con người để phê phán

– So sánh với một hành vi tự đầu độc khác là uống rượu, thì hút thuốc lá rõ ràng là nguy hại hơn vì nó còn đầu độc những người xung quanh

→ Căn cứ khoa học, những số liệu cụ thể, giúp người đọc nhận thức rõ tác hại của khói thuốc lá đối với sức khỏe của người hút. Thuốc lá huỷ hoại nghiêm trọng sức khoẻ con người, là nguyên nhân của nhiều cái chết.

b. Ảnh hưởng của thuốc lá đến đạo đức con người.

– Người lớn hút thuốc đầu độc con em và nêu gương xấu

– Tỉ lệ thanh thiếu niên hút thuốc lá cao

– Cảnh báo nạn đua đòi thuốc lá dẫn đến các tệ nạn khác ở thanh niên.

– Huỷ hoại lối sống, nhân cách của con người

3. Lời kêu gọi chống thuốc lá.

– Khẳng định tầm quan trọng của vấn đề bảo vệ sức khoẻ con người và giữ gìn bầu không khí trong lành là nhiệm vụ chung của toàn nhân loại.

– Cần tuyên truyền chống hút thuốc lá; khuyên người thân hạn chế rồi bỏ thuốc lá; bản thân không đua đòi, không tập hút thuốc lá, không coi việc hút thuốc là biểu hiện sành điệu, quý phái,..

III. Tổng kết.

1. Nội dung.

Nạn nghiện thuốc lá dễ lây lan và gây những tổn thất to lớn cho sức khỏe và tính mạng con người; gây tác hại nhiều mặt với cuộc sống gia đình và xã hội. Bởi vậy, muốn chống lại nó, cần có quyết tâm cao hơn và biện pháp triệt để hơn là phòng chống ôn dịch.

2. Nghệ thuật.

Cách lập luận vô cùng chặt chẽ, ngắn gọn, cụ thể, thuyết phục với lối văn viết giàu nhiệt huyết đã tạo nên hiệu quả cho văn bản.

– Sử dụng thủ pháp so sánh, phân tích, phân loại, liên hệ thực tế để thuyết minh một cách thuyết phục một vấn đề y học liên quan đến vấn đề xã hội.

3. Liên hệ thực tế:

– Vấn nạn hút thuốc lá trong giới trẻ ngày nay

4. Liên hệ bản thân:

– Nhận thức rõ: khói thuốc lá gây nguy hại cho sức khỏe.

– Cần loại bỏ thuốc lá ra khỏi cộng dồng đẻ bảo vệ sức khỏe con người.


BÀI TOÁN DÂN SỐ.

I. Tác giả, tác phẩm.

1. Tác giả.

– Theo Thái An, Báo Giáo dục và Thời đại, chủ nhật, số 28, 1995

2. Tác phẩm.

– Xuất xứ: Văn bản trích từ bài báo “Bài toán dân số đã được đặt ra từ thời cổ đại” in trên báo Giáo dục và Thời đại chủ nhật, số 28, 1995

Bố cục 3 phần.

+ Phần 1 (Từ đầu đến “sáng mắt ra”): Bài toán dân số đã được đặt ra ở thời cổ đại

+ Phần 2 (Từ “Đó là câu chuyện cổ” đến “sang ô thứ 31 của bàn cờ”): Tốc độ gia tăng dân số thế giới là hết sức nhanh chóng

+ Phần 3 (từ “đừng để cho mỗi con người” đến hết): Kêu gọi mọi người quan tâm đến việc chống sự bùng nổ gia tăng dân số.

– Nội dung: Từ câu chuyện một bài toán cổ về cấp số nhân, tác giả đã đưa ra các con số buộc người đọc phải liên tưởng, suy ngẫm về sự gia tăng dân số đáng lo ngại của thế giới, nhất là ở các nước chậm phát triển.

Xem vân bản: Phân tích văn bản “Bài toán dân số”.

II. Phân tích văn bản.

1. Nêu vấn đề dân số và kế hoạch hoá gia đình.

– Đưa ra hai giả thuyết về bài toán dân số: được đặt ra từ thời cổ đại hay vài chục năm gần đây.

– Trình bày quan điểm người viết: Lúc đầu không tin. Sau đó mới “sáng mắt ra”.

– Bài toán dân số và kế hoạch hoá gia đình được đặt ra từ thời cổ đại.

– Cách đặt vấn đề bất ngờ, hấp dẫn. Điều đó khẳng định tác giả nhận thức vấn đề rất rõ và sâu sắc.

2. Từ bài toán cổ đến bài toán dân số.

– Bài toán cổ: Số thóc tăng theo cấp sô nhân, nhiều vô kể. Tuy không khó nhưng không thực hiện được.

– Dẫn chuyện nhằm so sánh với sự gia tăng dân số của loài người.

– Đánh giá: một con số kinh khủng. Thái độ bất ngờ, lo lắng.

– Đưa ra câu chuyện về dân số: Ban đầu thế giới có hai người, đến 1995 thế giới có 5,63 tỉ người và đạt đến ô thứ 30 trên bàn cờ. Thuyết minh bằng số liệu và cách so sánh đi đến nhận định dân số thế giới tăng rất nhanh.

– Đưa ra câu chuyện về khả năng sinh con của người phụ nữ:

+ Tỉ lệ sinh con (tự nhiên) ở các nước châu Phi, châu Á là rất lớn.

+ Châu Phi có tỉ lệ sinh con ở người phụ nữ lớn hơn châu Á.

– Tác giả muốn giải thích sự gia tăng dân số liên quan chặt chẽ và trực tiếp đến tỉ lệ sinh con tự nhiên của người phụ nữ.

Cái gốc của vấn đề chính là việc kế hoạch hoá gia đình.

3. Lời đề nghị của tác giả.

– Đừng để cho mỗi con người trên trái đất này chỉ còn diện tích một hạt thóc.

– Muốn có đất sống phải sinh hạn chế sự gia tăng dân số.

→ Lời đề nghị ngắn gọn nhưng xác đáng: Cảnh báo và kêu gọi mọi người giảm thiểu sự gia tăng dân số.

III. Tổng kết.

1. Nội dung:

– Văn bản đề cập đến tình trạng bùng nổ dân số thế giới quá nhanh. Câu chuyện cổ về hạt thóc trên bàn cờ đã làm sáng tỏ hiện tượng tốc độ gia tăng vô cùng nhanh chóng của dân số thế giới. Thực trạng tình hình dân số thế giới và Việt Nam; sự phát triển nhanh và mất cân đối sẽ ảnh hưởng đến tương lai của dân tộc và nhân loại. Từ đó đưa ra đề nghị ngắn gọn nhưng xác đáng: Cảnh báo và kêu gọi mọi người giảm thiểu sự gia tăng dân số.

2. Nghệ thuật.

– Sử dụng kết hợp các phương pháp so sánh, dùng số liệu phân tích, lập luận chặt chẽ, dẫn chứng phong phú, ngôn ngữ khoa học, giàu sức thuyết phục.

3. Liên hệ thực tế:

– Vấn đề gia tăng dân số thế giới hiện nay.

4. Liên hệ bản thân:

– Hạn chế sự gia tăng dân số là nhiệm vụ của mỗi gia đình và cá nhân.

– Tích cực thực hiện kế hoạch hóa gia đình để ngăn chặn tốc độ gia tăng dân số.


VÀO NHÀ NGỤC QUẢNG ĐÔNG CẢM TÁC (Cảm tác vào nhà ngục Quảng Đông)
(Phan Bội Châu)

I. Tác giả, tác phẩm.

1. Tác giả Phan Bội Châu.

– Phan Bội Châu (1867- 1940) là một nhà yêu nước, nhà cách mạng lớn nhất của dân tộc ta trong vòng 20 năm đầu thế kỉ XX. Ông còn là một nhà văn, nhà thơ lớn với những sáng tác ở nhiều thể loại.

Phong cách nghệ thuật: Những sáng tác của ông đều thể hiện lòng yêu nước thương dân tha thiết và khát vọng độc lập tự do, ý chí bền bỉ kiên cường.

2. Bài thơ: “Cảm tác vào nhà ngục Quảng Đông”.

– Xuất xứ: Bài thơ được sáng tác khi Phan Bội Châu bị bọn phiệt tỉnh Quảng Đông bắt giam, trong hoàn cảnh ấy ông đã viết tác phẩm Ngục trung thư tập, “Vào nhà ngục Quảng Đông cảm tác” là bài thơ Nôm nằm trong tập Ngục trung thư tập

– Thể loại: thất ngôn bát cú Đường luật.

– Bố cục 4 phần:

  • 2 câu đề: Phong thái ung dung, đàng hoàng và tinh thần bất khuất của Phan Bội Châu.
  • 2 câu thực: Chiêm nghiệm về một cuộc đời đầy sóng gió.
  • 2 câu luận: Hiện lên hình tượng bậc anh tài có tài năng, khí phách hiên ngang và không khuất phục.
  • 2 câu kết: Ý chí gang thép, niềm tin của anh hùng.

– Nội dung: Bài thơ thể hiện phong thái ung dung đường hoàng đĩnh đạc, phí phách kiên cường bất khuất vượt lên cảnh tù túng của người chiến sĩ yêu nước Phan Bội Châu.

Xem văn bản:Cảm nhận bài thơ “Cảm tác vào nhà ngục Quảng Đông” của Phan Bội Châu.

II. Phân tích bài thơ.

1. Phong thái ung dung, đàng hoàng và tinh thần bất khuất của Phan Bội Châu (2 câu đề):

“Vẫn là hào kiệt, vẫn phong lưu”: Hoàn cảnh nhân vật trữ tình ở tù nhưng cái cốt cách hào kiệt, phong thái phong lưu vẫn còn.

“Chạy mỏi chân thì hãy ở tù”: nhà tù chỉ là nơi nghỉ chân tạm trên chặng đường hoạt động cách mạng.

→ Từ hán Việt được sử dụng mang tính trang trọng. Cách nói làm cho câu thơ khỏe khoắn, không hề mang màu sắc đau khổ u buồn, khẳng định tư thế cốt cách đàng của người chiến sĩ. Đối với nhân vật trữ tình, “ở tù” còn là nơi tôi luyện, thử thách để bộc lộ bản lĩnh và khí phách anh hùng.

2. Chiêm nghiệm về một cuộc đời đầy sóng gió (2 câu thực):

“Khách không nhà trong bốn bể”: thực tế khó khăn, để hoạt động cách mạng, nhân vật trữ tình – tác giả đã từng phải bôn ba khắp nơi.

“Lại có tội giữa năm châu”: cảnh đế quốc thực dân đã kết tội Phan Bội Châu án tử hình vắng mặt.

→ Giọng thơ trầm xuống, mang vẻ cảm khái nhưng vẫn hiện lên khí chất của nhân vật: dẫu trong muôn nghìn gian khó, khí phách trượng phu vẫn hiện lên rõ nét. Hai câu thơ giúp cho người đọc hiểu rõ những chông gai trên con đường cách mạng của Phan Bội Châu.

3. Hình tượng bậc anh tài có tài năng, khí phách hiên ngang và không khuất phục (2 câu luận):

“Bủa tay ôm chặt bồ kinh thế”: Ước vọng, lí tưởng không thay đổi, bất chấp mọi hoàn cảnh, đó là chí lớn: sự nghiệp kinh bang tế thế.

“Mở miệng cười tan cuộc oán thù” : Tiếng cười cất lên sảng khoái, ngạo nghễ với mong muốn dẹp tan oán thù.

Biện pháp khoa trương, cách xây dựng hình ảnh thơ theo lối chỉ tỏ lòng, từ ngữ mạnh, ấn tượng. Hai câu thơ đã dựng lên hình ảnh người anh hùng tràn đầy khí phách đang hành đạo để cứu nước.

4. Ý chí gang thép, niềm tin sắt đá của người anh hùng thời đại (2 câu kết).

– Khẳng đinh “thân ấy vẫn còn, còn sự nghiệp”: Khí phách anh hùng thể hiện ở niềm tin bất diệt vào sự nghiệp bản thân đang theo đuổi, đó cũng là ý chí theo đuổi đến cùng sự nghiệp.

– Bởi ý chí theo đuổi lí tưởng đến cùng ấy đã khiến Phan Bội Châu: “bao nhiêu nguy hiểm sợ gì đâu”. Đây là thái độ coi thường hiểm nguy.

Lời thơ dõng dạc, mạnh mẽ, dứt khoát. Hai câu thơ khẳng định ý chí quyết tâm của tác giả.

III. Tổng kết.

1. Nội dung: bài thơ đã khắc họa phong thái ung dung, đường hoàng, phí phách kiên cường bất khuất, vượt lên trên hoàn cảnh tù ngục của nhà cách mạng Phan Bội Châu.

2. Nghệ thuật: giọng điệu hào hùng, khoa trương, bút pháp lãng mạn vận dụng nhuần nhuyễn, thể thơ thất ngôn bát cú với các phép đối chặt chẽ làm cho tầm vóc nhân vật trữ tình trở nên lớn lao, kì vĩ.

3. Liên hệ văn học:

– Thuật hoài (Phạm Ngũ lão)

– Đập đá ở Côn Lôn (Phan Châu Trinh)

– Chí làm trai (Nguyễn Công Trứ).

– Cảm hoài (Đặng Dung).

4. Liên hệ bản thân:

– Phấn đấu theo đuổi niềm mơ ước của mình dẫu gian nan, thử thách.


ĐẬP ĐÁ Ở CÔN LÔN
(Phan Châu Trinh)

I. Tác giả, tác phẩm.

1. Tác giả Phan Châu Trinh.

– Phan Châu Trinh (1872-1926) quê tỉnh Quảng Nam, là nhà yêu nước và cách mạng lớn của Việt Nam đầu thế kỷ XX

– Phan Châu Trinh nổi tiếng với áng văn chính luận đầy tính hùng biện, có lập luận đanh thép, sáng tác cả thơ…tất cả đều thấm nhuần tư tưởng yêu nước

2. Bài thơ “Đập đá ở Côn Lôn”.

– Hoàn cảnh sáng tác: Bài thơ được sáng tác vào thời gian Phan Châu Trinh bị bắt giam tại nhà tù ở Côn Đảo

– Bố cục 2 phần:

+ Phần 1 (4 câu thơ đầu): Hình ảnh hiên ngang khí phách của người anh hùng mặc dù trong cảnh tù đày

+ Phần 2 (4 câu thơ sau): Ý chí sắt thép, tinh thần kiên trung và nghị lực của người anh hùng trong cảnh tù đày.

– Nội dung: Bài thơ giúp ta cảm nhận một hình tượng đẹp, một khí thế ngang tàng, vẻ đẹp lẫm liệt của người anh hùng dù gặp phải tình cảnh gian nguy nhưng vẫn không hề ờn lòng đổi chí.

Xem van bản:  Cảm nhận bài thơ “Đập đá ở Côn Lôn” của Phan Chu Trinh.

II. Phân tích bài thơ.

1. Khí phách, uy dũng của người chiến sĩ (4 câu thơ đầu).

– Tư thế “Làm trai đứng giữa đất Côn Luân”: thế lồng lộng giữa càn khôn nhật nguyệt, vượt ra khỏi sự tù hãm của hoàn cảnh. Đằng sau hai chữ “làm trai” là quan niệm nhân sinh mang tính truyền thống của nho giáo

“Xách búa đánh tan …. mấy trăm hòn”: Công việc đập đá được thể hiện bằng nghệ thuật khoa trương

+ Hình ảnh “lở núi non”, “năm bảy đồng”, “mấy trăm hòn” và các hành động “xách búa”, “đập bể”: điểm xuất phát để làm xuất hiện lớp nghĩa biểu trưng.

+ Người đập đá xuất hiện trong khí thế lẫy lừng, kết quả thì phi thường

Giọng điệu hùng tráng, bút pháp khoa trương, động từ mạnh, miêu tả- biểu cảm. Con không nhỏ bé mà người lại mang tầm vóc vũ trụ, ngạo nghễ phi thường

2. Ý chí chiến đấu kiên cường của người chiến sĩ (4 câu thơ sau).

– Hai câu 5, 6: giọng tự bạch: Dưới con mắt của tác giả thì “tháng ngày”, “mưa nắng” không làm nhụt chí mà ngược lại tôi luyện cho họ sành sỏi, dày dạn kinh nghiệm, “bền gan” với lí tưởng

– Nghệ thuật đối: Những thử thách gian nan với sức chịu đựng dẻo dai, bền bỉ của con người, thể hiện rất rõ nội lực tinh thần của người chiến sĩ.

– Hai câu kết lại trở về giọng khẩu khí ngang tàng: Mượn hình ảnh huyền thoại Nữ Oa vá trời, nhà thơ nói đến chí lớn của người cách mạng.

– Đối với nhà thơ, chuyện ở tù, chuyện “lỡ bước” cũng chỉ là chuyện “con con”

→ Câu cảm thán, nghệ thuật đối nâng cao con người bản lĩnh, coi thường tù đày gian khổ, tin tưởng mãnh liệt vào sự nghiệp yêu nước của mình.

III. Tổng kết.

1. Nội dung: Bài thơ giúp ta cảm nhận một hình tượng đẹp, một khí thế ngang tàng, vẻ đẹp lẫm liệt của nhà cách mạng Phan Chu Trinh.  Dù gặp phải tình cảnh gian nguy nhưng vẫn không hề sờn lòng đổi chí

2. Nghệ thuật:

– Thể thơ thất ngôn bát cú đường luật, ngôn ngữ hàm súc, kết hợp tả thực ẩn dụ, phóng đại.

– Bài thơ sử dung bút pháp lãng mạn, hình ảnh thơ phóng đại và khoa trương.

– Giọng thơ hào hùng, ngang tàng, lẫm liệt, giàu sức biểu cảm.

3. Liên hệ văn học:

– Thuật hoài (Phạm Ngũ lão)

– Cảm tác vào nhà ngục Quảng Đông (Phan Bội Châu)

– Chí làm trai (Nguyễn Công Trứ).

– Cảm hoài (Đặng Dung).

4. Liên hệ bản thân:

– Dù trong cuộc sống có nhiều khó khăn thử thách đi chăng nữa thì chúng ta vẫn phải cố gắng vượt qua đừng vì khó khăn mà sờn lòng đổi chí mà hãy nhớ rằng những khó khăn thử thách đó chỉ làm cho ta càng tăng thêm sức mạnh để vượt qua những khó khăn thôi.


HỌC KỲ II.

NHỚ RỪNG
(Thế Lữ)

I. Tác giả, tác phẩm.

1. Tác giả Thế Lữ.

.- Thế Lữ (1907- 1989), quê quán tỉnh Bắc Ninh (nay thuộc huyện Gia Lâm, Hà Nội). Ông là nhà thơ tiêu biểu trong Thơ mới (1932 – 1945) và nền văn học Việt Nam hiện đại.

Phong cách nghệ thuật: Thế Lữ được xem là một trong những nhà thơ tiên phong trong phong trào cách tân thơ ca. Thơ ông dồi dào, giàu chất lãng mạn, trữ tình, hình ảnh thơ đẹp, giọng điệu thơ mềm mại, trau chuốt qua đó thể hiện những ẩn ý sâu sắc vô cùng.

2. Bài thơ “Nhớ rừng”.

– Hoàn cảnh sáng tác: Bài thơ được sáng tác vào năm 1934, sau được in trong tập Mấy vần thơ- 1935

– Bố cục 3 phần:

+ Phần 1 ( khổ 1 và 4): Tình cảnh đáng thương của con hổ bị nhốt trong vườn bách thú.

+Phần 2 (khổ 2 và 3): Nỗi nhớ của hổ về chốn sơn lâm hùng vĩ.

+ Phần 3 (khổ 5): Niềm khát khao tự do mãnh liệt.

– Nội dung: Bài thơ mượn lời con hổ nhớ rừng để thể hiện sự u uất của lớp những người thanh niên trí thức yêu nước, đồng thời thức tỉnh ý thức cá nhân. Hình tượng con hổ cảm thấy bất hòa sâu sắc với cảnh ngột ngạt tù túng, khao khát tự do cũng đồng thời là tâm trạng chung của người dân Việt Nam mất nước bấy giờ.

Xem văn bản:  Cảm nhận tâm sự của con hổ trong vườn bách thú qua bài thơ “Nhớ rừng” của Thế Lữ

II. Phân tích bài thơ.

1. Tình cảnh đáng thương của con hổ bị nhốt trong vườn bách thú (khổ 1 và 4):

* Khổ 1:

“Gậm một khối căm hờn trong cũi sắt,
……..
Với cặp báo chuồng bên vô tư lự”

– Hoàn cảnh: bị nhốt trong cũi sắt, trở thành một thứ đồ chơi.

– Tâm trạng: căm hờn, phẫn uất; chán chường, mệt mỏi và khinh đời.

+ Chán chường, mệt mỏi: “Ta nằm dài” – cách xưng hô đầy kiêu hãnh của vị chúa tể thể hiện sự ngao ngán cảnh tượng cứ chầm chậm trôi, nằm buông xuôi bất lực.

+ Căm hờn, phẫn uất: “Gậm một khố căm hơn” thể hiệ sự phẫn uất tột cùng.

+ Khinh thường: “Khinh lũ người kia” thể hiện sự khinh thường, thương lại cho những kẻ (Gấu, báo) tầm thường nhỏ bé, dở hơi, vô tư trong môi trường tù túng

– Từ ngữ, hình ảnh chọn lọc, giọng thơ u uất diễn tả tâm trạng căm hờn, uất ức, ngao ngán,..

Sự đau đớn, nhục nhã, bất bình của con hổ như bắt đầu trỗi dậy mãnh liệt khi nhìn thực tại tầm thường trước mắt.

* Bình luận:

Là chúa tể của muôn loài đang thỏa sức tung hoành ngang dọc, cuộc sống tự do tự tại nay bị nhốt chặt trong một không gian chật chội, tù túng với một thời gian dài. Nhìn bề ngoài, nó có vẻ cam chịu, bất lực, buông xuôi nhưng bên trong nó lại đang nung nấu một ngọn lửa căm hờn đang bốc cháy ngùn ngụt. Trong tâm trạng ấy, hổ căm thù và khinh bỉ thế giới xung quanh nó. Căm thù và khinh bỉ những kẻ đã cướp mất cuộc sống tự do của nó, còn hạ nhục nó bằng cách xếp nó ngang hàng với những kẻ vô tư lự, không suy nghĩ, thậm chí còn mang nó ra làm đồ chơi mua vui cho thiên hạ.

Tác giả mượn lời con hổ bị giam cầm trong cũi sắt nơi vườn bách thú, đã diễn tả sâu sắc nỗi chán ghét thực tại tầm thường, tù túng vì mất tự do của con hổ cũng như người dân Việt Nam những năm đầu thế kỉ XX.

* Khổ 4:

“Nay ta ôm niềm uất hận ngàn thâu,
…….
Của chốn ngàn năm cao cả, âm u.

– “Nỗi uất hận ngàn thâu”: Uất hận, căm phẫn.

– “Cảnh sửa sang, tầm thường, giả dối”: xem thường cảnh vật nơi vườn bách thú. Đó là cảnh tượng vẫn không thay đổi, đơn điệu, nhàm chán do bàn tay con người sửa sang, tầm thường giả dối.

* Bình luận:

– Cảnh vườn bách thú nơi con hổ bị nhốt trái ngược với khung cảnh rừng sâu núi thẳm hoang vu nơi nó đã từng ngự trị. Hoa chăm, cỏ xén, lối phẳng, cây trồng là hình ảnh ẩn dụ ám chỉ thực tại của xã hội đương thời.

– Chúa tể rừng xanh đã tỏ thái độ khinh miệt, chán chường trước những cảnh vật nhỏ bé thấp kém của những sự giả dối nhân tạo. Đó không phải là nơi xứng đáng để sống của một đấng thống lĩnh. Dẫu có cố gắng sửa sang thì đó cũng chỉ là những “dải nước đen giả suối chẳng thông dòng” len dưới những “mô gò thấp kém”, là những “hoa chăm, cỏ xén, lối phẳng, cây trồng” không có gì là “bí hiểm” “hoang vu”. Những cảnh sống ngụy tạo ấy khiến cho hổ càng tiếc nhớ chốn “ngàn năm cao cả âm u”.

– Âm hưởng thơ tỏ rõ tâm trạng chán chường, khinh miệt của số đông thanh niên có học thức trước thực tại quẩn quanh, bế tắc của xã hội lúc bấy giờ.

2. Nỗi nhớ của hổ về chốn sơn lâm hùng vĩ (khổ 2 và 3):

* Khổ 2:

– Cảnh núi rừng đầy hùng vĩ với “bóng cả cây già” đầy vẻ nghiêm thâm.

– Những tiếng “gió gào ngàn”, “giọng nguồn hét núi”: Sự hoang dã của chốn thảo hoa không tên không tuổi.

→ Những từ ngữ được chọn lọc tinh tế nhằm diễn tả cảnh đại ngàn hùng vĩ, lớn lao mạnh mẽ, bí ẩn thiếng liêng.

– Bước chân dõng dạc, đường hoàng thể hiện vẻ oai phong đầy sức sống.

– Vẻ oai phong của con hổ khiến tất cả đều phải im hơi.

→ Hình ảnh con hổ giữa chốn rừng xanh bạt ngàn được miêu tả qua một loạt từ ngữ miêu tả, gợi hình: “dõng dạc”, “đường hoàng”, “lượn tấm thân”, “vờn bóng”, “ mắt…quắc”…, thể hiện sự uy nghi, ngang tàng, lẫm liệt của loài chúa tể rừng xanh.

* Bình luận:

Mở đầu là tiếng gầm vang động núi rừng, tiếp theo là bàn chân với móng vuốt sắc nhọn bước nhẹ nhàng trên nền lá, sau đó là tấm thân dài, mềm mại, uyển chuyển.

Những từ ngữ đẹp đẽ nhất, gợi cảm nhất như: Bóng cả, cây già, tiếng gió gào ngàn, giọng nguồn hét núi, hoang vu, bí mật… được tác giả sử dụng để miêu tả khung cảnh hùng vĩ, hoang dã và sức sống mãnh liệt của chốn rừng sâu núi thẳm – giang sơn bao đời của dòng họ chúa sơn lâm. Những hình ảnh giàu chất tạo, hình đã diễn tả sống động vẻ đẹp dũng mãnh, mềm mại, uyển chuyển và sức mạnh bên trong ghê gớm của vị chúa tể rừng xanh giữa núi rừng uy nghiêm, hùng vĩ.

* Khổ 3:

“Nào đâu … ánh trăng tan” → Cảnh đẹp diễm lệ khi con hổ đứng uống ánh trăng thật lãng mạn.

“Đâu những ngày …ta đổi mới” Cảnh mưa rung chuyển đại ngàn, hổ lãng mạn ngắm giang sơn đổi mới.

“Đâu những bình minh…tưng bừng” → cảnh chan hòa ánh sáng, rộn rã tiếng chim ca hát cho giấc ngủ của chúa sơn lâm.

– Cảnh tượng cuối cùng cho thấy hổ là loài mãnh thú đợi màn đêm buông xuống nó sẽ là chúa tể muôn loài.

Một bộ tranh tứ bình đẹp lộng lẫy, cho thấy những cảnh thiên nhiên hoang vắng đẹp rợn ngợp và con hổ với tư thế và tầm vóc uy nghi, hoành tráng.

* Bình luận:

Bốn cảnh tượng hùng vĩ: Những đêm vàng, những ngày mưa, những bình minh, những chiều lênh láng máu sau rừng, cảnh nào cũng tráng lệ, lần lượt hiện lên trong nỗi nhớ tiếc khôn nguôi của con hổ sa cơ. Đại từ ta lặp lại nhiều lần trong bài thơ tạo nên nhạc điệu rắn rỏi, hùng tráng của câu thơ, thể hiện khẩu khí đẩy tự tôn, tự hào của vị chúa tể muôn loài.

Nhưng dẫu huy hoàng đến đâu chăng nữa thì cũng chỉ là hào quang của dĩ vãng hiện ra trong hoài niệm. Những điệp ngữ: Nào đâu, đâu những… lặp đi lặp lại nhấn mạnh sự tiếc nuối của con hổ đối với quá khứ vinh quang. Chúa sơn lâm dường như ngơ ngác, chới với trước thực tế phũ phàng mà mình đang phải chịu đựng.

3. Niềm khát khao tự do mãnh liệt (khổ 5):

– Sử dụng câu cảm thán liên tiếp → lời kêu gọi thiết tha → khát vọng tự do mãnh liệt nhưng bất lực.

→ Nỗi bất hòa sâu sắc với thực tại và niềm khao khát tự do mãnh liệt.

– Tâm sự của con hổ chính là tâm sự của người dân Việt Nam mất nước đang sống trong cảnh nô lệ và tiếc nhớ những năm tháng tự do oanh liệt với những chiế thắng vẻ vang trong lịch sử.

Giọng điệu bi tráng, gào thét với núi rừng (“hỡi…”), lời nói bộc lộ trực tiếp nỗi nhớ, sự nuối tiếc về quá khứ và khao khát tự do, dù trong giấc mộng, con hổ cũng muốn được quay về nơi rừng già linh thiêng.

* Bình luận:

Trong cảnh giam cầm, hổ chỉ còn biết gửi hồn về chốn nước non hùng vĩ, giang sơn của giống hầm thiêng ngự trị tự ngàn xưa. Bất bình với hiện tại nhưng không thể thoát khỏi xích xiềng nô lệ vị chúa tể sơn lâm đầy uy vũ ngày nào giờ đành buông xuôi, tự an ủi mình bằng những giấc mộng ngàn to lớn trong quãng đời tù túng còn lại.

Tâm trạng của con hổ bị giam cầm cũng là tâm trạng chung của người dân Việt Nam đang sống trong cảnh nô lệ bị nhục nhằn tù hãm, cũng ngậm một khối căm hờn và tiếc nhớ khôn nguôi thời oanh liệt với những chiến công chống giặc ngoại xâm vẻ vang trong lịch sử. Chính vì động đến chỗ sâu thẳm của lòng người nên bài thơ vừa ra đời đã được công chúng nồng nhiệt đón nhận

III. Tổng kết.

1. Nội dung:

– Mượn lời của con hổ, tác giả đã thay cho tiếng lòng của con dân Việt Nam trong thời kì mất nước, ấy là tiếng than nuối tiếc cho một thời vàng son của dân tộc, là tiếng khao khát tự do cháy bỏng, sục sôi trong từng người dân yêu nước.

2. Nghệ thuật:

– Thể thơ 8 chữ hiện đại, dễ dàng bộc lộ cảm xúc.

– Ngôn ngữ độc đáo, nhạc điệu phong phú, có tính gợi hình, gợi cảm cao.

– Các biện pháp nghệ thuật được sử dụng thành công: nhân hóa, so sánh, điệp cấu trúc, câu hỏi tu từ, ẩn dụ chuyển đổi cảm giác…

– Giọng điệu, nhịp thơ linh hoạt, khi thì buồn thảm, khi hào hùng, lẫm liệt, theo trình tự logic hiện thực – quá khứ – hiện thực – quá khứ…

– Sử dụng bút pháp lãng mạn, với nhiều biện pháp nghệ thuật như nhân hóa, đối lập, phóng đại, sử dụng từ ngữ gợi hình, giàu sức biểu cảm.

– Xây dựng hình tượng nghệ thuật có nhiều tầng ý nghĩa.

3. Liên hệ văn học:

– Bài thơ “Ông đồ” (Vũ Đình Liên)

– Bài thơ “Tiếng thu” (Lưu Trọng Lư).

4. Liên hệ bản thân:

– Biết trân trọng những gì mình đang có.

– Luôn biết vươn lên, không đầu hàng trước nghịch cảnh.


ÔNG ĐỒ
(Vũ Đình Liên)

I. Tác giả, tác phẩm.

1. Tác giả Vũ Đình Liên.

– Vũ Đình Liên (1913 – 1996), quê gốc là ở Hải Dương nhưng sống chủ yếu ở Hà Nội, là một trong những nhà thơ lớp đầu tiên của phong trào thơ mới, là nhà thơ xuất sắc của nền văn học Việt nam thế kỷ XX.

Phong cách nghệ thuật: Thơ Vũ Đình Liên mang nặng nỗi niềm xưa, nỗi niềm hoài cổ, hoài vọng.

2. Bài thơ “Ông Đồ”.

– Hoàn cảnh sáng tác: Vũ Đình Liên viết bài thơ ông đồ năm 1936. Từ đầu thế kỉ XX, nền văn Hán học và chữ Nho ngày càng suy vi trong đời sống văn hóa Việt Nam, khi mà Tây học du nhập vào Việt Nam, có lẽ vì đó mà hình ảnh những ông đồ đã bị xã hội bỏ quên và dần vắng bóng. Vũ Đình Liên đã viết bài thơ Ông đồ thể hiện niềm ngậm ngùi, day dứt về cảnh cũ, người xưa.

– Bố cục 3 phần:

+ Phần 1 (Hai khổ thơ đầu): Hình ảnh ông đồ thời Nho học còn thịnh hành, thịnh thế.

+ Phần 2 (Hai khổ tiếp theo): Hình ảnh ông đồ khi Nho học suy vi (lụi tàn).

+ Phần 3 (Còn lại): Tâm tư thầm kín, niềm tiếc thương tác giả gửi gắm.

– Nội dung: Tác phẩm khắc họa thành công hình cảnh đáng thương của ông đồ thời vắng bóng, đồng thời gửi gắm niềm thương cảm chân thành của nhà thơ trước một lớp người dần đi vào quá khứ, khơi gợi được niềm xúc động tự vấn của nhiều độc giả.

Xem văn bản: Cảm nhận bài thơ “Ông đồ” của Vũ Đình Liên.

II. Phân tích bài thơ.

1. Hình ảnh ông đồ thời Nho học còn thịnh hành, đắc ý (khổ 1 và 2):

– Thời gian: Mùa xuân với hoa đào nở.

– Không gian: phố đông người, rộn ràng, nhộn nhịp, đông vui, náo nhiệt lúc xuân về.

– Hành động: Bày mực tàu, giấy đỏ – công cụ chủ yếu của các nhà nho.

“Lại”: xuất hiện thường xuyên, liên tục, đã quen thuộc. → Hình ảnh gần gũi, quen thuộc trong mỗi dịp tết đến xuân về thưở xưa.

“Bao nhiêu người thuê viết….khen tài”: Sự thịnh thế của Hán học, các nhà Nho khẳng định vị trí của mình trong lòng người, đó là những con người được ngưỡng mộ vì tài năng, học vấn.

– Nhịp thơ nhanh: Giữa không khí náo nức, ông đồ như một người nghệ sĩ, mang hết tài năng của mình hiến cho cuộc đời.

→ Ông đồ góp phần không nhỏ trong việc gợi không khí náo nhiệt truyền thống, nét văn hóa không thể bỏ qua của mùa xuân trong tâm thức cổ truyền của dân tộc.

2. Hình ảnh ông đồ khi Nho học suy vi, lụi tàn (khổ 3 và 4):

“Nhưng mỗi năm mỗi vắng”: từ nhưng tạo bước ngoặt trong cảm xúc người đọc, sự suy vi ngày càng rõ nét, người ta có thể cảm nhận một cách rõ ràng, day dứt nhất.

“Người thuê viết nay đâu?”: câu hỏi thời thế, cũng là câu hỏi tự vấn.

→ Sự đối lập của khung cảnh với 2 khổ đầu: Nỗi niềm day dứt, vẫn ông đồ xưa, vẫn tài năng ấy xuất hiện nhưng không cần ai thuê viết, ngợi khen.

“Giấy đỏ …nghiên sầu”: Hình ảnh nhân hoá, giấy bẽ bàng sầu tủi, mực buồn đọng trong nghiên hay chính tâm tình của người nghệ sĩ buồn đọng, không thể tan biến được.

“Ông đồ… khong ai hay”: ông đồ vẫn cố níu kéo nét đẹp vàng sơn, xưa cũ nhưng không còn ai ngớ ngàn tới.

“Lá bàng…mưa bị bay”: Tả cảnh ngụ tình – nỗi lòng của ông đồ. Đây là hai câu thơ đặc sắc nhất của bài thơ. Lá vàng rơi gợi sự cô đơn, tàn tạ, buồn bã, mưa bụi bay gợi sự ảm đạm, lạnh lẽo

→  Tâm trạng con người u buồn, cô đơn, tủi phận.

3. Tâm sự thầm kín, niềm tiếc thương tác giả gửi gắm.

– Thời gian: Mùa xuân với hoa đào nở (“lại”: sự lặp lại tuần hoàn của cảnh thiên nhiên).

– Hình ảnh: Không thấy – phủ nhận sự có mặt của một người đã từng trở thành niềm ngưỡng vọng.

Kết cấu đầu cuối tương ứng làm nổi bật chủ đề bài thơ.

“Những người muôn năm cũ…bây giờ?”: Câu hỏi đặt ra dường như không phải để tìm một câu trả lời, đó như một niềm than thân, thương phận mình.

→ Câu hỏi tu từ nhằm bộc lộ niềm tiếc thương, day dứt hết sức chân thành của tác giả trước sự suy vi của Nho học đương thời.

III. Tổng kết.

1. Nội dung.

– Bài thơ “Ông đồ” với hình cảnh đáng thương của ông đồ thời vắng bóng, thể hiện sâu sắc với tình cảnh đáng thương của ông đồ và niềm thương cảm, nuối tiếc của tác giả với nét văn hóa truyền thống của dân tộc.

2. Nghệ thuật.

– Thể thơ 5 chữ, kết hợp với ngôn ngữ bình dị và súc tích

– Giọng thơ trầm lắng, ngậm ngùi

– Kết cấu độc đáo, đầu cuối tương ứng

– Sử dụng biện pháp nhân hóa kết hợp với việc lựa chọn hình ảnh giản dị nhưng mang tính biểu tượng.

3. Liên hệ văn học:

– Bài thơ “Nhớ rừng” (Thế Lữ)

4. Liên hệ bản thân:

– Yêu mến nền văn hóa truyền thống của dân tộc.

– Giữ gìn những giá trị tốt đẹp của văn hóa truyền thống.


QUÊ HƯƠNG
(Tế Hanh)

I. Tác giả, tác phẩm.

1. Tác giả Tế Hanh.

– Tế Hanh (1921- 2009), quê tỉnh Quảng Ngãi. Ông có mặt trong phong trào thơ Mới ở chặng cuối với những bài thơ mang nỗi buồn và tình yêu quê hương.

Phong cách nghệ thuật: Thơ Tế Hanh chân thực với cách diễn đạt bằng ngôn ngữ giản dị, tự nhiên và rất giàu hình ảnh, bình dị mà tha thiết.

2. Bài thơ “Quê hương”.

– Hoàn cảnh sáng tác: Bài thơ viết năm 1939, khi Tế Hanh đang học tại Huế trong nỗi nhớ quê hương-một làng chài ven biển tha thiết. Bài thơ được rút trong tập Nghẹn ngào (1939) và sau đó được in trong tập Hoa niên (1945)

– Bố cục 4 phần:

+ Phần 1 (2 câu đầu): Giới thiệu chung về làng quê.

+ Phần 2 (Khi trời trong… thâu góp gió): Cảnh dân chài bơi thuyền ra khơi đánh cá.

+ Phần 3 (Ngày hôm sau…thớ vỏ): Cảnh thuyền cá về bến.

+ Phần41 (Khổ thơ cuối): Nỗi nhớ làng chài, nhớ quê hương.

– Nội dung: Bài thơ đã vẽ ra một bức tranh tươi sáng, sinh động về một làng quê miền biển. Trong đó nổi bật lên hình ảnh khỏe khoắn, đầy sức sống của người dân chài và cảnh sinh hoạt lao động chài lưới. Qua đó cho thấy thấy tình cảm quê hương trong sáng, tha thiết của nhà thơ.

Xem văn bản: Cảm nhận bài thơ “Quê hương” của Tế Hanh.

II. Phân tích bài thơ.

1. Hình ảnh quê hương trong nỗi nhớ của tác giả (2 câu thơ đầu).

“Làng tôi ở vốn làm nghề chài lưới”: Cách gọi giản dị mà đầy thương yêu, giới thiệu về một miền quê ven biển với nghề chính là chài lưới

– Vị trí của làng chài: cách biển nửa ngày sông.

Cách giới thiệu tự nhiên nhưng cụ thể về một làng chài ven biển

2. Bức tranh lao động của làng chài.

a. Cảnh đoàn thuyền đánh cá ra khơi (2 câu cuối khổ 1 + khổ 2):

– Thời gian bắt đầu: Sớm mai hồng → gợi niềm tin, hi vọng.

– Không gian: “trời xanh”, “gió nhẹ”: thuận lợi cho việc ra khơi.

Người dân chài đi đánh cá trong buổi sáng đẹp trời, hứa hẹn một chuyến ra khơi đầy thắng lợi.

– Hình ảnh chiếc thuyền “hăng như con tuấn mã”: phép so sánh thể hiện sự dũng mãnh của con thuyền khi lướt sóng ra khơi, sự hồ hởi, tư thế tráng sĩ của trai làng biển

“Cánh buồn như mảnh hồn làng”: hồn quê hương cụ thể gần gũi, đó là biểu tượng của làng chài quê hương

– Phép nhân hóa “rướn thân trắng” kết hợp với các động từ mạnh: con thuyền từ tư thế bị động thành chủ động

– Nghệ thuật ẩn dụ: cánh buồm chính là linh hồn của làng chài

Cảnh tượng lao động hăng say, hứng khởi tràn đầy sức sống

b. Cảnh đoàn thuyền đánh cá trở về:

– Không khí trở về: ồn ào, tấp nập. Thể hiện không khí tưng bừng rộn rã vì đánh được nhiều cá và lòng biết ơn đối với biển cả cho người dân chài nhiều cá tôm

– Hình ảnh người dân chài và con thuyền:

+ “Da ngăm rám nắng”, “nồng thở vị xa xăm”: phép tả thực kết hợp với lãng mạn. Đó là vẻ đẹp khỏe khoắn vạm vỡ trong từng làn da thớ thịt của người dân chài

– Hình ảnh “con thuyền” được nhân hóa “im bến mỏi trở về nằm” kết hợp với nghệ thuật ẩn dụ chuyển đổi cảm giác. Con thuyền trở nên có hồn, có sức sống như con người cơ thể cũng nuộm vị nắng gió xa xăm.

Bức tranh sinh động về một làng chài đầy ắp niềm vui, gợi tả một cuộc sống bình yên, no ấm.

3. Nỗi nhớ quê hương da diết.

– Nỗi nhớ quê hương thiết tha của tác giả được bộc lộ rõ nét: Màu xanh của nước; Màu bạc của cá; Màu vôi của cánh buồm; Hình ảnh con thuyền; Mùi mặn mòi của biển.

– Những hình ảnh, màu sắc bình dị, thân thuộc và đặc trưng.

→ Nỗi nhớ quê hương chân thành da diết và sự gắn bó sâu nặng với quê hương.

III. Tổng kết.

1. Nội dung:

– Bài thơ “Quê hương” chứa chan tình cảm, tình yêu làng chài rộng hơn là tình yêu quê hương, đất nước vô cùng tươi sáng và sinh động. Tác giả đã vẽ nên một bức tranh tươi sáng và sức sống khỏe khoắn của người dân làng chài nơi đây. Trong đó, hình ảnh lao động chăm chỉ của người dân nổi bật sự phấn khởi của người dân nơi làng chài ven biển.

2. Nghệ thuật.

– Ngôn ngữ bình dị mà gợi cảm, giọng thơ khỏe khoắn hào hùng, hình ảnh thơ phong phú, giàu ý nghĩa.

– Sử dụng nhiều phép tu từ được sử dụng đạt hiệu quả nghệ thuật, tác giả đã vẽ nên một bức tranh tươi sáng và sinh động của làng quê ven biển, khắc họa bức tranh khỏe khắn, tươi mới, tràn đầy nhiệt huyết trong công việc của người dân làng chài.

– Đặc biệt là nỗi nhớ và tình cảm da diết của tác giả về quê hương qua việc sử dụng những từ ngữ thơ gần gũi, bình dị và trong sáng.

3. Liên hệ văn học:

– Bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” (Huy Cận).

– Bài thơ “Quê hương” (Đỗ Trung Quân).

– Bài thơ “Quê hương” (Giang Nam).

4. Liên hệ bản thân:

– Tình yêu quê hương, đất nước.


KHI CON TU HÚ
(Tố Hữu)

I. Tác giải, tác phẩm.

1. Tác giả Tố Hữu.

– Tố Hữu (1906 – 2002), quê tỉnh Thừa Thiên Huế, là nhà thơ tiêu biểu nhất của nền thơ Cách mạng Việt Nam thế kỷ XX.

Phong cách nghệ thuật: Thơ Tố Hữu bám sát cuộc sống và chiến đấu của nhân dân, mang tính chất trữ tình chính trị, cảm hứng lãng mạn ngọt ngào, đậm đà tính dân tộc.

2. Bài thơ “Khi con tu hú”.

– Hoàn cảnh sáng tác: Sang tác vào tháng 7 năm 1939 tại nhà lao Thừa Phủ, khi tác giả bị bắt giam.

– Bố cục 2 phần:

+ Phần 1 (6 câu đầu): Khung cảnh thiên nhiên vào hè.

+ Phần 2 (4 câu cuối): Tâm trạng người chiến sĩ trong tù.

– Nội dung: Bài thơ thể hiện niềm tin yêu cuộc sống thiết tha và sự khao khát tự do mãnh liệt của người chiến sĩ trong cảnh tù đầy.

Xem văn bản:  Cảm nhận bài thơ “Khi con tu hú” của Tố Hữu.

II. Phân tích bài thơ.

1. Khung cảnh thiên nhiên vào hè (6 câu đầu):

– Cảnh đất trời vào hè với nhiều âm thanh:

+ Âm thanh sinh động, rộn rã, tươi vui: Tiếng chim tu hú gọi bầy, tiếng ve ngân, tiếng sáo diều vi vu,…

+ Sắc màu tươi tắn, rực rỡ: Bắp rây vàng hạt, nắng đào đầy sân, trời xanh,…

– Hương vị đượm đà, ngọt ngào tinh khiết: trái cây ngọt dần,…

– Không gian đất trời cao rộng, khoáng đạt đầy tự do.

Kết hợp biện pháp tu từ cùng với những tính từ, từ láy ⇒ bức tranh trong tâm tưởng về mùa hè tươi đẹp của người chiến sĩ trong cảnh tù đày.

2. Người tù cách mạng khao khát tự do, đau khổ vì bị giam cầm.

– Từ ngữ mạnh: “đạp”, “ngột”, “chết”, “uất”: không gian ngột ngạt, bức bối.

– Từ ngữ cảm thán: “ôi”, “thôi”, “làm sao”,…: khát khao cháy bỏng.

Nghệ thuật tương phản cho thấy sự đối lập giữa cảnh đất trời bao la và cảnh tù đầy, người chiến sĩ khao khát tự do cháy bỏng, muốn đập tan mọi thứ để vượt thoát khỏi cảnh tù túng.

III. Tổng kết.

1. Nội dung:

– Bài thơ là bức chân dung tinh thần tự họa của Tố Hữu, cho chúng ta hiểu thêm về hình ảnh người chiến sĩ cách mạng anh hùng. Tuy đang phải sống trong cảnh lao tù nhưng người chiến sĩ cách mạng ấy vẫn tràn đầy sức sống, sức trẻ, chan chứa tình yêu con người, tình yêu cuộc sống.

2. Nghệ thuật:

– Thể thơ lục bát uyển chuyển, tự nhiên.

– Hình ảnh thơ gần gũi, giản dị mà giàu sức gợi, chuyển đổi tinh tế, khi thì trong sáng, tươi vui, khi thì dằn vặt, u uất.

– Giọng điệu thơ tự nhiên, dạt dào cảm xúc.

– Chi tiết nghệ thuật “tiếng chim tu hú” là một sáng tạo độc đáo, giàu ý nghĩa và sức gợi, tạo điểm nhấn cho bài thơ.

3. Liên hệ văn học:

– Bài thơ “Nhớ rừng” (Thế lữ).

4. Liên hệ bản thân:

– Tình yêu cuộc sống.

– Tinh thần vượt lên trên khó khăn, thử thách, hướng đến cuộc sống tự do.


TỨC CẢNH PÁC BÓ
(Hồ Chí Minh)

I. Tác giả, tác phẩm.

1. Tác giả Hồ Chí Minh.

– Hồ Chí Minh (1890- 1969), quê làng Kim Liên (làng Sen), xã Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An, là vị lãnh tụ vĩ đại, nhà ngoại giao xuất chúng, nhà quân sự tài ba, nhà văn, nhà thơ xuất sắc, anh hùng dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới.

Phong cách nghệ thuật: Thơ Bác hay viết về thiên nhiên đất nước với tình yêu tha thiết, niềm tự hào, lời thơ nhẹ nhàng, bay bổng, giàu chất lãng mạn.

2. Bài thơ “Tức cảnh Pác Bó”.

– Hoàn cảnh sáng tác: Sau ba mươi năm hoạt động cách mạng ở nước ngoài, tháng 2-1941 Bác Hồ trở về Tổ quốc, trực tiếp lãnh đạo phong trào cách mạng ở trong nước. Khi đó, Người sống và làm việc trong một điều kiện hết sức gian khổ nhưng Bác vẫn vui vẻ lạc quan. Bài thơ Tức cảnh Pác Bó là một trong những tác phẩm Người sáng tác trong thời gian này.

– Thể thơ: Thất ngôn tứ tuyệt Đường luật.

– Bố cục 2 phần:

+ Phần 1 (3 câu thơ đầu): Cuộc sống đơn sơ, giản dị của Bác ở hang Pác Bó.

+ Phần 2 (câu thơ cuối): Tinh thần lạc quan, phong thái ung dung, tự tại của người chiến sĩ cách mạng.

– Nội dung: Bài thơ thể hiện tinh thần lạc quan, phong thái ung dung của Bác trong cuộc sống cách mạng gian khổ.

Xem văn bản: Cảm nhận bài thơ “Tức cảnh Pác Bó” của Hồ Chí Minh.

II. Phân tích bài thơ.

1. Cuộc sống đơn sơ, giản dị của Bác ở hang Pác Bó (3 câu thơ đầu):

– Nơi sống: hang đá → Nơi sống đơn sơ, giản dị.

– Ăn uống: cháo bẹ, rau măng → Những thức ăn giản dị hằng ngày, mộc mạc, đơn sơ, dân dã thể hiện sự thiếu thốn, gian nan, vất vả.

– Công việc: dịch sử Đảng → Công việc vĩ đại, quan trọng.

– Điều kiện làm việc: bàn đá chông chênh → Khó khăn, thiếu thốn.

Sử dụng các cặp từ trái nghĩa, nhịp thơ linh hoạt, diễm tả lối sống đều đặn, quy củ của Bác. Hiện thực cảnh sinh hoạt bình dị, nề nếp, gian khổ, thiếu thốn nhưng hết sức lạc quan, tự tin, yêu đời, yêu thiên nhiên của người chiến sĩ cách mạng.

2. Tinh thần lạc quan, phong thái ung dung, tự tại của người chiến sĩ cách mạng (câu thơ cuối):

– Cuộc đời cách mạng được nhấn mạnh, Bác hoạt động cách mạng, một công việc không hề dễ dàng và đơn giản, đặc biệt trong hoàn cảnh gian khổ như vậy, thế mà người nghệ sĩ, chiến sĩ vẫn cảm thấy “sang”:

+ “Sang”: sống trong hoàn cảnh khó khăn nhưng Bác luôn cảm thấy thoải mái, sang trong và vui thích

+ Chữ “sang” thể hiện niềm vui, niềm tự hào khi thực hiện được lí tưởng của Bác.

Vẻ đẹp tinh thần lạc quan, phong thái ung dung của bác Hồ trong cuộc sống cách mạng gian lao ở Pác Bó.. Với người, làm cách mạng và sống hòa hợp với thiên niên là niềm vui lớn.

III. Tổng kết.

1. Nội dung:

“Tức cảnh Pác Bó” là bài thơ tứ tuyệt bình dị pha giọng vui đùa, cho thấy tinh thần lạc quan, phong thái ung dung của Bác Hồ trong cuộc cách mạng đầy gian khổ ở Pác Bó. Với Người, làm cách mạng và sống hòa hợp với thiên nhiên là niềm vui lớn.

2. Nghệ thuật:

– Ngôn ngữ thơ giản dị, trong sáng

– Là bài thơi tứ tuyệt bình dị, pha lẫn giọng đùa vui tươi, phấn chấn

– Ý thơ tự nhiên, phóng khoáng.

3. Liên hệ văn học:

– Bài thơ “Côn sơn ca” (Nguyễn Trãi).

– Bài thơ “Cảnh rừng Việt Bắc” (Hồ Chí Minh).

– Bài thơ “Ngắm trăng” (trích “Nhật kí trong tù” – Hồ Chí Minh).

– Bài thơ “Cảnh khuya” (Hồ Chí Minh).

4. Liên hệ bản thân:

– Tinh thần lạc quan, yêu đời, yêu cuộc sống.

– Ý chí vượt lên trên hoàn cảnh, tin tưởng ở ngày mai.


NGẮM TRĂNG
(Hồ Chí Minh)

I. Tác giả, tác phẩm.

(Xem ở trên).

1. Tác giả Hồ Chí Minh.

2. Bài thơ “Ngắm trăng”.

– Hoàn cảnh sáng tác: “Ngắm Trăng” là bài thơ số 20 trong tập thơ Nhật kí trong tù của Bác, sáng tác lúc Bác đang bị giam trong nhà tù Tưởng Giới Thạch, Trung Quốc

– Bố cục 2 phần:

+ Phần 1 (2 câu đầu): Hoàn cảnh ngắm trăng của Bác.

+ Phần 2 (2 câu sau): Sự giao hòa đặc biệt giữa người tù thi sĩ và trăng.

– Nội dung: Bài thơ thể hiện tình yêu thiên nhiên say mê và phong thái ung dung của Bác ngay cả trong cảnh tù đày.

Xem văn bản:  Cảm nhận bài thơ “Ngắm trăng” của Hồ Chí Minh.

II. Phân tích bài thơ.

1. Hoàn cảnh ngắm trăng của Bác (2 câu đầu):

– Hoàn cảnh: trong tù → không có tự do.

– Điều kiện: không rượu, không hoa → Thiếu thốn, không thuận tiện để ngắm trăng.

– Tâm trạng: “Khó hững hờ”:  Trước cảnh đẹp đẽ trong lành không thể nào hững hờ, không thể bỏ lỡ.

→ Dù khó khăn, thiếu thốn, Bác hướng tới ánh sáng, vươn tới cái đẹ của cuộc sống.

2. Sự giao hòa giữa người nghệ sĩ và trăng (2 câu sau):

“Nhân hướng song tiền khán minh nguyệt”: Người và trăng đối nhau qua khung cửa nhà tù → bộc lộ chất thép trong tâm hồn, vẫn bất chấp song sắt trước mặt để ngắm trăng.

– Nhân hóa “nguyệt tòng song khích khán thi gia”:  thể hiện trăng cũng giống như con người,cũng vượt qua song sắt nhà tù để tìm ngắm nhà thơ. Một sự hóa thân kì diệu, là giây phút thăng hoa tỏa sáng của tâm hồn nhà thơ, cho thấy sự giao thoa giữa người và trăng.

→ Nghệt thuật hết sức cân chỉnh thể hiện sức mạnh tinh thần kì diệu, phong thái ung dung của người chiến sĩ Cách mạng. Thông qua một khoảnh khắc ngắm trăng của thi sĩ, thể hiện cốt cách thanh cao vượt khỏi tù đầy hướng về tương lai tốt đẹp.

III. Tổng kết.

1. Nội dung:

– Bài thơ đã thể hiện tình yêu thiên nhiên, tinh thần lạc quan và phong thái ung dung tự tại của Bác trong cảnh ngục tù tối tăm.

2. Nghệ thuật:

– Sử dụng thể thơ thất ngôn tứ tuyệt giản dị

– Hình ảnh thơ trong sáng, đẹp đẽ. Ngôn ngữ lãng mạn

– Màu sắc cổ điển và hiện đại.

3. Liên hệ văn học:

– Bài thơ “Côn sơn ca” (Nguyễn Trãi).

– Bài thơ “Cảnh rừng Việt Bắc” (Hồ Chí Minh).

– Bài thơ “Tức cảnh Pác bó” (Hồ Chí Minh).

– Bài thơ “Cảnh khuya” (Hồ Chí Minh).

– Bài thơ “Rằm tháng giêng” (Hồ Chí Minh).

4. Liên hệ bản thân:

– Tình yêu thiên nhiên, cảnh vật.

– Tinh thần lạc quan, tin tưởng.


ĐI ĐƯỜNG
(Hồ Chí Minh)

I. Tác giả, tác phẩm.

(Xem ở trên).

1. Tác giả Hồ Chí Minh.

2. Bài thơ “Đi đường”.

– Hoàn cảnh sáng tác: “Đi đường” là bài thơ số 20 trong tập thơ Nhật kí trong tù của Bác, sáng tác nhằm ghi lại những lần Bác di chuyển giữa các nhà lao ở Quảng Tây

– Thể thơ: Thất ngôn tứ tuyệt Đường Luật.

– Bố cục 2 phần:

+ Hai câu thơ đầu: Nói đến sự gian lao như là điều hiển nhiên của người đi đường. Khó khăn, gian nan của người đi đường được cụ thể bằng hình ảnh lớp lớp núi non hiểm trở

+ Hai câu sau: Phần thưởng dành cho người biết nỗ lực. Khi đã vượt các lớp núi lên đến đỉnh cao chót vót thì muôn dặm nước non thu cả vào trong tầm mắt.

– Nội dung: Bài thơ khắc họa chân thực những gian khổ mà người tù gặp phải, đồng thời thể hiện thể hiện chân dung tinh thần người chiến sĩ cách mạng Hồ Chí Minh, nói lên ý nghĩa triết lí cao cả: từ việc đi đường núi mà hiểu được đường đời: Vượt qua gian lao thử thách sẽ đi được tới thắng lợi vẻ vang.

Xem văn bản:  Cảm nghĩ về bài thơ “Đi đường” của Hồ Chí Minh

II. Phân tích bài thơ.

1. Những khó khăn của việc đi đường (Hai câu thơ đầu):

“Tẩu lộ tài tri tẩu lộ nan” (Có đi đường mới biết đường khó đi): Đây không phải sự miêu tả con đường đơn thuần mà nhằm gợi lên những suy ngẫm sâu sắc.

– Điệp từ “tẩu lộ” nhấn mạnh việc đi đường rất gian khổ, chỉ có người từng trải mới cảm nhận được hết sự vất vả đó. Đó chính là ẩn dụ chỉ con đường Cách mạng, con đường đầy gian nan thử thách.

– “Trùng san chi ngoại hựu trùng san” (hết lớp núi này đến lớp núi khác):  có rất nhiều núi cao, hết núi cao này lại đến núi cao khác, khó khăn không giảm, không ngớt. Câu thơ thể hiện những khó khăn gian khổ, những chông gai mà người tù phải trải qua.

“Hựu trùng san”: khẳng định khó khăn không những không giảm đi mà còn có sự tăng cấp. Điệp từ “trùng san” cộng thêm từ “hựu” càng làm tăng thêm sự gian truân, khó nhọc, hiện lên trước mắt người đọc những ngọn núi cao trọc trời.

Khắc hoạ cái khó khăn chồng chất của người đi đường (vừa đi hết lớp núi này lại gặp ngay lớp núi khác). Các dãy núi nối tiếp cứ như bất tận, triền miên. Nhân vật trữ tình như đang cảm nhận một cách rõ ràng hơn cái khó khăn của đường đi nói chung và của con đường cách mạng nói riêng, để từ đó suy ngẫm về tinh thần của người chiến sĩ trước gian nan.

2. Ý chí vượt qua khó khăn và phần thưởng xứng đáng (Hai câu thơ sau):

“Trùng san đăng đáo cao phong hậu” (Khi đã vượt các lớp núi lên đến đỉnh cao chót vót: Diễn tả hoàn cảnh vượt mọi hoàn cảnh khó khăn gian khổ để “lên đến tận cùng”: Mọi gian khổ rồi sẽ kết thúc,mọi khó khăn sẽ lùi về sau.

– “Vạn lí dư đồ cố miện gian” (Muôn dặm nước non thu cả vào trong tầm mắt):

– Thấy rõ tứ thơ cổ điển “đăng cao” cùng phong hái ung dung chiếm lĩnh cảnh vật, hòa mình vào vũ trụ bao la, rộng lớn

– Con người như sánh ngang với thiên nhiên vũ trụ, ung dung giữa trời đất, ta không thấy ở đó bóng dáng của một người tù đang bị giam cầm trong thực tại mà chỉ thấy một tâm hồn tự do chiếm lĩnh.

→ Có trải qua gian khổ thì mới tới đích, càng gian khổ thì càng gần tới đích hơn. Từ việc đi đường, bài thê mang đến một chân lí đường đời đó là vượt qua được gian lao sẽ đi được tới thành công. 

III. Tổng kết.

1. Nội dung:

Đi đường là bài thơ tứ tuyệt giản dị mà hàm súc, mang ý nghĩa tư tưởng sâu sắc; từ việc đi đường núi đã gợi ra chân lí đường đời: vượt qua gian lao chồng chất sẽ tới thắng lợi vẻ vang.

2. Nghệ thuật:

– Sử dụng thể thơ thất ngôn tứ tuyệt Đường luật

– Kết cấu chặt chẽ

– Giọng điệu thơ biến đổi linh hoạt

– Hình ảnh sinh động, giàu ý nghĩa.

– Sử dụng nghệ thuật ẩn dụ, từ việc đi đường để khái quát lên một chân lí trong cuộc sống.

3. Liên hệ văn học:

– Bài thơ “Ngắm trăng” (Hồ Chí Minh).

– Bài thơ “Đập đá ở Côn Lôn” (Phan Châu Trinh).

– Bài thơ “Giải đi sớm” (trích “Nhật kí trong tù” – Hồ Chí Minh)


CHIẾU DỜI ĐÔ (Thiên đô chiếu)
(Lý Công Uẩn)

I. Tác giải, tác phẩm.

1. Tác giả Lý Công Uẩn.

– Lí Công Uẩn (974-1028) tức Lí Thái Tổ, quê quán: Là người châu Cổ Pháp, lộ Bắc Giang (nay là xã Đình Bảng, huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh). Ông là người khai sinh ra triều Lý ở nước ta.

– Sáng tác của ông chủ yếu là để ban bố mệnh lệnh, thể hiện tư tưởng chính trị lớn lao có ảnh hưởng đến vận nước

2. Tác phẩm “Chiếu dời đô”.

– Hoàn cảnh sáng tác: Năm 1010, Lí Công Uẩn quyết định dời đô từ Hoa Lư ra Đại La, đổi tên Đại Việt thành Đại Cồ Việt. Nhân dịp này ông đã viết bài chiếu để thông báo rộng rãi quyết định cho nhân dân được biết

– Bố cục 3 phần:

+ Phần 1 (Từ “Xưa nhà Thương” đến “không thể không dời đổi”): Đưa ra những lí do, cơ sở của việc dời đô.

+ Phần 2 (“Huống gì” đến “muôn đời”): Những lí do chọn Đại La làm kinh đô

+ Phần 3 (Còn lại): Thông báo quyết định dời đô

– Nội dung: Bài Chiếu phản ánh khát vọng của nhân dân về một dân tộc độc lập thống nhất đồng thời phản ánh ý chí tự cường của dân tộc Đại Việt trên đà lớn mạnh.

Xem văn bản: Lí do và mục đích dời đô từ Hoa Lư về Đại la của Lí Công Uẩn qua “Chiếu dời đô“.

II. Phân tích tác phẩm.

1. Những lí do, cơ sở của việc cần dời đô.

– Dời đô là việc thường xuyên xảy ra trong lịch sử và đem lại lợi ích lâu dài:

+ Nhà Thương: 5 lần dời đô.

+ Nhà Chu: 3 lần dời đô.

– Mục đích dời đô:

+ Kinh đô được đặt ở một nơi trung tâm của đất trời, phong thủy và khẳng định vị thế.

+ Thuận lợi cho sự nghiệp, mưu toan việc lớn.

+ Là nơi thích hợp để có thế tồn tại đất nước, tính kế muôn đời cho con cháu.

– Kết quả:

+ Vận mệnh đất nước được lâu dài.

+ Phong tục, tập quán, lối sống đa dạng, phồn thịnh.

– Nhà Đinh- Lê đóng đô một chỗ là hạn chế.

– Hậu quả:

+ Triều đại không lâu bền, suy yếu không vững mạnh dễ dàng bị suy vong.

+ Trăm họ hao tổn.

+ Số phận ngắn ngủi, không tồn tại.

+ Cuộc sống, vạn vật không thích nghi.

Dời đô là việc làm chính nghĩa, vì nước vì dân, nghe theo mệnh trời, thể hiện thực lực của nước ta lớn mạnh, ý chí tự cường.

2. Nguyên nhân chọn Đại La làm kinh đô.

– Các lợi thế của thành Đại La:

+ Về lịch sử: là kinh đô cũ của Cao Vương (Cao Biền – một bậc thầy địa lí phong thủy).

+ Về địa lí: Trung tâm trời đất, địa thế rộng mà bằng, đất cao mà thoáng, địa thế đẹp, lợi ích mọi mặt

+ Dân cư khỏi chịu cảnh ngập lụt, mọi vật phong phú, tốt tươi, là mảnh đất thịnh vượng. Đại La xứng đáng là nời  định đô bền vững, là trung tâm để phát triển, đưa đất nước phát triển phồn thịnh

– Bài Chiếu bên cạnh tính chất mệnh lệnh còn có tính chất tâm tình khi nhà vua hỏi qua ý kiến các quần thần

→ Luận cứ có tính thuyết phục vì được phân tích trên nhiều mặt. Chọn Đại La làm kinh đô là một lựa chọn đúng đắn, nên đây xứng đáng là kinh đô bậc nhất của đế vướng muôn năm.

III. Tổng kết.

1. Nội dung.

–  Bài chiếu như một lời tâm sự của nhà vua với nhân dân, quần thần, cho thấy sự thấu tình đạt lí, thể hiện sự anh minh của nà vua trong sự nghiệp gây dựng đất nước.

2. Nghệ thuật.

– Chiếu dời đô là áng văn chính luận đặc sắc viết theo lối biền ngẫu, các vế đối nhau cân xứng nhịp nhàng. Cách lập luận chặt chẽ, lí lẽ sắc sảo rõ ràng. Dẫn chứng tiêu biểu giàu sức thuyết phục. Bài chiếu có sự kết hợp hài hòa giữa tình và lí.

3. Liên hệ văn học:

– Đoạn trích “Hịch tướng sĩ” (Trần Quốc Tuấn).

– Đoạn trích “Nước đại Việt ta” (Nguyễn Trãi).

4. Liên hệ bản thân:

– Học tập tích cực, rèn luyện tu dưỡng đạo đức để kế tục sự nghiệp xây dựng quê hưêng đất nước.


HỊCH TƯỚNG SĨ (Hịch tướng sĩ văn)
(Trần Quốc Tuấn)

I. Tác giả, tác phẩm.

1. Tác giả Trần Quốc Tuấn.

– Trần Quốc Tuấn (1231-1300) còn được gọi là Hưng Đạo Đại Vương, là danh tướng kiệt xuất đời Trần, anh hùng của dân tộc. Ông là Tổng chỉ huy quân đội nhà trần đánh tan hai cuộc xâm lược của quân Nguyên-Mông. Ông còn để lại bộ sách quý hiếm: Binh thư yếu lược.

2. Văn bản “Hịch tướng sĩ”.

– Hoàn cảnh sáng tác: Được viết vào khoảng thời gian trước cuộc kháng chiến chống quân Nguyên – Mông lần thứ hai (1285): Khi giặc Nguyên Mông sang xâm lược nước ta lần thứ hai, lúc này quân giặc rất mạnh muốn đánh bại chúng phải có sự đồng tình, ủng hộ của toàn quân, toàn dân, vì vậy Trần Quốc Tuấn đã viết bài hịch này để kêu gọi tướng sĩ hết lòng đánh giặc

– Thể loại: Hịch

– Bố cục 4 phần:

– Phần 1 (từ đầu đến “đến nay còn lưu tiếng tốt”): tác giả nêu ra các gương “trung thần nghĩa sĩ, bỏ mình vì nước” đã được lưu truyền trong sử sách để khích lệ lòng người.

– Phần 2 (từ “Huống chi ta” đến “ta cũng vui lòng”): từ việc phơi bày bộ mặt xấu xa của sứ giặc, tác giả bày tỏ lòng căm thù giặc sâu sắc.

– Phần 3 (từ “Các ngươi ở cùng ta” đến “không muốn vui vẻ phỏng có được không?”): từ khắc sâu mối gắn bó ân tình giữa chủ và tướng, tác giả phân tích rõ thiệt hơn, được mất, đúng sai để chấn chỉnh những sai lạc trong hàng ngũ tướng sĩ (từ “Các ngươi” đến “muốn vui vẻ phỏng có được không?”) và đi đến việc vạch ra đường hướng hành động đúng, hứa hẹn tương lai (từ “Nay ta bảo thật” đến “không muốn vui vẻ phỏng có được không?”).

– Phần 4 (từ “Nay ta chọn binh pháp” đến hết): nêu ra việc trước mắt phải làm và kết thúc bằng những lời khích lệ nghĩa khí tướng sĩ.

– Nội dung: Bài Hịch phản ánh tinh thần yêu nước nồng nàn của dân tộc trong cuộc kháng chiến chống quân xâm lược, thể hiện lòng căm thù giặc và ý chí quyết thắng.

Xem văn bản: Chứng minh: “Hịch tướng sĩ” thể hiện rõ tình yêu nước của vị chủ tướng

II. Phân tích tác phẩm.

1. Nêu gương sáng của trung thần nghĩa sĩ trong sử sách.

– Các gương trung thần nghĩa sĩ hi sinh vì chủ: Kỉ Tín, Do Vũ, Dự Nhượng, Kính Đức, Mông Kha, Cốt Đãi Ngột Lang… → Làm nổi bật tinh thần quên mình vì chủ, vì vua, vì nước.

2. Tình hình đất nước hiện tại và nỗi lòng của chủ tướng.

a. Tình hình đất nước hiện tại:

– Tội ác và sự ngang ngược của giặc: Đi lại nghênh ngang, sỉ mắng triều đình, bắt nạt tể phụ, đòi ngọc lụa, thu bạc vàng… → Bạo ngược, tham lam, vô đạo.

– Nghệ thuật: Ngôn từ gợi hình, gợi tả (Nghênh ngang, uốn lưỡi). Hình ảnh ẩn dụ đặc sắc (lưỡi cú diều, thõn dê chó). Giọng văn mỉa mai, châm biếm. Khắc hoạ sinh động hình ảnh kẻ thù, gợi cảm xúc căm phẫn cho người đọc, bộc lộ sự căm ghét, khinh bỉ.

b. Nỗi lòng chủ tướng:

– Được thể hiện rõ nét qua phần điệp với những câu văn biền ngắn gọn đối xứng cân chỉnh: “Ta thường tới bữa quên ăn…ta cũng cam lòng”

– Nghệ thuật: cấu trúc trùng điệp, giọng văn thống thiết cực tả niềm uất hận dâng lên trong lòng người chủ tướng, đồng thời khơi gợi sự đồng cảm ở người đọc, người nghe.

3. Phê phán biểu hiện sai lầm của tướng sĩ và nỗi lòng của vị chủ tướng.

a. Phê phán sai lầm của tướng sĩ.

– Phê phán hành động hưởng lạc, thái độ bàng quan trước vận mệnh đất nước.

– Ham thú vui tầm thường: chọi gà, cờ bạc, săn bắn, ruợu ngon…

Thái độ phê phán dứt khoát.

b. Nỗi lòng người chủ tướng:

– Khuyên: Biết lo xa. Tăng cường võ nghệ sẵn sàng chống giặc ngoại xâm.

– Khích lệ tinh thần trung quân ái quốc, giết giặc lập công.

– Cùng cảnh ngộ: khích lệ lòng ơn nghĩa, thuỷ chung của người chung hoàn cảnh.

– Thể hiện thái độ: Khuyên răn, bày tỏ thiệt hơn.  Mỉa mai, chế giễu thói hư tật xấu. Nghiêm khắc cảnh báo

4. Kêu gọi tướng sĩ.

– Vạch rõ ranh giới giữa hai con đường chính và tà ⇒ kêu gọi, khích lệ tinh thần tướng sĩ

III. Tổng kết.

1. Nội dung.

– Hịch tướng sĩ của Trần Quốc Tuấn phản ánh tinh thần yêu nước nồng nàn của dân tộc ta trong cuộc chiến chống ngoại xâm, thể hiện lòng căm thù giặc, ý chí quyết chiến, quyết thắng kẻ thù xâm lược.

2. Nghệ thuật.

“Hịch tướng sĩ” là một áng văn chính luận xuất sắc. Lập luận chặt chẽ, lĩ lẽ rõ ràng, giàu hình ảnh, có sức thuyết phục cao. Kết hợp hài hoà giữa lí trí và tình cảm. Lời văn giàu hình ảnh nhạc điệu. Thủ pháp so sánh, tương phản, biện pháp trùng điệp – tăng tiến, các điệp từ, điệp ngữ, điệp ý được sử dụng triệt để nhằm tạo ra âm hưởng cho bài hịch, đồng thời gợi, khắc sâu vào tâm trí người đọc.

3. Liên hệ văn học:

– Đoạn trích “Nước đại Việt ta” (Nguyễn Trãi).

“Chiếu dời đô” (Lý Công Uẩn)

4. Liên hệ bản thân:

– Tinh thần yêu nước, ý chí chống kẻ thù xâm lược.


NƯỚC ĐẠI VIỆT TA
(Trích “Bình ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi)

I. Tác giả, tác phẩm.

1. Tác giả Nguyễn Trãi.

– Nguyễn Trãi ( 1380-1442), quê quán làng Nhị Khê, huyện Thường Phúc nay là huyện Thường Tín, tỉnh Hà Tây (cũ). Ông là một nhà chính trị tài ba, nhà quân sự kiệt xuất, nhà văn nhà thơ xuất sắc, anh hùng giải phóng dân tộc.

Phong cách nghệ thuật: Thơ Nguyễn Trãi mang nhiều tư tưởng yêu nước, thể hiện những triết lí sâu sắc, tinh tế lãng mạn, sáng tạo và thanh khiết.

2. Đoạn trích “Nước Đại Việt ta”.

– Hoàn cảnh sáng tác: Đầu năm 1428, sau khi quân ta đại thắng, Nguyễn Trãi đã thừa lệnh vua Lê Thái Tổ (Lê Lợi) soạn thảo Bình Ngô đại cáo để thông cáo với toàn dân về sự kiện có ý nghĩa trọng đại này.

– Thể loại: Cáo

– Bố cục 3 phần:

+ Phần 1: Hai câu đầu: Tư tưởng nhân nghĩa

+ Phần 2: Tám câu tiếp theo: Chân lí về sự tồn tại độc lập của đất nước

+ Phần 3: Sáu câu cuối: Minh chứng cho sức mạnh nhân nghĩa của dân tộc

– Nội dung: Đoạn trích Nước Đại Việt ta có ý nghĩa như một bản tuyên ngôn độc lập: Nước ta là đất nước có nền văn hiến, có lãnh thổ riêng, phong tục riêng, có chủ quyền, có truyền thống lịch sử…bất kì hành động xâm lước trái đạo lí nào của kẻ thù đều sẽ phải chịu một kết cục thất bại.

Xem văn bản: Chứng minh: Đoạn trích “Nước Đại Việt” ta là một áng văn tràn đầy niềm tự hào dân tộc

II. Phân tích đoạn trích.

1. Nêu cao tư tưởng nhân nghĩa.

“Yên dân”:  làm cho nhân dân được hưởng thái bình, hạnh phúc

“Trừ bạo”: Diệt mọi thế lực tàn bạo để giữ yên cuộc sống cho nhân dân

Nhân nghĩa là lo cho dân vì dân, là yêu nước, chống quân xâm lược là ngăn chặn mọi thế lực có thể làm hại đến dân, cho nhân dân hưởng thái bình hạnh phúc.

2. Chân lí về sự tồn tại độc lập có chủ quyền.

– Lời thơ khẳng định chân lí về sự độc lập của dân tộc thông qua việc chứng minh đất nước ta là một đất nước có:

+ Có nền văn hiến riêng.

+ Có biên cương, lãnh thổ riêng.

+ Có phong tục, tập quán riêng

+ Có lịch sử lâu đời

+ Có triều đình, chế độ, chủ quyền riêng.

→ Chứng cứ hùng hồn giàu sưc thuyết phục, lời thơ đanh thép thể hiện ý chí của dân tộc, lời văn biền ngẫu nhịp nhàng khẳng định Đại Việt là một quốc gia có độc lập chủ quyền, là một nước tự lực tự cường, có thể vượt mọi thử thách để đi đến độc lập.

3. Sức mạnh của nhân nghĩa, sức mạnh của độc lập dân tộc.

– Sức mạnh làm cho kẻ thù thất bại thảm hại, sức mạnh ấy đập tan mọi khó khăn mọi thử thách. Đó là hậu qủa của những kẻ xâm lược phi nghĩa làm trái mệnh trời, những kẻ dám làm tổn hại đến dân tộc ta chắc chắn không có kết quả tốt đẹp.

III. Tổng kết.

1. Nội dung:

– Đoạn trích Nước Đại Việt ta chính là bản tuyên ngôn độc lập hào hùng nhất của cha ông ta: nước ta là đất nước có nền văn hiến, có lãnh thổ riêng, phong tục riêng, có chủ quyền, có truyền thống lịch sử…bất kì hành động xâm lước trái đạo lí nào của kẻ thù đều sẽ phải chịu một kết cục thất bại.

– Bài cáo với khí thế bừng bưng, lòng tự hào, tự tôn dân tộc sâu sắc đã cho thấy sức sống mạnh mẽ, vững bền của dân tộc ta trong lịch sự xây dựng và bảo vệ đất nước. Trải qua nhiều thế kỉ nhưng Bình Ngô đại cáo vẫn giữ nguyên giá trị – bản đại cáo tuyên ngôn độc lập của dân tộc.

2. Nghệ thuật:

– Thể văn biền ngẫu

– Lập luận chặt chẽ, chứng cứ hùng hồn giàu sức thuyết phục

– Lời thơ đanh thép thể hiện ý chí của dân tộc

– Lời văn biền ngẫu nhịp nhàng.

3. Liên hệ văn học:

– Đoạn trích “Hịch tướng sĩ” (Trần Quốc Tuấn).

– “Chiếu dời đô” (Lý Công Uẩn).

4. Liên hệ bản thân:

– Ý thức về chủ quyền dân tộc, nền độc lập của đất nước.

– Yêu nước, quyết tâm bảo vệ đất nước.


BÀN LUẬN VỀ PHÉP HỌC (Luận học pháp)
(Nguyễn Thiếp)

I. Tác giả, tác phẩm.

1. Tác giả Nguyễn Thiếp.

– Nguyễn Thiếp (1723-1804) tự là Khải Xuyên, hiệu là Lạp Phong Cư Sĩ, người đương thời kính trọng gọi là La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiếp, là một học sĩ tài danh nổi tiếng. Ông quê quán làng Mật Thôn, xã Ao Nguyệt, huyện La Sơn (nay thuộc huyện Đức Thọ) tỉnh Hà Tĩnh.

2. Tác phẩm “Bàn luận về phép học”.

– Hoàn cảnh sáng tác: Nguyễn Thiếp làm quan một thời gian dưới triều Lê rồi về dạy học. Khi Quang Trung xây dựng đất nước đã viết thư mời ông giúp dân giúp nước về mặt văn hóa giáo dục, vì vậy tháng 8 năm 1971, Nguyễn Thiếp đã đang lên vua bản tấu này.

– Thể loại: Tấu

– Bố cục 3 phần:

+ Phần 1: Từ đầu đến “điều tệ hại ấy”: Mục đích của việc học.

+ Phần 2: Tiếp đến “xin chớ bỏ qua”: Bàn luận về cách học.

+ Phần 3: Còn lại: Tác dụng của việc học.

– Nội dung: Bài tấu giúp ta hiểu được mục đích của việc học là để làm người có đạo đức, có tri thức, góp phần xây dựng đất nước chứ không phải học để cầu danh lợi. Học tốt phải có phương pháp học đặc biệt học phải đi đôi với hành.

Xem văn bản: Từ bài “Bàn luận về phép học” của La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiếp, hãy nêu suy nghĩ về mối quan hệ của học và hành

II. Phân tích tác phẩm.

1. Mục đích của việc học.

– Khái quát mục đích của việc học: “Ngọc không mài, không thành đồ vật; người không học, không biết rõ đạo” . Đây là chân lí học tập đúng đắn có từ lâu đời.

– Chỉ bằng con đường học tập thì con người mới trưởng thành, là người có đạo đức.

– Học là một quá trình tất yếu, quy luật muôn đời.

– Phê phán lối học hình thức.

– Nêu lên hậu quả khôn lường của những lối học tiêu cực ấy.

Những lời bàn luận sâu sắc, nghiêm túc, xác đáng với tầm nhìn cao rộng, đầy tâm huyết với nước nhà.

2. Bàn luận về cách học.

– Phê phán những cách học sai lầm và nêu rõ mục đích tai hại của nó.

– Tác giả cũng đã trình bày quan điểm tích cực của mình về chủ trương phát triển sự học cho thật hiệu quả.

– Bên cạnh đó tác giả còn nêu lên chủ trương phát triển sự học sâu rộng khắp cả nước.

Về nội dung học, tác giả vẫn đi theo truyền thống cũ, không đưa ra điều gì mới mẻ mà chủ yếu là cải cách về phương pháp học.

3. Tác dụng của phép học.

– Mục đích học chân chính, cách học tích cực sẽ là cơ sở vững chắc cho đạo học, bồi dưỡng được nhân tài cho quốc gia.

Tin tưởng rằng, học chân chính nhất đinh trường tồn và cũng gửi gắm niềm hi vọng về tương lai tốt đẹp của đất nước.

III. Tổng kết.

1. Nội dung.

– Bài tấu giúp ta hiểu được mục đích của việc học là để làm người có đạo đức, có tri thức, góp phần xây dựng đất nước chứ không phải học để cầu danh lợi. Học tốt phải có phương pháp họ, học rộng nắm gọn, học phải đi đôi với hành.

2. Nghệ thuật.

– Lời bàn luận chân thật, thẳng thắn, lập luận chặt chẽ, lí lẽ rõ ràng.

– Ngôn ngữ giản dị, rõ ràng, ý tứ bộc lộ trực tiếp giàu sức thuyết phục.

3. Liên hệ văn học:

4. Liên hệ bản thân:

– Bản thân mỗi người nhất là học sinh cần chú trọng việc học tập, tu dưỡng để đưa đất nức ngày càng giàu đẹp bằng con đường học tập chân chính.


THUẾ MÁU
(Trích “Bản án chế độ thực dân Pháp” của Nguyễn Ái Quốc)

I. Tác giả, tác phẩm.

1. Tác giả Nguyễn Ái Quốc.

(Xem tác giải Hồ Chí Minh).

2. Tác phẩm “Thuế máu”.

– Hoàn cảnh sáng tác: Văn bản được trích trong “Bản án chế độ thực dân Pháp”, tác phẩm viết bằng tiếng Pháp vào khoảng những năm 1921-1925, được xuất bản lần đầu tiên vào năm 1925 tại Pháp, ở Việt Nam vào năm 1946.

– Bố cục 3 phần:

+ Phần 1: Chiến tranh và người bản xứ.

+ Phần 2: Chế độ lính tình nguyện.

+ Phần 3: Kết quả của sự hi sinh.

– Nội dung: Đoạn trích tố cáo bộ mặt giả dối, thủ đoạn của chính quyền thực dân Pháp trong việc biến người dân thuộc địa thành vật hy sinh cho lợi ích của chúng trong những cuộc chiến tranh phi nghĩa tàn khốc.

Xem văn bản:  Đọc hiểu văn bản “Thuế máu” (Nguyễn Ái Quốc)

II. Phân tích tác phẩm.

1. Chiến tranh và người bản xứ.

* Thân phận của người bản xứ:

+ Trước chiến tranh: họ là những tên “bọn da đen bẩn thỉu”, hay bọn “An-nam-mít”, bọn chỉ biết “kéo xe tay và ăn đòn” → Họ là một giống người hạ đẳng.

+ Sau khi chiến tranh xảy ra: họ được tôn vinh là những đứa “con yêu”, là những người “bạn hiền”, mang vinh dự là những “chiến sĩ tự do bảo vệ công lí” → Luận điệu lừa bịp, phỉnh dụ.

* Số phận của người dân thuộc địa:

+ Trên chiến trường tàn khốc: họ buộc phải xa gia đình, xa quê hương, người phơi thây ngoài chiến trường, kẻ chết khi vượt biển, bỏ xác tại nơi hoang vu, bị tàn sát không thương tiếc…

+ Ở hậu phương, họ bị bọn thực dân bóc lột, vắt kiệt sức trong các xưởng thuốc súng, bị nhiễm khí độc đến nỗi “khạc ra từng miếng phổi”.

Số phận thảm thương, bế tắc của những người dân thuộc địa.

2. Chế độ lính tình nguyện.

* Các thủ đoạn, mánh khóe của bọn thực dân:

– Các thủ đoạn vũ lực, mánh khóe vô lí để bắt ép người dân Đông Dương đi lính và vơ vét của cải của họ:

+ Chúng mở cuộc lùng ráp, vây bắt và cưỡng chế bằng vũ lực để ép người dân đi lính.

+ Chúng dùng mánh khóe trấn lột của cải của người dân bằng luận điệu: muốn không đi lính thì xì tiền ra.

+ Khi bị bắt, chúng trói, xích, đánh đập như súc vật, sẵn sàng đàn áp dã man nếu họ chống đối.

Vô nhân đạo, không từ một thủ đoạn tàn ác, coi mạng người như cỏ rác.

+ Giọng điệu xảo trá, đáng khinh khi chúng nói “các bạn đã tấp nập đầu quân…; không ngần ngại rời bỏ quê hương…”.

* Phản ứng của người dân:

+ Tìm mọi cách để trốn thoát khỏi vòng vây của bọn thực dân.

+ Sẵn sàng làm cho mình nhiễm những căn bệnh nặng nhất để không phải đi nhưng cuối cùng vẫn bị chúng bóc lột, vơ vét không từ thủ đoạn.

→ Họ không hề tình nguyện như lời phủ toàn quyền Đông Dương đã công bố trước toàn thế giới.

3. Kết quả của sự hi sinh.

– Một loạt các câu nghi vấn nhưng không hề có mục đích hỏi mà tác giả đang muốn khẳng định, vạch trần bộ mặt tráo trở, tàn nhẫn, xảo trá, vô nhân đạo, bỉ ổi của bọn thực dân Pháp đối với những người dân Việt Nam.

– Chúng thẳng thường tuyên bố: “Các anh đã bảo về Tổ quốc, thế là tốt. Bây giờ chúng tôi không cần các anh nữa, cút đi.”

– Chúng thậm chí còn ra sức vơ vét , gieo rắc vào đất nước ta những tệ nạn chết người.

Lời tố cáo thẳng thắn, quyết liệt của tác giả trước những tội ác của bọn thực dân, thái độ mỉa mai, châm biếm đến cực độ trước sựu gian xảo, bỉ ổi của chúng.

III. Tổng kết.

1. Nội dung.

– Đoạn trích Thuế máu của Bản án chế độ thực dân Pháp thấm đầy máu và nước mắt của người dân thuộc địa. Tiếng oán hờn thông thiết như thúc giục mọi người hãy thấm máu trên người, đứng dậy làm cách mạng đánh đuổi bọn thực dân, giành lấy quyền sống. Văn bản là tiếng nói chung, tiếng nói của công lí, là sự phẫn nộ của toàn dân tộc trước những mưu trò bỉ ổi của thực dân phong kiến với sự đồng cảm thương xót cho những lớp người bị áp bức

2. Nghệ thuật.

– Văn bản nghị luận với những luận điểm, luận cứ sắc sảo, chân thực, logic. Sử dụng những hình ảnh giàu giá trị biểu cảm. Giọng điệu khi mỉa mai châm biếm, khi chua xót uất hận.

3. Liên hệ văn học:

4. Liên hệ bản thân:


ĐI BỘ NGAO DU
(Trích “Ê-min hay Về giáo dục” – Ru-xô)

I. Tác giả, tác phẩm.

1. Tác giả:

– Ru-xô (1712-1778) là nhà văn, triết gia, nhà hoạt động xã hội nổi tiếng người Pháp.

2. Tác phẩm “Đi bộ ngao du”.

–  Hoàn cảnh sáng tác: Văn bản trích trong quyển V – quyển cuối cùng của tác phẩm Ê-min hay Về giáo dục, xuất bản năm 1762, bài viết bày tỏ quan điểm muốn ngao du học hỏi cần phải đi bộ.

– Bố cục 3 phần:

+ Phần 1 (Từ đầu đến “cho đôi bàn chân nghỉ ngơi”): Đi bộ ngao du sẽ cảm nhận được tất cả sự tự do.

+ Phần 2 (Từ “Đi bộ ngao du là đi như” đến “không thể làm tốt hơn”): Đi bộ ngao du là dịp để tích lũy, trau dồi kiến
thức.

+ Phần 3 (Đoạn còn lại): Đi bộ ngao du rất có lợi cho sức khỏe và tinh thần.

– Nội dung: Văn bản là minh chứng cho những tác dụng mà đi bộ mang lại cho con người, muốn ngao du cần phải đi bộ. Qua đó, thể hiện Ru-xô là một con người giản dị, quý trọng tự do và yêu thiên nhiên.

Xem văn bản: Suy nghĩ về những lợi ích của việc đi bộ qua văn bản “ĐI bộ ngao du” của Ruxô.

II. Phân tích tác phẩm.

1. Đi bộ ngao du rất thoải mái, được tự do thưởng ngoạn.

– Những trở ngại gặp phải và những cách khắc phục tương ứng:

+ Thời tiết xấu thì Đi ngựa.

+ Chán thì tìm những thứ để giải trí.

+ Mệt thì vận động hai cánh tay.

– Đi bộ ngao du tạo nên trạng thái tinh thần thoải mái, không bắt buộc, không phụ thuộc:

+ Muốn đi, muốn dừng nhiều tuỳ ý

+ Không phụ thuộc vào con người, phương tiện

+ Không phụ thuộc vào đường xá lối đi, chỉ phụ thuộc vào bản thân mình

+ Thoải mái hưởng thụ tự do trên đường đi

  Xưng hô “ta” đan xen “tôi” linh hoạt, cái chung gắn với cái riêng tạo sự gần gũi, tăng sức thuyết phục. Hệ thống lí lẽ và dẫn chứng được trình bày xen kẽ, tiếp nối một cách tự nhiên, vừa thuyết phục, vừa cho thấy sự sảng khoái, thoải mái, qua đó đã khẳng định được sự tự do tuyệt đối của việc đi bộ.

2. Đi bộ ngao du trau dồi kiến thức, tăng sự hiểu biết về thiên nhiên, cuộc đời.

– Đi bộ ngao du sẽ có dịp được trau dồi kiến thức:

+  Nêu dẫn chứng về nhà triết học, toán học nổi tiếng như Ta-let, Pla-tông, Pi-ta-go. Họ luôn quan sát và nghiền
ngẫm khi đi dạo chơi để viết nên những công trình và phát minh vĩ đại về triết học và toán học.

–  Đi bộ ngao du là một cách để hiểu biết khi xem xét tài nguyên phong phú trên các miền đất đi qua:

+ Tìm hiểu các sản vật nông nghiệp và cách trồng trọt.

+ Sưu tầm các mẫu vật phong phú, đa dạng của thế giới tự nhiên.

– Sự đối lập giữa phòng sưu tập của vua chúa và của Ê-min:

+ Phòng sưu tập của các vua chúa toàn những đồ linh tinh.

+ Phong sưu tập của Ê-min phong phú hơn- là cả trái đất, mỗi nơi mỗi vật ở đúng chỗ của nó.

 Việc đi bộ ngao du đã khiến các nhà khoa học thực thụ khác hẳn những nhà khoa học phòng khách hời hợt.

– Nghệ thuật lập luận: Các lí lẽ và dẫn chứng ở luận điểm này được nêu dồn dập, hòa quyện với thực tiễn cuộc sống. Các kiểu câu nghi vấn, câu cầu khiến,…  Các lời bình luận, thể hiện cảm xúc của tác giả.  Biện pháp so sánh “kiến thức linh tinh” trong các phòng sưu tập với sự phong phú của người đi bộ ngao du,…  Qua đó, tác giả đã thể hiện sự đề cao kiến thức qua thực tế khách quan, coi thường sách vở giáo điều. Từ đó, khích lệ mọi người đi bộ để mở mang kiến thức, làm giàu trí tuệ.

Đi bộ ngao du sẽ trau dồi vốn tri thức, mở mang tầm nhìn. Đồng thời tác giả cũng muốn đề cao kiến thức của các nhà khoa học am hiểu kiến thức thực tế.

3. Đi bộ ngao du tăng cường sức khỏe, tinh thần cho con người.

– Những kẻ ngồi trên xe ngựa: mơ màng, buồn bã, cáu kỉnh hoặc khổ đau. Những người đi bộ: vui vẻ, khoan khoái và hài lòng với mọi thứ

– Khẳng định muốn ngao du phải đi bộ, còn nếu chỉ đến một nơi nào đó thì có thể đi ngựa.

– Tác giả đã xây dựng hai hình tượng đối lập, hai trạng thái đối lập để khẳng định lợi ích tinh thần của người đi bộ
ngao du, từ đó góp phần nâng cao sức khỏe và khơi dậy niềm vui sống. Giọng điệu, ngôn ngữ đầy phấn chấn, vui vẻ và sảng khoái

Đi bộ ngao du giúp tinh thần thoải mái, rèn luyện được sức khỏe, tránh buồn bã cáu kỉnh, nếu mệt mỏi thì nên đi bộ ngao du sẽ thấy tâm hồn thoải mái thư giản và yêu đời.

III. Tổng kết.

1. Nội dung.

– Văn bản đã bàn đến những lợi ích từ việc đi bộ đem lại, đó là sự tự do và tinh thần thoải mái, rèn luyện sức khỏe, cơ hội được trau dồi kiến thức và hiểu biểt. Văn bản thể hiện rõ tác giả là một con người giản dị, quý trọng tự do và yêu thiên nhiên.

2. Nghệ thuật.

– Trình tự lập luận hợp lí, thể hiện được rõ nét tư tưởng của tác giả là lòng khát khao tự do. Dẫn chứng và lí lẽ trình bày xen kẽ, tiếp nối tự nhiên, thuyết phục. Phương thức biểu đạt chính là nghị luận, có đan xen tự sự và biểu cảm.  Đại từ nhân xưng “ta” dùng đan xen với “tôi”, bên cạnh những nhận định chung được bổ sung bằng những thể nghiệm cá nhân khiến cho chất nghị luận không bị khô cứng. Giọng điệu vui tươi, nhẹ nhàng, sảng khoái.

3. Liên hệ thực tế:

4. Liên hệ bản thân:

– Đi đây đi đó để học hỏi được nhiều điều mới mẻ và rèn luyện sức khỏe, tinh thần của bản thân.

Hãy bình luận đầu tiên

Để lại một phản hồi

Thư điện tử của bạn sẽ không được hiện thị công khai.